Tình trạng nhiễm khuẩn nước và không khí ở các khu điều trị khoa RHM, Đại học Y dược

KẾT LUẬN Qua số liệu thu thập được, chúng tôi có một số kết luận như sau: - Trong 3 thời điểm được khảo sát, số lượng vi khuẩn tăng có ý nghĩa ở mọi vị trí (kể cả khu vực không diễn ra việc điều trị) tại thời điểm trong điều trị so với trước và sau điều trị. - Đánh giá riêng từng loại hình điều trị cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa các loại hình điều trị khác nhau (có hay không có sử dụng dụng cụ quay) lên số lượng vi khuẩn trong không khí tại từng thời điểm khảo sát. - Tại mỗi ghế nha, số lượng vi khuẩn thu được ở vị trí gần miệng BN cao hơn ở vị trí sau lưng BN và sự khác biệt là có ý nghĩa. - Các khúm vi khuẩn trong mẫu không khí sau đánh giá bằng phương pháp nhuộm gram và soi dưới kính hiển vi cho thấy đa số là cầu khuẩn và trực khuẩn Gram (+). - Đối với mẫu nước, kết quả cho thấy mẫu nước trước điều trị không có vi khuẩn nhưng sau điều trị thì mẫu nước từ tay khoan có nhiễm khuẩn, sau khi định danh cho thấy là Staphylococcus spp và Bacillus spp. - Ngoài ra, trong các mẫu không khí, ghi nhận được xuất hiện đáng kể của vi khuẩn tiêu huyết và nấm với tần số từ 35-55%. Đây là nhận định bước đầu về tình hình nhiễm khuẩn trong không khí và nước ở các khu điều trị khoa RHM trường ĐHYD qua các thời điểm trong ngày. Tuy quy mô nghiên cứu nhỏ và thời gian theo dõi không dài nhung kết quả cho thấy tình trạng nhiễm khuẩn trong không khí và nước rất đáng quan tâm. Cần có những nghiên cứu chuyên sâu tiếp theo với cỡ mẫu và quy mô lớn hơn để có thể đánh giá đúng mức ảnh hưởng khác nhau của các loại hình điều trị lên mức nhiễm khuẩn môi trường, cũng như những nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng nhằm tìm ra phương pháp thích hợp để kiểm soát lây nhiễm tốt hơn.

pdf8 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 235 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình trạng nhiễm khuẩn nước và không khí ở các khu điều trị khoa RHM, Đại học Y dược, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 169 TÌNH TRẠNG NHIỄM KHUẨN NƯỚC VÀ KHÔNG KHÍ Ở CÁC KHU ĐIỀU TRỊ KHOA RHM, ĐHYD Đặng Thị Minh Trang*, Ngô Thị Quỳnh Lan* TÓM TẮT Sự nhiễm khuẩn không khí và nước trong các khu điều trị là hậu quả của quá trình phát tán vi khuẩn vào môi trường khi thực hiện các thủ thuật nha khoa. Đây là nguồn lây nhiễm chéo quan trọng đối với cả bác sĩ lẫn bệnh nhân. Mục tiêu: Đánh giá tình hình nhiễm khuẩn trong không khí và nước tại các khu điều trị khoa RHM, ĐHYD TPHCM. Phương pháp nghiên cứu: Đối với đánh giá nhiễm khuẩn trong không khí, nghiên cứu sử dụng thạch máu, tiến hành lấy mẫu tại khu vực không diễn ra điều trị (phòng chờ-nhận bệnh và hành lang) và tại khu vực điều trị (ghế nha). Tại ghế nha, thu thập mẫu tại hai vị trí (trước mặt và sau lưng bệnh nhân) với các hoạt động điều trị định trước (cạo vôi siêu âm, trám răng, phục hình, nhổ răng thường và nhổ răng khôn) qua ba thời điểm (trước, trong, sau điều trị). Đối với đánh giá nhiễm khuẩn trong nước, sử dụng hộp thạch thường. Mẫu nước được lấy từ bình chứa và tay khoan vào hai thời điểm trước và sau điều trị. Sau đó ủ các hộp thạch ở 37oC trong 24 giờ và tiến hành đếm số khúm vi khuẩn, nhuộm Gram. Mức độ nhiễm khuẩn trong không khí được đánh giá bằng chỉ số AMI (Air Microbial Index) và mức nhiễm khuẩn cho phép trong nước là 