Tình trạng lo âu và ảnh hưởng của lo âu trên những cặp vợ chồng đến khám vô sinh tại bệnh viện Hùng Vương

42,6% người chồng và 62,5% người vợ không thoải mái về mặt tinh thần. Riêng với tình trạng lo âu, 3,7% người chồng (5/136) và 9,6% người vợ (13/136) có lo âu. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Brennan D.Peterson(6), của Beutel(10) và của T.Wischmann(12). Điều này có thể được giải thích bởi những áp lực mà người phụ nữ phải gánh chịu nhiều hơn và nặng nề hơn so với nam giới: áp lực từ bản thân, từ xã hội, đặc biệt là từ phía người chồng và gia đình chồng. Tỷ lệ đối tượng bị lo âu trong khảo sát thấp hơn khi so sánh với nghiên cứu của H.Volgsten và cộng sự tại Thuỵ Điển(9) cho kết quả 4,9% nam giới và 14,8% phụ nữ. Riêng ở phụ nữ, một số nghiên cứu ở Châu Á như nghiên cứu của Hidehiko Matsubayashi tại Nhật Bản(6) ghi nhận 38,6% phụ nữ vô sinh bị rối loạn về mặt cảm xúc, trong khi đó tại Đài Bắc, 23,2% phụ nữ có lo âu khi đến phòng khám HTSS theo báo cáo của Ting-Hsiu Chen(3). Sự khác biệt có thể vì văn hóa khác nhau, cách nhìn nhận vấn đề cũng như những phương pháp hỗ trợ tâm lý về mặt xã hội cũng sẽ khác nhau; công cụ đánh giá tâm lý khác nhau; ảnh hưởng bởi những yếu tố khác (kinh tế, học vấn, lo lắng khác về công việc ) Tình trạng lo âu ở người vợ không liên quan với sự Quan tâm - Chăm sóc của chồng (p = 0,105) nhưng lại liên quan một cách có ý nghĩa với sự Kiểm soát - Ap chế của chồng (p = 0,019). Theo nghiên cứu của Gulseren L ở Thổ Nhĩ Kỳ(5), những phụ nữ vô sinh có mối quan hệ không tốt với chồng thường có biểu hiện Cách thức đương đầu với vô sinh : Nam giới thường có tâm lý vững vàng và mạnh mẽ hơn phụ nữ, bên cạnh đó, sự quan tâm của họ có lẽ cũng ít hơn nên vì thế tinh thần họ sẽ thoải mái hơn. Bằng chứng là ít nam giới hơn phụ nữ có tình trạng lo âu (3,7% so với 9,6%), ngoài ra tỷ lệ nam giới không thoải mái về mặt tinh thần cũng ít hơn phụ nữ (42,6% so với 62,5%). Chính vì vậy, họ ít khi cần phải tìm kiếm những cách thức để đương đầu với tình trạng vô sinh hay phải nhờ đến sự hỗ trợ về tâm lý để giảm bớt tình trạng lo âu. Về phía người phụ nữ, họ có xu hướng bị ảnh hưởng về mặt cảm xúc nhiều hơn nam giới khi phải đối diện với tình trạng vô sinh(5). Trong nghiên cứu này, nhóm người vợ lo âu sử dụng hình thức “Tránh né chủ động” nhiều hơn nhóm không lo âu một cách có ý nghĩa, đây là một yếu tố dự báo mức độ stress cao theo L.Schmidt(8).

pdf5 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 167 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình trạng lo âu và ảnh hưởng của lo âu trên những cặp vợ chồng đến khám vô sinh tại bệnh viện Hùng Vương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 219 TÌNH TRẠNG LO ÂU VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA LO ÂU TRÊN NHỮNG CẶP VỢ CHỒNG ĐẾN KHÁM VÔ SINH TẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG Nguyễn Thị Như Ngọc*, Nguyễn Thanh Hiệp** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Vô sinh được biết đến như là một nguyên nhân gây căng thẳng nghiêm trọng mà các cặp vợ chồng đang phải gánh chịu. Đã có nhiều nghiên cứu trên thế giới về tình trạng rối loạn tâm lý ở những cặp vợ chồng vô sinh, tuy nhiên vấn đề này vẫn ít được quan tâm ở nước ta. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm tìm ra tỷ lệ lo âu ở những cặp vợ chồng vô sinh, đồng thời khảo sát những ảnh hưởng của lo âu trên mối quan hệ vợ chồng và cách thức họ đương đầu với vấn đề nầy. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang thực hiện trên 136 cặp vợ chồng vô sinh lần đầu tiên đến khám tại khoa Hiếm Muộn bệnh viện phụ sản Hùng Vương từ 01/10/2009 đến 29/04/2010. Kết quả: Tỷ lệ lo âu được tìm thấy 3,7% ở nhóm người chồng và 9,6% ở nhóm người vợ, trong đó 2,2% đều có lo âu cả hai vợ chồng. Ở người vợ có mối tương quan giữa tình trạng lo âu và sự kiểm soát – áp chế từ người chồng, nhưng chúng tôi không tìm thấy mối tương quan giữa lo âu ở người chồng với sự kiểm soát – áp chế hay được sự quan tâm – chăm sóc từ người vợ. Trong bốn hình thức đương đầu với vô sinh, nhóm người vợ sử dụng hình thức “đương đầu chủ động” nhiều hơn ở người chồng. Riêng ở người vợ, nhóm có lo âu sử dụng hình thức “Tránh né chủ động” nhiều hơn nhóm không lo âu, ngoài ra không có sự khác biệt nào giữa hai nhóm về các hình thức đương đầu còn lại. Ở người chồng không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa lo âu với viêc sử dụng 4 hình thức đương đầu. Kết luận: Tình trạng lo âu chiếm tỷ lệ cao ở phụ nữ và có liên quan đến một số yếu tố có thể làm nặng thêm tình trạng này như: điều kiện kinh tế, thời gian vô sinh, sự kiểm soát – áp chế của người chồng đối với người vợ. Do đó việc nhận biết các yếu tố này sẽ giúp làm giảm tình trạng lo âu ở các cặp vợ chồng vô sinh cũng như góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả điều trị. Từ khóa: Vô sinh, rối loạn tâm lý. ABSTRACT PSCHYCHOLOGICAL DISORDERS IN INFERTILE COUPLES COME TO THE INFERTILITY CLINIC OF HUNG VUONG HOSPITAL Nguyen Thi Nhu Ngoc, Nguyen Thanh Hiep * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 – 2011: 219 - 223 Background: Childlessness is known as a potential cause of stress that many couples are currently suffering. Many studies about pschychological disorders were undertaken in infertile couples in several countries, but little is known in Viet Nam. This study aims to determine the prevalance of anxiety as well as its impacts on marital relationships and how to cope with infertility in childless couples. Patients and Method: A cross – sectional survey on 136 infetile couples first come to the infertility clinic of Hung Vuong hospital was done from 01/10/2009 to 29/04/2010. * ThS. BS. Giảng viên Bộ môn Dịch Tễ Học Lâm Sàng, ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch; ** TS. BS. Phó Trưởng Phòng Nghiên Cứu Khoa Học và Hợp Tác Quốc Tế - Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch - ĐT: 0902652435 Tác giả liên lạc: ThS.BS. Nguyễn Thị Như Ngọc Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 220 Results: Prevalence of anxiety was 3.7% in male, 9.6% in female, in which only three couples (2.2%) both have anxiety in both. In wives, there was significant relationship between anxiety and control manner from their husbands (p =0.019) but we did not find out any similar