Tình trạng mọc răng khôn
Chúng tôi nhận thấy các các chỉ số PI, GI,
BOP, PD, BM-MN ở nhóm răng khôn đã mọc
cao hơn nhóm răng khôn chưa mọc tại các thời
điểm trước phẫu thuật, sau phẫu thuật 1 tháng, 3
tháng và 6 tháng. Tuy nhiên sự khác biệt hầu hết
là không có ý nghĩa thống kê. Mặc dù vậy, kết
quả trên cũng phần nào cho thấy ảnh hưởng tiêu
cực của sự hiện diện của răng khôn lên sức khỏe
mô nha chu.
Kết quả của chúng tôi cũng nhận được sự
ủng hộ của một số tác giả khác. Trong một bài
báo của mình, Kaveri (2012) cho rằng chỉ cần
hiện diện răng khôn cũng đã cho thấy tác động
tiêu cực lên trên sức khoẻ nha chu(6). White RP
(2011) đã báo cáo rằng những người có răng
khôn đã mọc thì có nhiều khả năng có độ sâu
thăm dò nha chu cao hơn nói chung, đặc biệt ở
răng cối lớn thứ hai, và mức độ mất bám dính
lâm sàng lớn hơn so với những người có răng
khôn chưa mọc(17)
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 157 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình trạng mô nha chu các răng cối kế cận sau phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới lệch ngầm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 240
TÌNH TRẠNG MÔ NHA CHU CÁC RĂNG CỐI KẾ CẬN
SAU PHẪU THUẬT NHỔ RĂNG KHÔN HÀM DƯỚI LỆCH NGẦM
Nguyễn Hoàng Nam*, Phạm Anh Vũ Thụy**, Ngô Thị Quỳnh Lan***
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi tình trạng nha chu của sextant kế cận sau phẫu thuật nhổ răng khôn hàm
dưới và ảnh hưởng của các yếu tố: độ tuổi, vị trí, tình trạng mọc và biến chứng của răng khôn trước phẫu thuật.
Phương pháp: Nghiên cứu dọc theo dõi trong 6 tháng 38 bệnh nhân (19 nam, 19 nữ, tuổi trung bình 21,89
± 2,74) sau nhổ răng khôn hàm dưới lệch/ngầm. Vị trí, tình trạng mọc và biến chứng tại chỗ của răng khôn được
ghi nhận trước phẫu thuật. Tình trạng nha chu (PI, GI, BOP, PD, BM-MN) của sextant kế cận được đánh giá
trên lâm sàng và chiều cao xương ổ của răng cối lớn thứ hai kế cận đánh giá trên phim quanh chóp. Các chỉ số
được ghi nhận tại thời điểm trước phẫu thuật, sau phẫu thuật 1, 3 và 6 tháng.
Kết quả: Các chỉ số PI, GI, BOP, PD và BM-MN giảm dần có ý nghĩa từ thời điểm ban đầu đến 1tháng, 3
tháng và 6 tháng sau phẫu thuật (p < 0,05). Chiều cao xương ổ của răng cối thứ hai kế cận giảm sau phẫu thuật 1
tháng nhưng tăng lên có ý nghĩa sau 3 tháng và 6 tháng (p < 0,001). Biến chứng của răng khôn trước phẫu thuật
là yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến tình trạng nha chu của sextant kế cận trước và sau phẫu thuật.
Kết luận: Có sự cải thiện tình trạng nha chu của răng cối lớn thứ hai và sextant kế cận sau phẫu thuật nhổ
răng khôn hàm dưới mọc lệch/ngầm. Sự cải thiện cho thấy nhiều hơn trên nhóm bệnh nhân có răng khôn không có
biến chứng so với nhóm có biến chứng trước phẫu thuật.
Từ khóa: Tình trạng nha chu, Nhổ phẫu thuật, Răng khôn lệch/ngầm.
ABSTRACT
THE PERIODONTAL STATUS OF ADJACENT MOLARS AFTER IMPACTED MANDIBULAR THIRD
MOLAR SURGICAL EXTRACTION
Nguyen Hoang Nam, Pham Anh Vu Thuy, Ngo Thi Quynh Lan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 2 - 2014: 240 - 248
Objective: To evaluate the change in periodontal status of adjacent sextant of the impacted mandibular third
molar after surgical extraction and its association with patient age, and with the position, eruption level, and local
complications of the third molar at pre-surgical stage.
Methods: The study was based on a 6-month follow-up of 38 patients (19 males and 19 females, mean age
21.89 ± 2.74) recruited consecutively after surgical extraction of an impacted lower third molar. The third molar’s
pre-surgical position, eruption level and local complications were examined. Periodontal status (PI, GI, BOP, PD
and BM-MN) of all teeth in adjacent sextant was clinically evaluated and the adjacent second molar’s alveolar
bone-height was evaluated in periapical film. All measures were recorded at the time of surgery, postoperative 1
month, 3 months and 6 months.
Results: The values of PI, GI, BOP, PD and BM-MN were significantly reduced after 1 month, 3 months
and 6 months compared to baseline data. The adjacent second molar’s alveolar bone-height was decreased after 1
month but significantly increased after 3 months, 6 months. Pre-surgical local complications of impacted third
* Bộ môn NR-PTHM - Khoa RHM- ĐHYD Cần Thơ
** Bộ môn Nha Chu - Khoa RHM- ĐHYD Tp.HCM *** Bộ môn NKCS Khoa RHM- ĐHYD Tp.HCM.
Tác giả liên lạc: ThS Nguyễn Hoàng Nam ĐT: 097 697 0123 Email: nhnamdent@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 241
molar mostly affected peridontal status of the adjacent sextant.