500 CFU/ml (theo APHA). Tất cả các đánh giá trên được lập lại lần thứ hai sau lần thứ nhất hai tháng. Kết quả: Tại thời điểm trong khi đang điều trị, số lượng vi khuẩn trong không khí tăng có ý nghĩa tại mọi khu vực, cao hơn tại vị trí gần miệng bệnh nhân so với vị trí sau lưng bệnh nhân. Tuy nhiên, nghiên cứu chưa đánh giá được ảnh hưởng của các loại hình điều trị khác nhau lên chất lượng không khí. Về đánh giá tình trạng nhiễm khuẩn trong nước, nghiên cứu cho thấy mẫu nước trước điều trị không bị nhiễm khuẩn nhưng ghi nhận sự nhiễm khuẩn của mẫu nước từ tay khoan sau điều trị. Kết luận: Tình trạng nhiễm khuẩn trong không khí tăng liên quan đến điều trị răng miệng sử dụng tay khoan cao tốc. Từ khóa: Nhiễm khuẩn không khí, nhiễm khuẩn nước. ABSTRACT ATMOSPHERIC AND WATER CONTAMINATION IN THE DENTAL CLINIC OF THE FACULTY OF ODONTO-STOMATOLOGY Dang Thi Minh Trang, Ngo Thi Quynh Lan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 169 - 176 The aim of this study was to assess atmospheric and water contamination at different areas of the dental clinic of the Faculty of Odonto-Stomatology, University of Medicine and Pharmacy at Ho Chi Minh City. Material and method: Atmospheric contamination was evaluated by using blood agar plate. The tested areas consisted of: non-treatment areas (patients’ lounge and walking areas) and treatment areas (at the dental chair: in front of the patient’s mouth and behind the chair). Samples were collected before, during and after predetermined dental procedures such as: ultrasonic scaling, filling, restorative work and extraction (including *: Khoa RHM - Đại học Y Dược TPHCM Tác giả liên lạc: PGS.TS. Ngô Thị Quỳnh Lan ĐT: 0903125864; Email: ngothiquynhlan@yahoo.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 170 that of wisdom tooth). Water line bacterial contamination was assessed on nutrient agar plate with samples taken from both the water reservoir and dental hand pieces before and after treatment. All samples were incubated at 37oC for 24 hours, then stained and counted for visible colony forming units (CFU). Atmospheric contamination was evaluated using the Air Microbial Index (AMI) and water bacterial contamination limit was based on American Public Health Association (APHA) standard of 500 CFU/ml. All procedures and measurements were repeated two months after, to check for reproducibility. Results from the study showed that the amount of bacteria present in the atmosphere increased significantly during dental procedures at all treatment areas, it was higher at locations in front of the patient compared to behind the dental chair. However, the study had not determined the impact of different types of dental treatment on air quality. It also showed that the water line samples collected before treatment were not contaminated, the source of after treatment contamination could probably come from dental hand pieces. Conclusion: Air and water spray used in combination with rotating instruments may cause atmospheric contamination in areas where dental treatments are conducted. Key words: Atmospheric contamination, water contamination. ĐẶT VẤN ĐỀ Không khí luôn tồn tại một lượng nhất định vi khuẩn thường trú, khả năng gây bệnh thấp. Trong điều trị nha khoa, việc sử dụng một số dụng cụ như tay khoan tốc độ cao, máy cạo vôi siêu âm... đã làm gia tăng đáng kể