concern in husbands. Among four ways of coping, active-confronting was used more frequently in female than in male (p = 0.000). Specially in women, there was significant diferrence in using active-avoidance pattern between anxiety group and non anxiety group (p = 0.000). Conclusions: In general, anxiety disorder was high in women and related to some factors such as: economic condition, infertility duration, and control manner from their husbands, which might raise the level of this state. Therefore, the indentification of these one would help to reduce psychological disorders in infertile couples as well as contribute to increase the outcome of their treatment. Key words: infertility, pschychological disorders. ĐẶT VẤN ĐỀ Hiện nay việc tìm hiểu tâm lý của những người bị vô sinh (đặc biệt là người phụ nữ) ngày càng được quan tâm ở nhiều nươc trên thế giới. Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng mức độ trầm cảm ở những phụ nữ vô sinh thường cao, mức độ lo âu và trầm cảm ở họ tương đương với những phụ nữ bị ung thư hay có bệnh lý tim mạch(7). Tuy nhiên, ở nước ta, hiện nay việc tìm hiểu tâm lý bệnh nhân vô sinh trước và trong khi điều trị dường như vẫn chưa được chú ý nhiều, và cũng ít có nghiên cứu nào thống kê về tỷ lệ những cặp vợ chồng vô sinh có vấn đề về tâm lý. Nghiên cứu này nhằm tìm ra tỷ lệ có rối loạn tâm lý ở những cặp vợ chồng vô sinh, đồng thời khảo sát những ảnh hưởng của tình trạng này trên mối quan hệ vợ chồng và cách thức họ đương đầu với vấn đề vô sinh. ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên những cặp vợ chồng vô sinh khám lần đầu tiên tại khoa Hiếm Muộn Bệnh viện phụ sản Hùng Vương từ 01/10/2009 đến 29/04/2010. Cở mẫu 136 cặp vợ chồng được xác định dựa vào công thức xác định một tỷ lệ với p = 14,8% (tỷ lệ bị lo âu ở người vợ trong số những cặp vợ chồng điều trị vô sinh ở Thụy Điển theo nghiên cứu của H.Volgten và cộng sự từ năm 2005 - 2007)(9). Tình trạng lo âu: được đánh giá dựa trên Thang điểm Zung tự đánh giá lo âu. Mức độ quan tâm, chăm sóc và sự kiểm soát, áp chế trong mối quan hệ vợ chồng: dựa vào Thang điểm Intimate Bond Measure (IBM) đánh giá mối quan hệ vợ chồng(8). Biến số nghiên cứu được thu thập qua phỏng vấn trực tiếp bằng bảng câu hỏi soạn sẳn gồm 88 câu chia làm 5 phần:  Phần 1: Thông tin chung (13 câu).  Phần 2: Đánh giá sức khoẻ tinh thần chung (12 câu).  Phần 3: Đánh giá lo âu (20 câu).  Phần 4: Đánh giá mối quan hệ vợ chồng (24 câu).  Phần 5: Đánh gía cách thức đương đầu với vấn đề vô sinh (19 câu). KẾT QUẢ Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu : 136 cặp vợ chồng - Tuổi: tuổi trung bình của người chồng là 33,07 ± 5,51 trong đó tập trung nhiều nhất ở lớp tuổi 30-34 tuổi (37,5%). Ở người vợ, độ tuổi trung bình trẻ hơn so với người chồng (30,29±5,16) và 41,9% trong độ tuổi 25-29. - Trình độ học vấn: phân bố tương tự nhau trong nhóm người chồng và người vợ, Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 221 và hơn 50% các cặp vợ chồng có trình độ từ cấp III trở lên, trong đó tỷ lệ học trên cấp III chiếm nhiều nhất (31,6% - 33,1%). - Nghề nghiệp: không có đối tượng thất nghiệp trong dân số