Conclusion: There was a significant improvement of periodontal conditions of the second molar and adjacent
sextant after impacted third molar surgery. The improvement in the impacted third molar group with pre-surgical
local non-complications was better than those with pre-surgical local complications
Key words: periodontal status, surgical extraction, impacted mandibularthird molar
MỞ ĐẦU
Ngày nay, chỉ định phẫu thuật nhổ răng
khôn hàm dưới mọc lệch/ngầm nhằm giải quyết
và phòng ngừa các biến chứng được hầu hết các
nhà lâm sàng đưa ra và chấp nhận rộng rãi(4). Một
số nghiên cứu cho rằng nhổ sớm răng khôn hàm
dưới mọc lệch/ngầm có tác động tích cực trong
việc cải thiện sức khỏe mô nha chu phía xa răng
cối lớn thứ hai và các răng thuộc sextant kế
cận(1,9,10,11). Ngược lại, một số nghiên cứu khác kết
luận rằng việc nhổ răng khôn hàm dưới có thể
gây ra nhiều khiếm khuyết mô nha chu ở chân
phía xa của răng cối lớn thứ hai kế cận, làm giảm
chiều cao xương ổ răng, tăng mức độ mất bám
dính, cũng như tăng độ sâu túi nha chu ở mặt xa
răng này (14,16).
Với mong muốn tìm hiểu rõ hơn sự thay đổi
tình trạng nha chu của răng cối lớn thứ hai nói
riêng và các răng kế cận nói chung sau phẫu
thuật nhổ răng khôn hàm dưới trong điều kiện
thực tế tại Việt Nam, chúng tôi thực hiện nghiên
cứu này nhằm đánh giá: sự thay đổi các chỉ số
mảng bám (PI), chỉ số nướu (GI), chỉ số chảy máu
nướu khi thăm dò (BOP) của các răng thuộc
sextant kế cận; độ sâu túi nha chu (PD), khoảng
cách từ biểu mô bám dính đến mặt nhai (BM-
MN) và khoảng cách từ mào xương ổ răng đến
đường nối men xê măng (XO-MXM) của răng cối
lớn thứ hai kế cận; ảnh hưởng của các yếu tố: độ
tuổi, vị trí, tình trạng mọc và biến chứng của răng
khôn trước phẫu thuật đến tình trạng nha chu của
các răng thuộc sextant kế cận tại các thời điểm
sau phẫu thuật 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Mẫu nghiên cứu gồm 38 bệnh nhân (19 nam
và 19 nữ), tuổi từ 18 đến 30 (tuổi trung bình là
21,89 ± 2,74), có chỉ định và nhu cầu nhổ răng
khôn hàm dưới tại bộ môn Phẫu thuật miệng,
Khoa RHM, Đại học Y Dược Tp.HCM, thời gian
từ tháng 12/2012 đến tháng 07/2013.
Tiêu chí chọn mẫu
Bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên, có sức khoẻ tốt,
không sử dụng thuốc có ảnh hưởng đến sự chảy
máu và lành thương sau phẫu thuật. Có răng
khôn hàm dưới mọc lệch/ngầm, nghiêng gần với
đặc điểm số đo góc hợp bởi đường thẳng đi qua
mặt nhai răng khôn và mặt nhai răng cối lớn thứ
hai kế cận nằm trong khoảng từ 30o đến 90o.
Tiêu chí loại trừ
Bệnh nhân đang điều trị bệnh nha chu trong
thời gian nghiên cứu, có thai hoặc đang cho con
bú, không đến tái khám định kỳ theo đúng lịch
hẹn.
Trước phẫu thuật
Khám lâm sàng và khai thác bệnh sử ghi
nhận tình trạng biến chứng sưng, đau tại vùng
răng khôn cần nhổ; tình trạng răng khôn “đã
mọc” và “chưa mọc” bằng cách ghi nhận sự hiện
diện của răng khôn trong miệng. Chụp phim
quanh chóp đánh giá vị trí răng khôn dựa theo
phân loại của Pell và Gregory và chia thành loại I,
loại II, loại III (theo tương quan với cành đứng
xương hàm dưới); loại A, loại B, loại C (theo độ
sâu so với mặt nhai răng cối lớn thứ hai). Phân
thành loại I, II và III khi khoảng cách giữa bờ
trước cành lên XHD và phía xa R7 lần lượt đủ,
nhỏ hơn và hoàn toàn không có để cho khoảng
cách gần xa thân R8. Loại A có nghĩa là phần cao
nhất của R8 nằm ngang hoặc cao hơn mặt phẳng
nhai; loại B: phần cao nhất của R8 nằm dưới mặt
phẳng nhai nhưng trên đường viền cổ R7 và loại
C: phần cao nhất của R8 nằm dưới đường viền cổ
R7. Tính điểm răng khôn theo Montero như
sau(4): Loại I và loại A tính là 0 điểm. Loại II và
loại B tính là 1 điểm. Loại III và loại C tính là 2
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 242
điểm. Điểm số của răng khôn được tính bằng tổng
điểm số theo cả hai mối tương quan và chia thành
“Răng khôn nằm nông” khi điểm ≤ 1 và “Răng
khôn nằm sâu” khi điểm ≥ 2.