sự nhiễm khuẩn không khí do sự tạo thành các hạt khí dung với nguồn vi khuẩn chủ yếu từ các nhiễm trùng của bệnh nhân. Theo tạp chí của ADA(7), nguy cơ lây nhiễm cao nhất đến từ hạt khí dung loại nhỏ (đường kính dưới 50 μm, đặc biệt từ 0,5 đến 10 μm) vì thời gian tồn tại lâu trong không khí và khả năng xâm nhập sâu vào đường hô hấp gây ra các bệnh như: viêm phổi, lao, cúm, bệnh Legionnaires, SARS, vv Ngoài ra, nước sử dụng trong điều trị nha khoa có thể bị nhiễm các nhóm vi khuẩn như Pseudomonas, Legionella, và Mycobacteria(20) do sự thành lập lớp màng sinh học (biofilm) trong hệ thống ống dẫn của ghế nha theo thời gian. Đây là 2 nguồn lây nhiễm chéo quan trọng giữa các bệnh nhân, đặc biệt là những bệnh nhân suy giảm miễn dịch và ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe lâu dài của bác sĩ điều trị. Nhằm đánh giá tình trạng nhiễm khuẩn không khí và nước ở các khu điều trị của khoa RHM, ĐHYD, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với các mục tiêu cụ thể sau: (1) Đánh giá và so sánh về số lượng vi khuẩn trong không khí giữa các thời điểm: trước, trong và sau điều trị tại từng khu điều trị và với những loại hình điều trị khác nhau. (2) Đánh giá và so sánh về số lượng vi khuẩn trong không khí giữa các loại hình điều trị. (3) Đánh giá và so sánh về số lượng vi khuẩn trong không khí tại hai vị trí khảo sát: trước mặt và sau lưng bệnh nhân tại các thời điểm. (4) Đánh giá về mặt vi khuẩn trong nước của máy nha khoa: từ bình chứa và từ tay khoan siêu tốc tại các thời điểm: trước và sau buổi điều trị. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu quan sát cắt ngang mô tả, thuộc nghiên cứu hợp tác đa trung tâm giữa các trường đại học nha khoa các nước khu vực sông Mê Kông. Đối tượng nghiên cứu - Không khí: tại các khu điều trị (khu điều trị đa khoa, khu điều trị răng trẻ em - chỉnh hình răng mặt, phòng tiểu phẫu) với các hoạt động điều trị khác nhau như cạo vôi siêu âm, chữa răng (trám răng, chữa tủy), nhổ răng thông thường & nhổ răng khôn và phục hình răng; và khu vực không trực tiếp điều trị là phòng chờ - nhận bệnh và hành lang ngoài khu vực điều trị. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 171 - Nước: từ bình chứa của ghế nha và từ tay khoan (tại khu điều trị khu điều trị đa khoa, khu điều trị răng trẻ em - chỉnh hình răng mặt). Phương tiện nghiên cứu - Lấy mẫu không khí: hộp Petri đường kính 9 cm chứa thạch máu (Blood Agar-BA). - Lấy mẫu nước: ống nghiệm vô trùng, đèn cồn, ống bơm vô trùng, pipet 1ml, hộp Petri đường kính 9 cm chứa thạch thường (Nutrient Agar-NA). Phương pháp nghiên cứu Không khí Thời điểm lấy mẫu: trước, trong, và sau khi kết thúc buổi điều trị. Quy trình lấy mẫu tại ghế nha tại mỗi thời điểm lấy mẫu gồm: - 1 hộp Petri đặt ngang tầm ngực và cách miệng bệnh nhân 40cm, mở nắp hộp trong 5 phút. - 1 hộp Petri đặt trên ghế thấp, cao 1m, cách 1,5m sau lưng nha sĩ và bệnh nhân, mở nắp 20 phút. Tại các vị trí không thuộc khu vực điều trị: mở nắp hộp Petri trong 20 phút. Nước Thời điểm lấy mẫu: buổi sáng, trước điều trị và sau khi hoàn tất buổi điều trị. Quy trình lấy mẫu: lấy 1ml nước theo quy trình vô khuẩn. Phương pháp nuôi cấy Hộp thạch lấy mẫu không khí được ủ trong tủ ấm ở nhiệt độ 37oC, trong vòng 24 giờ. Mỗi mẫu nước được tráng trên 3 hộp thạch Petri ở 3 nồng độ: nguyên chất, tỉ lệ 1/10, tỉ lệ 1/100 rồi ủ trong tủ ấm với nhiệt độ 