nghiên cứu. Chiếm tỷ lệ cao nhất ở cả 2 nhóm vợ và chồng là công nhân – viên chức (48,5% -52%), kế đến là nhóm lao động tự do (bao gồm: thợ may, thợ hồ, thợ làm tóc, buôn bán). Nhóm tự kinh doanh (gồm kinh doanh mỹ phẩm, vật liệu xây dựng) chiếm tỷ lệ tương đương ở nhóm vợ và chồng (8-11,8%). - Kinh tế gia đình: gần 90% các cặp vợ chồng có tình trạng kinh tế gia đình vừa đủ sống, trong khi đó những cặp vợ chồng có mức sống khá giả và khó khăn chiếm một tỷ lệ nhỏ ngang nhau (5,1%). - Nơi cư trú: đối tượng nghiên cứu đến từ 22 quận, huyện trong thành phố Hồ Chí Minh, trong đó cư trú nhiều nhất tại quận 11 và huyện Hóc Môn (cùng chiếm tỷ lệ 10,3%). - Tôn giáo: ở người chồng và người vợ tương tự nhau: nhóm không theo tôn giáo chiếm tỷ lệ cao nhất khoảng 70%. Đặc điểm về tiền căn sản khoa của các cặp vợ chồng: Đặc điểm về tiền sử khám hiếm muộn trước đây: CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN TÂM LÝ: Các áp lực gia đình phải gánh khi vô sinh, các vấn đề khác đang lo lắng ngoài vô sinh CHỒNG VỢ YẾU TỐ KHẢO SÁT Tần số Tỷ lệ (%) Tần số Tỷ lệ (%) Các áp lực gia đình phải gánh khi vô sinh Không 120 88,2 111 81,6 Có 16 11,8 25 18,4 Đang lo lắng về các vấn đề khác ngoài vấn đề vô sinh: Không 109 80,1 109 80,1 Có 27 19,9 27 19,9 Vấn đề lo lắng của các cặp vợ chồng khi đến khám và điều trị tại BV phụ sản Hùng Vương - Tình trạng lo âu chiếm tỷ lệ không cao trong trong nhóm đối tượng lần đầu đến khám vô sinh tại BV phụ sản Hùng Vương, trong đó tỷ lệ lo âu ở người vợ (9,6%) cao gần gấp ba lần so với người chồng (3,7%). Khảo sát các mối tương quan: - Khảo sát các mối tương quan giữa lo âu với các đặc điểm về trình độ học vấn, điều kiện kinh tế gia đình, áp lực gia đình và tiền căn khám vô sinh thì có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tình trạng lo âu giữa nhóm có kinh tế gia đình khó khăn và nhóm đủ sống trở lên (p = 0,002). - Thời gian vô sinh trung bình ở nhóm có lo âu cao hơn nhóm không lo âu, sự khc biệt ny cĩ ý nghĩa thống k (p = 0,021). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 222 - Mối tương quan giữa lo âu và mối quan hệ vợ chồng: Vợ Chồng Mối quan hệ vợ chồng Lo âu Điểm trung bình p Điểm trung bình p 29,35 0,105 29,74 Quan tâm - Chăm sóc Không Có 25,38 32,20 0,309 13,46 0,019 16,95 Kiểm soát - Ap chế Không Có 18,08 22,40 0,065 Mối tương quan giữa các hình thức đương đầu với vô sinh ở người vợ và người chồng Hình thức đương đầu Nhóm Điểm trung bình Độ lệch chuẩn t p 3,02 2,463 Tránh né chủ động Vợ Chồng 2,60 2,563 1,399 0,163 4,88 2,517 Tránh né bị động Vợ Chồng 4,37 2,570 1,644 0,101 11,72 4,510 Đương đầu chủ động Vợ Chồng 9,08 4,676 4,739 0,000 9,89 3,187 Đương đầu có ý nghĩa Vợ Chồng 9,10 3,396 1,970 0,050 BÀN LUẬN 42,6% người chồng và 62,5% người vợ không thoải mái về mặt tinh thần. Riêng với tình trạng lo âu, 3,7% người chồng (5/136) và 9,6% người vợ (13/136) có lo âu. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Brennan D.Peterson(6), của Beutel(10) và của T.Wischmann(12). Điều này có thể được giải thích bởi những áp lực mà người phụ nữ phải gánh chịu nhiều hơn và nặng nề hơn so với nam giới: áp lực từ bản thân, từ xã hội, đặc biệt là từ phía người chồng và gia đình chồng. Tỷ lệ đối tượng bị lo âu trong khảo sát thấp hơn khi so sánh với nghiên cứu của H.Volgsten và cộng sự tại Thuỵ Điển(9) cho kết quả 4,9% nam giới và 14,8% phụ nữ. Riêng ở phụ nữ, một số nghiên cứu ở Châu Á như nghiên cứu của Hidehiko Matsubayashi tại Nhật Bản(6) ghi nhận 38,6% phụ nữ vô sinh bị rối loạn về mặt cảm xúc, trong khi đó tại Đài Bắc, 23,2% phụ nữ có lo âu khi đến phòng khám HTSS theo báo cáo của Ting-Hsiu Chen(3). Sự khác biệt có thể vì văn hóa khác nhau, cách nhìn nhận vấn đề cũng như những phương pháp hỗ trợ tâm lý về mặt xã hội cũng sẽ khác nhau; công cụ đánh giá tâm lý khác nhau; ảnh hưởng bởi những yếu tố khác (kinh tế, học vấn, lo lắng khác về công việc) Tình trạng lo âu ở người vợ không liên quan với sự Quan tâm - Chăm sóc của chồng (p = 0,105) nhưng lại liên quan một cách có ý nghĩa với sự Kiểm soát - Ap chế của chồng (p = 0,019). Theo nghiên cứu của Gulseren L ở Thổ Nhĩ Kỳ(5), những phụ nữ vô sinh có mối quan hệ không tốt với chồng thường có biểu hiện Cách thức đương đầu với vô sinh : Nam giới thường có tâm lý vững vàng và mạnh mẽ hơn phụ nữ, bên cạnh đó, sự quan tâm của họ có lẽ cũng ít hơn nên vì thế tinh thần họ sẽ thoải mái hơn. Bằng chứng là ít nam giới hơn phụ nữ có tình trạng lo âu (3,7% so với 9,6%), ngoài ra tỷ lệ nam giới không thoải mái về mặt tinh thần cũng ít hơn phụ nữ (42,6% so với 62,5%). Chính vì vậy, họ ít khi cần phải tìm kiếm những cách thức để đương đầu với tình trạng vô sinh hay phải nhờ đến sự hỗ trợ về tâm lý để giảm bớt tình trạng lo âu. Về phía người phụ nữ, họ có xu hướng bị ảnh hưởng về mặt cảm xúc nhiều hơn nam giới khi phải đối diện với tình trạng vô sinh(5). Trong nghiên cứu này, nhóm người vợ lo âu sử dụng hình thức “Tránh né chủ động” nhiều hơn nhóm không lo âu một cách có ý nghĩa, đây là một yếu tố dự báo mức độ stress cao theo L.Schmidt(8). Tương tự nghiên cứu của Fatemeh Ramezanzadeh ở Iran(1) thời gian vô sinh trung bình của nhóm có lo âu cao hơn nhóm không lo âu, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p = 0,021); ở người chồng không tìm thấy sự tương quan này. Các nhà nghiên cứu còn ghi nhận rằng tình trạng lo âu thường xuất hiện sau 4-6 năm vô sinh và mức độ này càng trầm trọng hơn nếu thời gian vô sinh kéo Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 223 dài 6-7 năm. Nghiên cứu khác ở Hoa Kỳ của Berg BJ[1]. Khác với nghiên cứu của Gulseren L và cộng sự ở Thổ Nhĩ Kỳ(5), chúng tôi không tìm thấy mối tương quan có ý nghĩa giữa lo âu và áp lực gia đình ở cả hai nhóm người vợ và người chồng. Kết quả này có thể được giải thích do sự khác nhau về văn hoá giữa hai quốc gia cũng như do cỡ mẫu nghiên cứu nhỏ. Tương quan giữa lo âu và điều kiện kinh tế gia đình: Qua khảo sát chúng tôi thấy rằng điều kiện kinh tế gia đình khó khăn có liên quan với tình trạng lo âu ở người vợ, nhưng sự liên quan này không được tìm thấy ở người chồng. Lý giải cho kết quả trên, chúng tôi nghĩ rằng nguồn thu nhập của gia đình có thể được làm ra từ người chồng, hay người vợ hay cả hai vợ chồng, thế nhưng việc chi tiêu trong gia đình lại thường do người vợ đảm trách. Vì thế, khi kinh tế gia