Khám và ghi nhận các chỉ số
PI (Loe và Silness - 1967): đánh giá tại các vị
trí: Xa-Ngoài, Xa-Trong, Giữa-Ngoài, Giữa-Trong
của các răng thuộc sextant kế cận răng khôn cần
phẫu thuật, gồm các giá trị: 0 điểm: Không hiện
diện mảng bám; 1 điểm: Mắt thường không thấy
mảng bám nhưng thấy được khi dùng đầu cây
thăm dò túi nha chu cạo trên bề mặt răng từ khe
nướu; 2 điểm: Mảng bám thấy được bằng mắt
thường (mỏng đến trung bình); 3 điểm: Mảng
bám, vụn thức ăn tích tụ nhiều. Ghi nhận giá trị
cao nhất của PI cho từng răng của sextant.
GI (Loe và Silness - 1963): đánh giá tại các vị
trí: Xa-Ngoài, Xa-Trong, Giữa-Ngoài, Giữa-Trong
của các răng thuộc sextant kế cận răng, gồm các
giá trị: 0 điểm: Nướu bình thường; 1 điểm: Nướu
viêm nhẹ: thay đổi nhẹ về màu sắc, hơi phù nề,
không chảy máu khi thăm dò. 2 điểm: Nướu
viêm trung bình: nướu đỏ, phù nề, chảy máu khi
thăm dò; 3 điểm: Nướu viêm nặng: nướu đỏ và
phù nề nhiều, lở loét, chảy máu tự phát. Ghi nhận
giá trị cao nhất của GI cho từng răng của sextant.
BOP: tỷ lệ phần trăm điểm có chảy máu khi
thăm dò, đánh giá tại các vị trí Xa-Ngoài, Xa-
Trong, Giữa-Ngoài, Giữa-Trong của các răng
thuộc sextant kế cận và được tính như sau: %BOP
= (số vị trí chảy máu khi thăm khám x 100)/tổng
số vị trí khám.
PD: ghi nhận bằng số đo khoảng cách từ viền
nướu đến đáy túi nha chu tại 4 vị trí trên răng cối
lớn thứ hai kế cận: Xa-Ngoài, Xa-Trong, Giữa-
Ngoài, Giữa-Trong.
BM-MN: được đo từ bờ trên của dấu khóa
khớp cắn cá nhân (có khoan sẵn các rãnh nhỏ
tương ứng với các vị trí Xa-Ngoài, Xa-Trong,
Giữa-Ngoài, Giữa-Trong) đến đáy túi nha chu
trên răng cối lớn thứ hai kế cận.
XO-MXM: ghi nhận bằng cách chụp phim
quang chóp với kỹ thuật chụp song song, được
chuẩn hóa bằng cách sử dụng bộ dụng cụ giữ
phim làm sẵn và dấu khóa khớp cắn cá nhân, kết
hợp với phương pháp vẽ nét – đo xác định
khoảng cách trên giấy (chuyên dùng trong chỉnh
hình răng mặt) và chồng xếp phim quanh chóp.
Hình 1. Bộ dụng cụ giữ phim X quang làm sẵn có
biến đổi 1: Vòng định vị; 2: Ống nhựa hình trụ thêm vào;
3: Cánh tay; 4: Phần giữ phim; 5: Dấu khóa khớp cắn cá
nhân. (Nguồn: chụp từ nghiên cứu này)
Hình 2. Vẽ nét phim quanh chóp A: đường nối men-xê
măng phía xa; B: đường nối men-xê măng phía gần; C:
rãnh ngoài răng cối lớn thứ hai kế cận; D: giao điểm giữa
mào xương ổ răng phía xa và đường viền phía xa chân
răng cối lớn thứ hai kế cận. (Nguồn: chụp từ nghiên cứu này).
Trong quá trình phẫu thuật
Tất cả các bệnh nhân tham gia nghiên cứu
đều được phẫu thuật theo cùng một qui trình
chuẩn được thực hiện thường qui và bởi cùng một
phẫu thuật viên, vạt được dùng là vạt tam giác.
Sau phẫu thuật
Bệnh nhân được hướng dẫn thực hiện theo
phiếu dặn dò và được cắt chỉ vào ngày thứ bảy,
hẹn tái khám 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng sau
phẫu thuật. Tại mỗi lần hẹn, bệnh nhân được
khám lâm sàng ghi nhận lại các chỉ số: PI, GI,
BOP, PD, BM-MN và chụp phim X quang quanh
chóp ghi nhận XO-MXM.
Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được phân tích bằng phần mềm thống
kê SPSS 16.0, phép kiểm có ý nghĩa thống kê khi
giá trị p < 0,05.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 243
KẾT QUẢ
Mẫu nghiên cứu gồm 38 bệnh nhân (19
nam, 19 nữ) từ 18 đến 30 tuổi (trung bình 21,89
± 2,74 tuổi) trong đó có 32 bệnh nhân dưới 25
tuổi (84,2%) và 6 bệnh nhân trên 25 tuổi
(15,8%). Số bệnh nhân có biến chứng tại chỗ là
24 (63,2%) và chưa có biến chứng là 14 (36,8%).
Trong 38 răng khôn, có 22 răng đã mọc (57,9%)
và 16 răng chưa mọc (42,1%). Tỷ lệ răng khôn
nằm nông là 60,5% (23 răng) và răng khôn nằm
sâu là 39,5% (15 răng).