37oC, trong vòng 24 giờ. Phân tích và đọc kết quả Các khúm khuẩn hình thành được đếm (số khúm/hộp với mẫu không khí và số khúm/ml với mẫu nước) và nhuộm Gram. Mức độ nhiễm khuẩn trong không khí: đánh giá bằng chỉ số AMI (Air Microbial Index). Số AMI CFU/ dm2 / h Chất lượng không khí 0 – 5 0 – 9 Rất tốt 6 – 25 10 – 39 Tốt 26 – 50 40 – 84 Trung bình 51 – 75 85 – 124 Xấu ≥ 76 ≥ 125 Rất xấu Mức độ nhiễm khuẩn nước: mức nhiễm khuẩn cho phép là 500 CFU/ml (theo APHA). Xử lý thống kê Thống kê mô tả: - Tính số lượng vi khuẩn TB theo thời điểm, vị trí, loại hình điều trị. - Tính tần số xuất hiện của vi khuẩn tiêu huyết và nấm. Thống kê suy lý: - Test Friedman: đánh giá sự thay đổi số lượng vi khuẩn TB qua các thời điểm. - Test Wilcoxon: so sánh bắt cặp sự khác biệt về số lượng vi khuẩn giữa các thời điểm, các vị trí và các loại hình điều trị. KẾT QUẢ - BÀN LUẬN Số lượng vi khuẩn trong không khí theo thời điểm lấy mẫu So sánh về số lượng vi khuẩn tại các thời điểm trước, trong và sau điều trị, kết quả cho thấy thời điểm trong điều trị có số lượng vi khuẩn tăng có ý nghĩa so với trước điều trị ở tất cả khu điều trị, kể cả khu vực phòng chờ - nhận bệnh (p ≤ 0,05: test Friedman). Sau đó, mật độ vi khuẩn giảm nhanh ngay sau khi kết thúc buổi điều trị, ở mức tương tự trước điều trị. Sự thay đổi số lượng vi khuẩn TB trong không khí ở hành lang qua 3 thời điểm là không đáng kể (p = 0,607). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 172 Biểu đồ 1: Số lượng vi khuẩn TB ở từng thời điểm tại 5 khu vực khảo sát. Bảng 1: So sánh số lượng vi khuẩn TB qua 3 thời điểm khảo sát (Test Friedman). Số lượng vi khuẩn trung bình Tổng cộng (N = 34) Khu ĐT I (n = 16) Khu ĐT III (n = 8) P. tiểu phẫu (n = 4) Phòng chờ (n = 4) Hành lang (n = 2) Trước ĐT 47 44 109 53 129 103 Trong ĐT 119 159 183 252 259 122 Sau ĐT 51 88 77 54 73 96 p 0,000 0,000 0,007 0,050 0,039 0,607 Kết quả này tương đồng với các nghiên cứu trên thế giới, chứng tỏ việc điều trị nói chung có gây nhiễm khuẩn không khí ở mức độ nhất định. Tình trạng nhiễm khuẩn tăng cao ở khu vực phòng chờ - nhận bệnh trong thời gian diễn ra điều trị gợi ý khả năng phát tán xa của vi khuẩn qua các hạt khí dung (Grenier(6), Rautemaa(19)). Khu vực hành lang không có sự thay đổi lớn về số lượng vi khuẩn giữa các thời điểm do môi trường khí trời luân chuyển và ít chịu ảnh hưởng từ các điều trị trong phòng. Bảng 2: So sánh bắt cặp số lượng vi khuẩn TB giữa các thời điểm (Test Wilcoxon). P Trước - Trong điều trị Trước - Sau điều trị Trong - Sau điều trị Khu ĐT I 0,001 0,008 0,021 Khu ĐT III 0,051 0,150 0,012 Phòng tiểu phẫu 0,068 0,854 0,068 Hành lang 0,655 0,655 0,180 Phòng chờ 0,068 0,144 0,068 Số lượng vi khuẩn trong không khí theo loại hình điều trị Trong điều trị, số lượng vi khuẩn ghi nhận với mọi điều trị đều tăng nhưng có sự khác biệt giữa các điều trị khác nhau. Tuy nhiên sử dụng test Wilcoxon để so sánh sự khác biệt trong ảnh hưởng của các hoạt động điều trị lên mức nhiễm khuẩn trong không khí qua các thời điểm điều trị, kết quả không cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa giữa các hoạt động điều trị khác nhau. Biểu đồ 2: Số lượng vi khuẩn TB so sánh giữa các loại hình điều trị qua các thời điểm. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 173 Tuy không chứng minh được ảnh hưởng khác nhau của việc sử dụng dụng cụ quay/máy cạo vôi siêu âm trong việc tạo ra các hạt khí dung, nhưng sau 2 lần lấy mẫu, ghi nhận được số lượng vi khuẩn TB trong điều trị cạo vôi siêu âm cao hơn khoảng 25% so với các điều trị khác ở cùng khu. Tuy vậy, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê, có thể do mẫu chưa đủ lớn và do đặc điểm thiết kế của khu điều trị I và III là khu điều trị đa khoa, gồm nhiều ghế và không có sự ngăn cách giữa các ghế nha. Vì vậy mẫu thu được có thể bị nhiễu từ các hoạt động nha khoa lân cận, do đó khó có thể kết luận chính xác về ảnh hưởng của từng loại hình điều trị. Số lượng vi khuẩn trong không khí theo vị trí đặt mẫu Biểu đồ 3: Số lượng vi khuẩn TB giữa các vị trí đặt mẫu. Bảng 3: So sánh số lượng vi khuẩn TB giữa 2 vị trí ở các khu vực (test Wilcoxon). Địa điểm khảo sát Khu ĐT I (n = 24) Khu ĐT III (n = 12) Phòng tiểu phẫu (n = 6) Vị trí khảo sát Trước mặt 124 156 125 Sau lưng 70 90 114 p 0,004 0,002 0,462 Tại khu điều trị đa khoa và khu điều trị răng trẻ em- chỉnh hình răng mặt, số lượng vi khuẩn TB của các mẫu thạch đặt trước mặt BN cao hơn gần gấp 2 lần so với các mẫu đặt sau lưng BN, khác biệt này có ý nghĩa (test Wilcoxon). Tại phòng tiểu phẫu, sự khác biệt số lượng vi khuẩn TB trong không khí giữa 2 vị trí là không có ý nghĩa. Kết quả cho thấy số lượng vi khuẩn thu được ở gần miệng BN cao hơn so với sau lưng BN ở hầu hết các thời điểm phù hợp với giả thuyết cho rằng vùng gần miệng bệnh nhân là vùng không khí dễ bị nhiễm khuẩn nhất và vùng sau lưng bệnh nhân ít nhiễm khuẩn hơn (Timmerman và cs(25), Prospero và cs(18)) do các hạt khí dung lớn (đk 50-100 μm) ít bị ảnh hưởng bởi chuyển động của không khí, không phát tán được xa và nhanh chóng lắng đọng trên các bề mặt được tiếp xúc đầu tiên nên sẽ thu được khi lấy mẫu ở vị trí gần và vào giai đoạn sớm của việc điều trị. Mặt khác, sự tăng đáng kể số lượng vi khuẩn ở vị trí sau lưng BN vào thời điểm trong điều trị, gợi ý khả năng phát tán của vi khuẩn qua các hạt khí dung nhỏ (đk nhỏ hơn 50 μm) tồn tại lâu và phát tán xa. Đánh giá chất lượng không khí theo tiêu chuẩn AMI Bảng 4: Đánh giá chất lượng không khí theo tiêu chuẩn AMI. Khu vực khảo sát Thời điểm n TB Đánh giá Khu ĐT I Trước ĐT 16 44 Trung bình Trong ĐT 16 159 Rất xấu Sau ĐT 16 88 Xấu Khu ĐT III Trước ĐT 8 109 Xấu Trong ĐT 8 183 Rất xấu Sau ĐT 8 77 Trung bình Phòng mổ Trước ĐT 4 53 Trung bình Trong ĐT 4 252 Rất xấu Sau ĐT 4 54 Trung bình Phòng chờ Trước ĐT 4 129 Rất xấu Trong ĐT 4 259 Rất xấu Sau ĐT 4 73 Trung bình Hành lang Trước ĐT 2 103 Xấu Trong ĐT 2 122 Xấu Sau ĐT 2 96 Xấu Nhìn chung, ở các khu điều trị, sau khoảng 13 tiếng không làm việc (từ 5 giờ chiều đến 6 giờ sáng hôm sau), chất lượng không khí đầu giờ ở khu I và phòng tiểu phẫu ở mức trung bình, riêng không khí ở khu điều trị III ở mức xấu. Trong điều trị, mức nhiễm khuẩn ở các khu điều trị tăng lên từ xấu/rất xấu rồi khi kết thúc điều trị giảm nhẹ còn trung bình/xấu. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 174 Việc đánh giá chất lượng không khí theo tiêu chuẩn AMI chỉ mang tính chất tương đối. Theo Pasquarella và Pitzurra(16), mỗi khu vực sẽ có mức nhiễm khuẩn giới hạn cho phép tương ứng với đặc thù riêng của hoạt động diễn ra nơi đó. Với môi trường bệnh viện nói chung thì mức nhiễm khuẩn trung bình là chấp nhận được. Ngoài ra số lượng vi khuẩn trong không khí còn chịu ảnh hưởng rất lớn từ điều kiện thời tiết và khí hậu của từng vùng, từng mùa, cần chú ý điều kiện khí hậu Việt Nam là nóng ẩm và bụi bẩn nhiều. Bụi và độ ẩm cao là môi trường thích hợp cho vi khuẩn và nấm tồn tại và phát triển. Vì vậy cần có thêm nhiều nghiên cứu trong cùng khu vực để có thể thiết lập tiêu chuẩn thích hợp đánh giá nhiễm khuẩn ở khu vực khí hậu nhiệt đới. Mặt khác, còn có các yếu tố khác ảnh hưởng chất lượng không khí của các khu điều trị. Yếu tố thứ nhất là loại và kích thước của hạt khí dung do liên quan trực tiếp đến khả năng phát tán. Điển hình là cạo vôi siêu âm/sóng âm là loại hình gây nhiễm khuẩn không khí cao nhất(7) vì khả năng phát tán vật chất từ vùng làm việc do áp suất nước cao và hơi thổi mạnh. Yếu tố thứ hai là thành phần vi khuẩn sẵn có trong không khí và mật độ người qua lại. Khu vực càng đông người qua lại thì khả năng ô nhiễm không khí càng cao (phòng chờ-nhận bệnh dù không diễn ra việc điều trị nhưng lại có mức nhiễm khuẩn tương đối cao do mật độ bệnh nhân ra vào lớn). Và yếu tố cuối cùng cần quan tâm là hiệu quả của hệ thống lọc và kiểm soát luồng khí lưu thông trong phòng. Ngoài việc làm lạnh ra các hệ thống điều hoà cần phải được bảo trì và nâng cấp thường xuyên để không là nguồn ô nhiễm không khí trong phòng điều trị. Số lượng vi khuẩn trong nước Trước điều trị, các mẫu nước hoàn toàn không phát hiện vi khuẩn. Sau điều trị, tuy nguồn nước từ bình chứa vẫn không có sự hình thành khúm khuẩn, nhưng các mẫu nước từ tay khoan có sự nhiễm khuẩn đáng kể. Tuy nhiên do mẫu nhỏ, số lần khảo sát không nhiều, nên không thể thực hiện các test kiểm định sự khác biệt giữa hai thời điểm trước và sau điều trị. Trước điều trị, mẫu nước từ 2 nguồn: bình chứa và tay khoan, sau nuôi cấy không phát hiện vi khuẩn chứng tỏ nguồn nước ta sử dụng cho điều trị là sạch. Sau điều trị, nước từ tay khoan cho thấy dấu hiệu nhiễm khuẩn nhẹ ở cả 2 lần lấy mẫu ở 2 khu điều trị. Mặc dù số lượng vi khuẩn thu được không vượt quá mức nhiễm khuẩn cho phép của Hiệp hội sức khỏe cộng đồng Mỹ (APHA) nhưng vẫn gợi lên mối quan ngại về nguồn nhiễm khuẩn nước từ các dịch miệng của bệnh nhân. Giả thuyết được đề ra là việc sử dụng áp lực hơi làm quay tay khoan có thể tạo ra 1 áp lực âm khi tay khoan dừng lại. Áp lực âm này có tác dụng làm rút ngược 1 lượng nhỏ nước hòa lẫn dịch miệng từ vùng làm việc vào tay khoan. Đây có khả năng là nguồn lây nhiễm chéo khi sử dụng cùng 1 tay khoan cho nhiều bệnh nhân. Dù loại vi khuẩn thu được là vi khuẩn thu được là vi khuẩn thường trú trong miệng bệnh nhân này thì vẫn có khả năng gây bệnh trên bệnh nhân có vấn đề về hệ thống miễn dịch. Đặc điểm vi sinh của các khúm vi khuẩn Nhìn chung, các khúm khuẩn thu được từ các mẫu không khí chủ yếu là loại cầu khuẩn và trực khuẩn Gram (+). Dựa trên một số hình ảnh sắp xếp đặc trưng của vi khuẩn trên kính hiển vi và kinh nghiệm của kĩ thuật viên vi sinh, một số khúm vi khuẩn được đánh giá là Streptococcus, Staphylococcus và Bacillus. Tuy nhiên kết quả này chỉ mang tính chất tham khảo. Đối với các mẫu nước, sau nhuộm gram cho thấy là cầu khuẩn và trực khuẩn Gram (+), với hình ảnh gợi ý về Staphylococcus spp. và Bacillus spp. Nguồn nước trước điều trị không bị nhiễm khuẩn, có thể kết luận các vi khuẩn thu được từ mẫu nước tay khoan sau điều trị bắt nguồn từ BN và tương đồng với vi khuẩn phát tán trong không khí. Do nghiên cứu chưa định danh vi khuẩn nên không thể có kết luận về độc