đình gặp khó khăn thì việc cân đối các khoản chi tiêu cũng sẽ trở nên khó khăn đối với người vợ và điều này có thể sẽ tạo thêm áp lực cho họ trong khi quán xuyến công việc gia đình. KẾT LUẬN Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy có tình trạng lo âu trong dân số nghiên cứu, tình trạng này chiếm 3,7% ở người chồng và 9,6% ở người vợ, trong đó 2,2% cặp lo âu cả hai vợ chồng. Tình trạng lo âu chiếm tỷ lệ cao ở phụ nữ và có liên quan đến một số yếu tố có thể làm nặng thêm tình trạng này như: điều kiện kinh tế, thời gian vô sinh, sự kiểm soát – áp chế của người chồng đối với người vợ. Do đó việc nhận biết các yếu tố này sẽ giúp làm giảm tình trạng lo âu ở các cặp vợ chồng vô sinh cũng như góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả điều trị. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Berg B. J, Wilson J.F. Psychological functioning across stages of treatment for infertility. J Behav Med. 1991 Feb;14(1):11-26. 2. Beutel M, Kupfer J, Kirchmeyer P, Kehde S, Kohn F. M, Schroeder-Printzen I, et al. Treatment-related stresses and depression in couples undergoing assisted reproductive treatment by IVF or ICSI. Andrologia. 1999 Jan;31(1):27-35. 3. Chen Ting Hsiu, Chang Sheng Ping, Tsai Chia Fen, Juang Kai Dih. Prevalence of depressive and anxiety disorders in an assisted reproductive technique clinic. Hum Reprod. 2004 October 1, 2004;19(10):2313-8. 4. Domar A. D, Zuttermeister P. C, Friedman R. The psychological impact of infertility: a comparison with patients with other medical conditions. J Psychosom Obstet Gynaecol. 1993;14 Suppl:45-52. 5. Gulseren L, Cetinay P, Tokatlioglu B, Sarikaya O. O, Gulseren S, Kurt S. Depression and anxiety levels in infertile Turkish women. J Reprod Med. 2006 May;51(5):421-6. 6. Matsubayashi Hidehiko, Hosaka Takashi, Izumi Shun-ichiro, Suzuki Takahiro, Makino Tsunehisa. Emotional distress of infertile women in Japan. Hum Reprod. 2001 May 1, 2001;16(5):966-9. 7. Peterson BD, Newton CR, Feingold T. Anxiety and sexual stress in men and women undergoing infertility treatment. Fertil Steril. 2007 Oct;88(4):911-4. 8. Schmidt L, Holstein BE, Christensen U, Boivin J. Communication and coping as predictors of fertility problem stress: cohort study of 816 participants who did not achieve a delivery after 12 months of fertility treatment. Hum Reprod. 2005 Nov;20(11):3248-56. 9. Vivien K VC, Hendrick,. Interfinity: Psychological Implications of diognosis and treatment. Clinical Manual of Women’s Mental Health2007. p. 115 - 25. 10. Volgsten H, Skoog Svanberg A, Ekselius L, Lundkvist O, Sundstrom Poromaa I. Prevalence of psychiatric disorders in infertile women and men undergoing in vitro fertilization treatment. Hum Reprod. 2008 Sep;23(9):2056-63. 11. Wilhelm K, Parker G. The development of a measure of intimate bonds. Psychol Med. 1988 Feb;18(1):225-34. 12. Wischmann T, Scherg H, Strowitzki T, Verres R. Psychosocial characteristics of women and men attending infertility counselling. Hum Reprod. 2009 Feb;24(2):378-85. 13.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftinh_trang_lo_au_va_anh_huong_cua_lo_au_tren_nhung_cap_vo_ch.pdf