Sự thay đổi của tình trạng nha chu
Chỉ số PI tại các thời điểm trước phẫu thuật,
sau phẫu thuật 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng lần
lượt là 1,47±0,69, 1,05±0,53, 0,73±0,38 và 0,51±0,21;
Chỉ số GI là 1,43±0,61, 0,92±0,43, 0,74±0,36 và
0,47±1,21; Chỉ số BOP là 28,62%, 14,31%, 5,76% và
2,14%; PD là 3,05 ± 0,70mm, 2,72 ± 0,39mm, 2,47 ±
0,42mm và 2,09 ± 0,35mm; BM-MN là 13,26 ±
0,91mm, 12,89 ± 0,71mm, 12,66 ± 0,69mm và
12,15 ± 0,55mm. Các chỉ số này giảm có ý nghĩa
thống kê từ thời điểm trước phẫu thuật đến sau
phẫu thuật 1 tháng, từ sau phẫu thuật 1 tháng
đến sau phẫu thuật 3 tháng và từ sau phẫu thuật
3 tháng đến sau phẫu thuật 6 tháng (p < 0,05).
Sau phẫu thuật 1 tháng, XO-MXM tăng từ
3,65±1,15mm lên 3,92±1,12mm có ý nghĩa thống
kê so với trước phẫu thuật (p < 0,001). Sau phẫu
thuật 3 tháng và 6 tháng, XO-MXM lần lượt giảm
xuống còn 3,26±0,88mm và 2,83±0,82mm, khác
biệt có ý nghĩa thống kê khi so sánh giữa các thời
điểm với nhau và cả với thời điểm trước phẫu
thuật (p < 0,001).
Ảnh hưởng của một số các yếu tố liên quan
Độ tuổi
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về
tình trạng nha chu của răng cối lớn thứ hai và các
răng thuộc sextant kế cận giữa hai nhóm nhỏ hơn
25 tuổi và lớn hơn 25 tuổi.
Vị trí răng khôn
Bảng 1: Ảnh hưởng của vị trí răng khôn đến tình trạng nha chu tại các thời điểm trước phẫu thuật, sau phẫu
thuật 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng
Trước PT Sau PT 1 Tháng Sau PT 3 Tháng Sau PT 6 tháng
Nằm nông Nằm sâu Nằm nông Nằm sâu Nằm nông Nằm sâu Nằm nông Nằm sâu
PI 1,50±0,65 1,43±0,76 1,12 ± 0,46 0,95 ± 0,63 0,78 ± 0,38 0,65 ±0,40 0,55±0,21 0,43±0,19
p(1) 0,78 0,35 0,31 0,09
GI 1,44±0,53 1,42±0,72 0,98 ±0,34 0,83 ± 0,53 0,76 ± 0,35 0,70 ±0,38 0,43±0,23 0,52±0,39
p(1) 0,89 0,31 0,62 0,42
BOP 30,71±23,15 25,42±30,57 15,22±15,97 12,92±21,19 5,16±8,35 6,67±9,87 1,36±3,24 3,33±7,03
p(2) 0,55 0,71 0,62 0,25
PD 3,01±0,68 3,12±0,74 2,65 ± 0,40 2,83 ± 0,36 2,49 ± 0,37 2,45 ±0,50 2,07±0,29 2,12±0,42
p(2) 0,76 0,23 0,98 0,82
BM-MN 13,11±0,77 13,50±1,08 12,65±0,60 13,25±0,73 12,47±0,57 12,95±0,79 12,09±0,48 12,55±0,64
p(2) 0,27 0,01 0,04 0,27
XO-MXM 3,08±0,88 4,51±1,06 3,30±0,81 4,87±0,84 2,82±0,75 3,93±0,59 2,45±0,69 3,39±0,67
p(2) <0,001 <0,001 <0,001 <0,001
(1): kiểm định t hai mẫu độc lập giữa hai nhóm răng nằm nông và nằm sâu. (2): kiểm định Mann Whitney hai mẫu độc
lập giữa hai nhóm răng nằm nông và nằm sâu.
Tình trạng mọc răng khôn
Bảng 2: Ảnh hưởng của tình trạng mọc răng khôn đến tình trạng nha chu tại các thời điểm trước phẫu thuật, sau
phẫu thuật 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng
Trước PT Sau PT 1 Tháng Sau PT 3 Tháng Sau PT 6 tháng
Đã mọc Chưa mọc Đã mọc Chưa mọc Đã mọc Chưa mọc Đã mọc Chưa mọc
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 244
PI 1,65±0,68 1,23±0,65 1,19±0,44 0,86±0,59 0,85±0,38 0,56±0,34 0,57±0,22 0,42±0,18
p(1) 0,067 0,056 0,021 0,035
GI 1,56±0,56 1,27±0,64 1,03±0,34 0,77±0,49 0,82±0,35 0,63±0,35 0,47±0,28 0,47±0,34
p(1) 0,146 0,055 0,101 0,978
BOP 34,38±24,61 20,70±26,69 17,33±17,14 10,16±18,80 5,97±8,51 5,47±9,65 1,99±4,04 2,34±6,40
p(2) 0,085 0,048 0,779 0,569
PD 3,17±0,70 2,89±0,69 2,77±0,34 2,66±0,46 2,56±0,41 2,36±0,43 2,14±0,33 2,02±0,37
p(2) 0,229 0,375 0,157 0,293
BM-MN 13,27±0,94 13,25±0,89 12,80±0,73 13,02±0,68 12,57±0,74 12,78±0,64 12,17±0,63 12,13±0,42
p(2) 0,941 0,351 0,359 0,804
XO-MXM 3,35±0,89 4,06±1,35 3,52±0,94 4,48±1,14 2,95±0,81 3,68±0,81 2,59±0,77 3,15±0,79
p(2) 0,058 0,007 0,01 0,035
(1): kiểm định t hai mẫu độc lập giữa hai nhóm răng nằm nông và nằm sâu. (2): kiểm định Mann Whitney hai mẫu độc
lập giữa hai nhóm răng nằm nông và nằm sâu.