lực cũng như Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 175 nguy cơ gây bệnh của các vi khuẩn thu được trong không khí và nước. Đây là những loại vi khuẩn thường trú trên da và niêm mạc miệng, phát tán qua tiếp xúc, bụi hay các hạt nước nhỏ, được xếp vào nhóm vi khuẩn cơ hội. Tuy nhiên, đây cũng là những nhân tố gây bệnh cơ hội thường gặp ở những bệnh nhân có vấn đề về hệ thống miễn dịch. KẾT LUẬN Qua số liệu thu thập được, chúng tôi có một số kết luận như sau: - Trong 3 thời điểm được khảo sát, số lượng vi khuẩn tăng có ý nghĩa ở mọi vị trí (kể cả khu vực không diễn ra việc điều trị) tại thời điểm trong điều trị so với trước và sau điều trị. - Đánh giá riêng từng loại hình điều trị cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa các loại hình điều trị khác nhau (có hay không có sử dụng dụng cụ quay) lên số lượng vi khuẩn trong không khí tại từng thời điểm khảo sát. - Tại mỗi ghế nha, số lượng vi khuẩn thu được ở vị trí gần miệng BN cao hơn ở vị trí sau lưng BN và sự khác biệt là có ý nghĩa. - Các khúm vi khuẩn trong mẫu không khí sau đánh giá bằng phương pháp nhuộm gram và soi dưới kính hiển vi cho thấy đa số là cầu khuẩn và trực khuẩn Gram (+). - Đối với mẫu nước, kết quả cho thấy mẫu nước trước điều trị không có vi khuẩn nhưng sau điều trị thì mẫu nước từ tay khoan có nhiễm khuẩn, sau khi định danh cho thấy là Staphylococcus spp và Bacillus spp. - Ngoài ra, trong các mẫu không khí, ghi nhận được xuất hiện đáng kể của vi khuẩn tiêu huyết và nấm với tần số từ 35-55%. Đây là nhận định bước đầu về tình hình nhiễm khuẩn trong không khí và nước ở các khu điều trị khoa RHM trường ĐHYD qua các thời điểm trong ngày. Tuy quy mô nghiên cứu nhỏ và thời gian theo dõi không dài nhung kết quả cho thấy tình trạng nhiễm khuẩn trong không khí và nước rất đáng quan tâm. Cần có những nghiên cứu chuyên sâu tiếp theo với cỡ mẫu và quy mô lớn hơn để có thể đánh giá đúng mức ảnh hưởng khác nhau của các loại hình điều trị lên mức nhiễm khuẩn môi trường, cũng như những nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng nhằm tìm ra phương pháp thích hợp để kiểm soát lây nhiễm tốt hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. American Dental Association (2007). “Dental unit water quality”. 2. Audurier A., Fenneteau A., Rivire R., Raoult A. (1985). “Bacterial contamination of the air in different operating rooms”. Rev. Epidemiol Sante Publique. 33(2). pp. 134-141. 3. Blake GC (1963). “The incidence and control of infection in dental spray reservoirs”. Br Dent J. 115. pp. 412-416. 4. Bộ môn Vi sinh Trường Đại học Y Dược TPHCM (2002). “Vi khuẩn học”. 5. Cellini L., Di Campli E., Di Candia M., Chiavaroli G. (2001). “Quantitative microbial monitoring in a dental office”. Public Health. Jul; 115(4). pp. 301-305. 6. Grenier D (1995). “Quantitative Analysis of Bacterial Aerosols in Two Different Dental Clinic Environments”. Applied and environmental microbiology. Aug; 61(8). pp. 3165-3168. 7. Harrel S.K., Molinari J. (2004). “Aerosols and splatter in dentistry: A brief review of the literature and infection control implications”. JADA. April; 135. pp. 429-437. 8. Holbrook W.P., Muir K.F., Macphee I.T., Ross P.W. (1978). “Bacteriaological investigation of the aerosol from ultrasonic scalers”. Brit Dent J. pp. 144-245. 