Biến chứng
Tại thời điểm trước phẫu thuật, sau phẫu thuật 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng các chỉ số PI, GI, BOP, PD,
BM-MN ở nhóm có biến chứng cao hơn nhóm không biến chứng có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
Trước phẫu thuật và sau phẫu thuật 1 tháng, XO-MXM giữa hai nhóm khác biệt nhau không có ý
nghĩa thống kê (p > 0,05). Tại thời điểm sau phẫu thuật 3 tháng và 6 tháng XO-MXM ở nhóm có biến
chứng cao hơn nhóm không biến chứng có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Bảng 3: Ảnh hưởng của biến chứng (BC) đến tình trạng nha chu tại các thời điểm trước phẫu thuật, sau phẫu
thuật 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng
Trước PT Sau PT 1 Tháng Sau PT 3 Tháng Sau PT 6 tháng
BC (+) BC (-) BC (+) BC (-) BC (+) BC (-) BC (+) BC (-)
PI 1,81±0,64 0,89±0,21 1,28±0,52 0,66±0,27 0,86±0,42 0,50±0,14 0,56±0,24 0,41±0,12
p(1) <0,001 <0,001 0,001 0,01
GI 1,76±0,49 0,88±0,31 1,09±0,42 0,63±0,24 0,87±0,37 0,50±0,17 0,57±0,33 0,28±0,13
p(1) <0,001 <0,001 <0,001 0,001
BOP 42,71±22,47 4,46±6,68 19,27±16,16 5,80±18,26 9,75±1,99 0,0 6,11±1,25 0,0
p(2) <0,001 0,02 <0,001 0,01
PD 3,26±0,74 2,70±0,45 2,84 ± 0,34 2,52 ± 0,40 2,67 ± 2,28 2,14 ± 0,42 2,21±0,31 1,88±0,31
p(2) 0,01 0,01 <0,001 0,004
BM-MN 13,57±0,84 12,73±0,79 13,06 ± 0,70 12,59 ± 0,65 12,88 ± 0,64 12,29 ± 0,65 12,34±0,49 11,82±0,49
p(2) 0,005 0,04 0,01 0,007
XO-MXM 3,76±0,89 3,44±1,51 4,00±0,93 3,78±1,42 3,51±0,81 2,82±0,85 3,08±0,75 2,39±0,77
p(2) 0,477 0,567 0,018 0,011
(1): kiểm định t hai mẫu độc lập giữa hai nhóm răng có biến chứng và không có biến chứng. (2): kiểm định Mann
Whitney hai mẫu độc lập giữa hai nhóm có biến chứng và không có biến chứng.
BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu này, những bệnh nhân
được chọn với tiêu chí có răng khôn hàm dưới
lệch/ngầm, nghiêng gần từ 30o đến 90o. Với cách
chọn này, chúng tôi muốn giới hạn phạm vi
khảo sát trên những bệnh nhân có răng khôn
hàm dưới có nguy cơ cao với những biến chứng
không mong muốn. Chúng tôi sử dụng một dấu
khóa khớp cắn bằng nhựa acrylic làm riêng cho
từng bệnh nhân, trên đó có khoan sẵn các rãnh
nhỏ tương ứng với các vị trí Xa-Ngoài, Xa-Trong,
Giữa-Ngoài, Giữa-Trong và song song với trục
dọc của răng cối lớn thứ hai hàm dưới kế cận.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 245
Việc kết hợp sử dụng dấu khóa khớp cắn cá
nhân khi đo PD và BM-MN giúp cho các vị trí đo
có thể được lặp lại chính xác ở những lần đo
khác nhau trên lâm sàng. Chúng tôi sử dụng bộ
dụng cụ giữ phim làm sẵn gắn kèm dấu khóa
khớp cắn cá nhân để khảo sát chiều cao xương ổ
răng. Bằng cách này, chúng tôi có thể hạn chế tối
đa các chuyển động không mong muốn của
phim cũng như sự sai lệch góc độ khi chụp
phim, các phim tia X được đặt ở vị trí trung tâm
của vùng nhận tia, song song với trục dọc của
răng cối lớn thứ hai, vuông góc với mặt phẳng
nhai, đảm bảo được tính chính xác của những
hình ảnh thu được bằng phim quanh chóp và vị
trí này có thể lập lại trong những lần chụp phim
sau. Đồng thời, kết hợp phương pháp vẽ nét - đo
xác định khoảng cách từ mào xương ổ răng đến
đường nối men xê măng trên giấy và chồng xếp
phim quanh chóp tại các thời điểm trước và sau
phẫu thuật giúp chúng ta có một cái nhìn đầy đủ
về mức độ và chiều hướng thay đổi của mào
xương ổ răng phía xa răng cối lớn thứ hai kế cận
sau phẫu thuật nhổ răng khôn lệch/ngầm.
Sự thay đổi của các chỉ số PI, GI, BOP
Nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy có sự
cải thiện các chỉ PI, GI, BOP của sextant kế cận từ
trước phẫu thuật đến sau phẫu thuật 1 tháng, 3
tháng và 6 tháng. Nhiều nghiên cứu cũng có kết
quả tương đồng với kết quả này của chúng tôi.
Nghiên cứu của Nguyễn Tôn Việt (2012) cho
rằng việc phẫu thuật răng khôn hàm dưới mọc
lệch ảnh hưởng tích cực đến việc kiểm soát
mảng bám từ đó dẫn đến sự cải thiện tình trạng
viêm nướu(12). Blakey và cộng sự (2009) kết luận
rằng loại bỏ các răng khôn hàm dưới làm cải
thiện đáng kể tình trạng nha chu của mặt xa răng
cối lớn thứ hai kế cận và cũng ảnh hưởng tích
cực đến tình trạng nha chu tổng quát(1). Montero
và cộng sự (2011) kết luận rằng có sự cải thiện
dần chỉ số mảng bám và viêm nướu từ thời điểm
ban đầu đến 1 năm sau phẫu thuật(4).
Sự thay đổi của PD và BM-MN
Kết quả của chúng tôi cho thấy có sự cải
thiện PD và BM-MN của răng cối lớn thứ hai kế
cận từ trước phẫu thuật đến sau phẫu thuật 1
tháng, 3 tháng và 6 tháng. Kết quả này tương
đồng với các nghiên cứu trước đây của Nguyễn
Tôn Việt (2012), Phạm Nguyễn Quỳnh Anh
(2009) khi cho rằng có sự giảm PD ở các vị trí Xa-
Ngoài, Xa-Trong và Giữa-Trong của răng cối lớn
thứ hai kế cận ở các thời điểm 1 tháng và 3 tháng
sau phẫu thuật(12,15). Montero và cộng sự (2011)
cũng cho thấy sự cải thiện dần nhưng đáng kể
của PD từ trước phẫu thuật đến 1 năm sau phẫu
thuật và sự cải thiện này thì cao hơn nhiều ở
răng cối thứ hai kế cận so với những giá trị trung
bình ghi được ở 4 sextant phía sau(4).
Tuy nhiên, Wong Soo Yee (2009) lại kết luận
rằng không có sự thay đổi có ý nghĩa thống kê về
PD, mức độ bám dính lâm sàng ở 3 điểm phía
xa: Xa-Ngoài, Xa-Giữa và Xa-Trong của răng cối
lớn thứ hai kế cận trước và sau khi nhổ răng
khôn hàm dưới mọc lệch/ngầm(18). Sự khác biệt
về kết quả của các nghiên cứu có thể do cách
chọn mẫu khác nhau.
Kết quả từ nghiên cứu của chúng tôi trái
ngược với nghiên cứu của Peng (2001) và Kan
(2002) (5,14). Các tác giả này khảo sát răng cối lớn
thứ hai sau hơn 6 tháng nhổ răng khôn mọc
lệch/ngầm và dùng các răng đối bên làm nhóm
chứng trong khi các răng này có thể không đại
diện cho những thay đổi thật sự về về độ sâu túi
nha chu và mức độ bám dính lâm sàng.
Sự thay đổi của XO-MXM
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy XO-
MXM của răng cối lớn thứ hai kế cận tại thời
điểm sau phẫu thuật 1 tháng có sự tăng nhẹ so
với trước phẫu thuật, điều này có thể nghĩ do tác
động của phẫu thuật với việc khoan cắt rãnh
xương mặt ngoài răng khôn làm mất đi một
phần mào xương ổ răng tại vị trí này. Từ thời
điểm sau phẫu thuật 1 tháng đến sau phẫu thuật
3 tháng và 6 tháng, XO-MXM giảm dần. Điều
này có thể giải thích do tình trạng viêm gây ra
bởi sự hiện diện của răng khôn mọc lệch/ngầm
tại thời điểm trước phẫu thuật gây ra tình trạng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 246
mất khoáng, làm cho các cấu trúc xương trở nên
thấu quang hơn, đưa đến hình ảnh thiếu hổng
trên phim X quang; đến thời điểm 3 tháng và 6
tháng sau phẫu thuật, lúc này tình trạng viêm
phía xa răng cối lớn thứ hai kế cận đã được loại
bỏ, có sự lành thương và tái khoáng hóa của các
cấu trúc xương làm cho phần mào xương ổ răng
trở nên cản quang hơn, đưa đến hình ảnh sự cải
thiện chiều cao mào xương ổ răng trên phim X
quang tại các thời điểm sau phẫu thuật 3 tháng
và 6 tháng. Trong tương lai cần có những nghiên
cứu về mô học để kết luận chắc chắn điều này.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi nhận
được sự ủng hộ của Krausz và cộng sự (2005)
đã báo cáo rằng nhổ răng khôn hàm dưới đã
làm tăng đáng kể chiều cao xương ổ ở phía xa
răng cối lớn thứ hai kế cận ở bên thử nghiệm,
trong khi đó ghi nhận một mức độ tiêu xương
nhẹ ở bên đối chứng(7).
Trong khi đó, nghiên cứu của Wong Soo Yee
(2009), Gröndahl và Lekholm (1973) và
Kugelberg (1990) lại cho rằng không có những
thay đổi có ý nghĩa thống kê về chiều cao xương
ổ răng ở mặt xa răng cối lớn thứ hai kế cận sau
phẫu thuật nhổ răng khôn(3,8,18),. Nghiên cứu của
Peng KY (2001) cho rằng có sự tiêu xương ổ răng
đáng kể ở phía xa răng cối lớn thứ hai kế cận
trên phim X quang sau hơn 5 năm phẫu thuật(14).