9. Kohn W.G., Harte J.A., Malvitz D.M., Collins A.S., Cleveland J.L., Eklund K.J. (2004). “Guidelines for infection control in dental health care settings-2003”. JADA. January; 135. pp. 33- 47. 10. Larato D.C., Ruskin P.F., Martin A., et al (1966). “Effect of a dental air turbine drill on the bacterial counts in air”. J Prosthet Dent. 16. pp. 758-765. 11. Legnani P., Checchi L., Pelliccioni G.A., et al (1994). “Atmospheric contamination during dental procedures”. Quintessence International. 25. pp. 435-439. 12. Al Maghlouth A., Al Yousef Y., Al Bagieh N. (2004). “Qualitative and Quantitative Analysis of Bacterial Aerosols”. J Contemp Dent Pract. November; 5(4). pp. 91-100. 13. Micik R.E., Miller R.L., Mazzarella M.A., Ryge G. (1969). “Studies on dental aerobiology, I: bacterial aerosols generated during dental procedures”. J Dent Res. 48(1). pp. 49-56. 14. Mills SE (2000). “The dental unit waterline controversy: defusing the myths, defining the solutions”. JADA. October; 131. pp. 1427-1441. 15. Osorio R., Toledano M., Liebana J., et al (1995). “Environmental microbial contamination. Pilot study in a dental surgery”. Int Dent J. 45. pp. 352-357. 16. Pasquarella C., Pitzurra O., Savino A. (2000). “Review: The index of microbial air contamination”. Journal of Hospital Infection. 46. pp. 241-256. 17. Pires F.R., Santos E.B.D., Bonan P.R.F., De Almeida O.P., Lopes M.A. (2002). “Denture stomatitis and salivary Candida in Brazilian edentulous patients”. J Oral Rehabil. 29. pp. 1115- 1119. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 176 18. Prospero E., Savini S., Annino I. (2003). “Microbial aerosol contamination of dental healthcare workers' faces and other surfaces in dental practice”. Infect Control Hosp Epidemiol. Feb; 24(2). pp.139-141. 19. Rautemaa R., Nordberg A., Wuolijoki-Saaristo K., Meurman J.H. (2006). “Bacterial aerosols in dental practice: a potential hospital infection problem?”. Journal of Hospital Infection. 64. pp. 76-81. 20. Shepherd P.A., Shojaei M.A., Eleazer P.D., Van Stewart A., Staat R.H. (2001). “Clearance of biofilms from dental units waterlines through the use of hydroperoxide ionphase transfer catalysts”. Quintessence Int. 32. pp. 755-761. 21. Shivakumar K.M., Prashant G.M., Madhu Shankari G.S., Subba Reddy V.V., Chandu G.N. (2007). “Assessment of atmospheric microbial contamination in a mobile dental unit”. Indian J Dent Res. Oct-Dec; 18(4). pp.177-180. 22. Szymańska J., Wdowiak L., Puacz E., Stojek N.M. (2004). “Microbial quality of water in dental unit reservoirs”. Ann Agric Environ Med. 11 (2). pp. 355-358 . 23. Szymańska J (2005). “Evaluation of mycological contamination of dental unit waterlines”. Ann Agric Environ Med. 12. pp. 153-155. 24. Szymanska J. (2007). “Bacterial contamination of water in dental unit reservoirs”. Ann Agric Environ Med. 14. pp. 137- 140. 25. Timmerman M.F., Menso L., Steinfort J., Van Winkelhoff A.J., Van Der Weijden G.A. (2004). “Atmospheric contamination during ultrasonic scaling”. J Clin Periodontol. 31. pp. 458-462. 26. Yamamoto N., Kubota T., Tateyama M., Koide M., Nakasone C., Tohyama M., et al. (2003). ”Isolation of Legionella anisa from multiple sites of a hospital water system: the eradication of Legionella contamination”. J Infect Chemother. 9. pp. 122-125.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftinh_trang_nhiem_khuan_nuoc_va_khong_khi_o_cac_khu_dieu_tri.pdf
Tài liệu liên quan