Sự khác nhau giữa các kết quả nghiên cứu có
thể không những do sự khác nhau trong cách
chọn mẫu và thiết kế nghiên cứu mà còn do
phương pháp khảo sát và đo lường chiều cao
xương ổ răng khác nhau.
Ảnh hưởng của một số yếu tố liên quan
Độ tuổi
Trong nghiên cứu của chúng tôi không cho
thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê nào về
tình trạng nha chu của răng cối lớn thứ hai và
sextant kế cận giữa hai nhóm nhỏ hơn 25 tuổi và
lớn hơn 25 tuổi. Điều này có thể là do trong
nghiên cứu của chúng tôi đa số bệnh nhân đều
nhỏ hơn 25 tuổi (32 bệnh nhân, chiếm 84,2%), và
thời gian theo dõi ngắn.
Vị trí răng khôn
Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho rằng vị
trí của răng khôn là một trong những yếu tố
chính góp phần tác động đến tình trạng nha chu
ở thời điểm trước và sau phẫu thuật(4,10). Tuy
nhiên nghiên cứu của chúng tôi lại không tìm
thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai
nhóm răng khôn nằm nông và răng khôn nằm
sâu về các chỉ số PI, GI, BOP tại các thời điểm
trước phẫu thuật, sau phẫu thuật 1 tháng, 3
tháng và 6 tháng. Sự khác biệt này có thể do đa
số răng khôn trong nghiên cứu của chúng tôi
đều trong tình trạng đang hoặc vừa mới mọc (độ
tuổi từ 18 đến 25), vì vậy thời gian hiện diện của
răng khôn trên miệng ngắn, chưa ảnh hưởng
đến thói quen ăn nhai và vệ sinh răng miệng của
bệnh nhân và chưa có những tác động có thể gây
ảnh hưởng lâu dài đến mô nha chu xung quanh.
XO-MXM ở nhóm răng khôn nằm sâu cao
hơn nhóm răng khôn nằm nông có ý nghĩa
thống kê tại các thời điểm trước phẫu thuật, sau
phẫu thuật 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng. Điều này
có thể là do răng khôn nằm sâu chiếm chỗ và
làm giảm lượng xương phía xa của răng cối lớn
thứ hai kế cận nhiều hơn răng khôn nằm nông;
Ngoài ra, trong quá trình phẫu thuật, đối với
răng khôn nằm sâu phẫu thuật viên cần phải mở
rộng vạt nhiều hơn và/hoặc khoan cắt xương
nhiều hơn nên làm cho xương ổ răng và biểu mô
bám dính ở mặt xa răng cối lớn thứ hai kế cận bị
ảnh hưởng nhiều hơn so với nhóm răng khôn
nằm nông. Điều này cũng có thể làm cho BM-
MN ở nhóm răng khôn nằm sâu cao hơn nhóm
răng khôn nằm nông có ý nghĩa thống kê tại các
thời điểm sau phẫu thuật 1 tháng và 3 tháng.
Tình trạng mọc răng khôn
Chúng tôi nhận thấy các các chỉ số PI, GI,
BOP, PD, BM-MN ở nhóm răng khôn đã mọc
cao hơn nhóm răng khôn chưa mọc tại các thời
điểm trước phẫu thuật, sau phẫu thuật 1 tháng, 3
tháng và 6 tháng. Tuy nhiên sự khác biệt hầu hết
là không có ý nghĩa thống kê. Mặc dù vậy, kết
quả trên cũng phần nào cho thấy ảnh hưởng tiêu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 247
cực của sự hiện diện của răng khôn lên sức khỏe
mô nha chu.
Kết quả của chúng tôi cũng nhận được sự
ủng hộ của một số tác giả khác. Trong một bài
báo của mình, Kaveri (2012) cho rằng chỉ cần
hiện diện răng khôn cũng đã cho thấy tác động
tiêu cực lên trên sức khoẻ nha chu(6). White RP
(2011) đã báo cáo rằng những người có răng
khôn đã mọc thì có nhiều khả năng có độ sâu
thăm dò nha chu cao hơn nói chung, đặc biệt ở
răng cối lớn thứ hai, và mức độ mất bám dính
lâm sàng lớn hơn so với những người có răng
khôn chưa mọc(17).
Biến chứng
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
rằng tất các chỉ số PI, GI, BOP, PD, BM-MN,
XO-MXM đều được cải thiện sau phẫu thuật ở
cả hai nhóm có và không có biến chứng. Sự cải
thiện tình trạng nha chu ở nhóm không có
biến chứng cao hơn có ý nghĩa thống kê khi so
sánh với nhóm có biến chứng tại các thời điểm
trước phẫu thuật, sau phẫu thuật 1 tháng, 3
tháng và 6 tháng.
Kết quả tương tự cũng đã được báo cáo
trong nghiên cứu của Grondahl và Lekolm
(1973)(3). Ngoài ra, Kugelbert (1990) cho rằng khi
nhu cầu nhổ răng khôn được đặt ra, việc nhổ
sớm răng khôn khi chưa xuất hiện các biến
chứng sẽ mang lại hiệu quả có lợi cho tình trạng
nha chu của răng cối lớn thứ hai kế cận(8).
Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của chúng tôi
khác với một số nghiên cứu khác. Chin Quee TA
(1985), Osborne (1982), Richardson DT và Dotson
TB (2005) cho rằng tình trạng nha chu trên răng
cối lớn thứ hai kế cận không được cải thiện hay
trầm trọng hơn sau khi nhổ răng khôn ngay cả
trên những bệnh nhân không có biến chứng
trước phẫu thuật(2,13,16).
Tóm lại, qua nghiên cứu này chúng tôi
nhận thấy
Có sự cải thiện tình trạng nha chu của răng
cối lớn thứ hai và sextant kế cận sau phẫu thuật
nhổ răng khôn hàm dưới mọc lệch/ngầm.
Tình trạng nha chu của nhóm bệnh nhân
không có biến chứng tốt hơn so với nhóm có
biến chứng ở cả trước và sau khi phẫu thuật.
Mức độ khiếm khuyết xương ổ răng của
răng cối lớn thứ hai kế cận ở nhóm răng khôn đã
mọc ít hơn nhóm răng khôn chưa mọc ở cả trước
và sau khi phẫu thuật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Blakey GH, Parker DW, Hull DJ, White RP, Offenbacher S,
Phillips C, Haug RH (2009), Impact of removal of
asymptomatic third molars on periodontal pathology, J Oral
Maxillofac Surg, số 67(2), tr. 245-50.
2. Chin QTA, Gosselin D, Millar EP, và Stamm JW (1985),
Surgical removal of the fully impacted mandibular third
molar. The influence of flap design and alveolar bone height
on the periodontal status of the second molar, J Periodontal số
56, tr. pp. 625-630.
3. Grondahl HG Lekholm U (1973), Influence of mandibular
third molars on related supporting tissues, Int J Oral Surg, số
2(4), tr. 137-42.
4. Javier Montero và Giuseppe Mazzaglia (2011), Effect of
removing an impacted mandibular third molar on the
periodontal status of the mandibular second molar, American
Associatin of Oral and Maxillofacial Surgeons, số 69(11), tr.
pp. 2691-2697.
5. Kan KW, Liu JKS,Corbet EF, Lo ECM, và Leung WK (2002),
Residual periodontal defects distal to the mandibular second
molar 6-36 months after impacted third molar extraction,
Journal of Clinical Periodontology, số 29, tr. pp. 1004-1011.
6. Kaveri GS và Prakash S (2012), Third molars: a threat to
periodontal health??, J Maxillofac Oral Surg, số 11(2), tr. 220-3.
7. Krausz AA, Machtei EE, và Peled M (2005), Effects of lower
third molar extraction on attachment level and alveolar bone
height of the adjacent second molar, J Oral MaxillofacSurg, số
34, tr. pp. 756-760.
8. Kugelberg CF (1990), Periodontal healing two and four years
after impacted lower third molar surgery. A comparative
retrospective study, Int J Oral Maxillofac Surg, số 19(6), tr. 341-
5.
9. Kugelberg CF, U Ahlstrom, S Ericson, và A Hugoson (1985),
Periodontal healing after impacted lower third molar surgery,
Oral Surg, số 14, tr. pp.29 - 40.
10. Kugelberg CF, U Ahlstrom, S Ericson, A Hugoson, và S Kvint
(1991), Periodontal healing after impacted lower third molar
surgery in adolescents and adults, Oral And Maxillogacial
Surgery Clinics, số 20, tr. pp. 18-24.
11. Leung WK, Corbet EF, Kan KW, Lo ECM, và Liu JKS (2005),
A regimen of systematic periodontal care after removal of
impacted mandibular third molars manages periodontal
pockets associated with the mandibular second molars,
Journal of Clinical Periodontology, số 32, tr. pp. 725-731.
12. Nguyễn Tôn Việt (2012), Tình trạng mô nha chu sau phẫu
thuật răng khôn hàm dưới mọc lệch ở sextant kế cận, Luận
văn tốt nghiệp bác sĩ Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược
TP.HCM.
13. Osborne WH, Snyder AJ, và Tempel TR (1982), Attachment
levels and crevicular depths at the distal of mandibular
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 248
second molars following removal of adjacent third molars, J
Periodontol, số 53(2), tr. 93-5.
14. Peng KY, Tseng YC, Shen EC, Chiu SC, Fu E, và Huang YW
(2001), Mandibular second molar periodontal status after third
molar extraction, J Periodontal, số 72(12), tr. pp. 1647-1651.
15. Phạm Nguyễn Quỳnh Anh (2009), Ảnh hưởng vạt bao và vạt
tam giác lên mô nha chu răng 7 sau phẫu thuật nhổ răng 8
hàm dưới mọc lệch, Luận văn tốt nghiệp bác sĩ Răng Hàm
Mặt, Đại học Y Dược TP.HCM.
16. Richardson DT và Dodson TB (2005), Risk of periodontal
defects after third molar surgery: an exercise in evidence-
based clinical decision-making, Oral and Maxilliofacial
Surgery, số 100(2).
17. White RP Jr, Fisher EL, Phillips C, Tucker M, Moss KL, và
Offenbacher S (2011), Visible third molars as risk indicator
forincreased periodontal probing depth, JOral MaxillofacSurg,
số 69(1), tr. pp. 92-103.
18. Wong Soo Yee., Roselinda Ab. Rahman, và HaslinaTaib
(2009), Effects of lower third molar removal on attachment
level and alveolar bone height of the adjacent second molar,
Archives of Orofacial Sciences, số 4, tr. pp. 36-40.
Ngày nhận bài báo: 10/01/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 15/01/2014
Ngày bài báo được đăng: 20/03/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tinh_trang_mo_nha_chu_cac_rang_coi_ke_can_sau_phau_thuat_nho.pdf