KẾT LUẬN
Việc chẩn đoán chính xác tình trạng quá cảm
ngà nhằm đưa ra hướng điều trị thích hợp đã và
đang là một vấn đề nghiên cứu được quan tâm
hiện nay. Qua khảo sát cho thấy phần trăm bệnh
nhân có quá cảm ngà chiếm tỉ lệ khá cao 55,41%.
Tỉ lệ này được báo cáo tăng lên theo tuổi, hơn
nữa, sự tăng mức độ ngà lộ do tụt nướu thường
đi kèm với sự tăng mức độ mòn răng do chế độ
ăn uống những chất có tính axít làm cho tỉ lệ quá
cảm ngà sẽ lại càng gia tăng nhiều hơn trong
tương lai. Bên cạnh đó, do việc thực hành vệ
sinh răng miệng và sự phát triển của các phương
pháp điều trị nha chu, bệnh nhân có thể giữ
được răng lại lâu hơn trong miệng và có sự tăng
tình trạng ngà lộ, điều này dẫn đến tỉ lệ quá cảm
ngà tiếp tục gia tăng. Vì vậy, yêu cầu tìm ra các
phương pháp đo lường chính xác tình trạng quá
cảm ngà của bệnh nhân cũng như các biện pháp
phòng ngừa và điều trị hiệu quả là một trong
những vấn đề cấp thiết hiện nay trong nha khoa.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 7 trang
7 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 424 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình trạng quá cảm ngà của bệnh nhân khoa răng hàm mặt – Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 143
TÌNH TRẠNG QUÁ CẢM NGÀ CỦA BỆNH NHÂN 
KHOA RĂNG HÀM MẶT – ĐẠI HỌC Y DƯỢC TP.HCM 
Phạm Thị Mai Thanh*, Ngô Thị Quỳnh Lan** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm khảo sát tình trạng quá cảm ngà của bệnh nhân Khoa Răng Hàm Mặt – Đại 
học Y Dược TP.HCM năm 2014. 
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 370 bệnh nhân của Khoa Răng Hàm Mặt - 
Đại học Y Dược TP.HCM, từ 18 đến 65 tuổi. Sử dụng thám trâm điện tử Yeaple (Model 200A Electronic Force 
Sensing Probe) để đánh giá tình trạng quá cảm ngà. 
Kết quả: Tỉ lệ phần trăm bệnh nhân có quá cảm ngà 55,41%, trong đó nữ bị quá cảm ngà nhiều hơn nam có 
ý nghĩa thống kê (p<0,001). Lứa tuổi bị quá cảm ngà nhất là nhóm 23-31 tuổi (30,73%). Trung bình một bệnh 
nhân có 3,9 răng bị quá cảm ngà, trong đó nam (3,3 răng) thấp hơn nữ (4,3 răng) có ý nghĩa thống kê (p<0,001). 
Nhóm tuổi từ 32-45 có trung bình số răng bị quá cảm cao nhất là 5 răng. Nhóm răng bị quá cảm ngà phổ biến 
nhất là răng cối nhỏ (63,78%), và răng cửa là nhóm răng ít bị quá cảm ngà nhất (18,65%). Răng cối nhỏ thứ nhất 
hàm dưới bị quá cảm ngà nhiều nhất (37,03%) và ít bị quá cảm ngà nhất là răng cối lớn thứ hai hàm trên 
(4,05%). 
Kết luận: Tỉ lệ quá cảm ngà của bệnh nhân trong nghiên cứu này là 55,41%. 
Từ khóa: Quá cảm ngà, thám trâm điện tử Yeaple. 
ABSTRACT 
PREVALENCE OF DENTINE HYPERSENSITIVITY 
AMONG PATIENTS ATTENDING THE FACULTY OF ODONTO – STOMATOLOGY, 
UNIVERSITY OF MEDICINE AND PHARMACY, HOCHIMINH CITY 
Pham Thi Mai Thanh, Ngo Thi Quynh Lan 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 2 - 2015: 143 - 149 
Objectives: This study aimed to investigate the prevalence of dentine hypersensitivity among patients 
attending the Faculty of Odonto-Stomatology, University of Medicine and Pharmacy at Ho Chi Minh City, 
Vietnam. 
Methods: This descriptive cross-sectional study was conducted on 370 patients (155 males and 215 females) 
attending the clinics of Faculty of Odonto-Stomatology, University of Medicine and Pharmacy at Ho Chi Minh 
City, aged between 18 to 65 years old. Dentine hypersensitivity was assessed by a tactile method using Yeaple 
Probe (Model 200A Electronic Force Sensing Probe). The mean sensitivity score based on the Yeaple Probe Index 
(0 = subject does not respond and 3 = subject considers stimulus to be painful). 
Results: Of the patients 205 were diagnosed as having dentine hypersensitivity, giving a prevalence figure of 
55.41%. Prevalence of dentine hypersensitivity for female was statistically significant higher than that of male 
(p<0.001). The mean number of hypersensitive teeth was 3.9 per patient, it was higher in females (4.3 teeth) than 
in males (3.3 teeth)( p<0.001). The prevalence of dentine hypersensitivity was highest among 23- to 31- year olds 
(30.73%). An age peak was observed. The mean number of dentine hypersensitive teeth per patient showed a peak 
* Khoa Răng Hàm Mặt, ĐH Y Dược, TP.Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: ThS.Phạm Thị Mai Thanh ĐT: 0909358185 Email: phamthimaithanh186@gmail.com 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 144
(5 teeth) in the 32-45 year age group. The premolars (63.78%) were the most common teeth sensitive while 
incisors (18.65%) were the least sensitive ones. The commonest teeth affected by dentine hypersensitivity were the 
first premolars of mandible (37.03%), the second molars of maxilla (4.05%) were the least sensitive ones. 
Conclusion: The prevalence of dentine hypersensitivity in this studied population was 55.41%. 
Key words: Dentine hypersensitivity, Yeaple Probe. 
MỞ ĐẦU 
Quá cảm ngà là một vấn đề sức khỏe răng 
miệng phổ biến trên toàn thế giới, ảnh hưởng 
đến nhiều người(6,8,9,10). Việc chẩn đoán chính xác 
tình trạng cũng như mức độ trầm trọng quá cảm 
ngà sẽ giúp các chuyên gia nha khoa đưa ra 
những hướng tiếp cận khác nhau trong việc điều 
trị cho bệnh nhân đang hoặc có nguy cơ cao gặp 
phải quá cảm ngà. 
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều phương 
pháp đo lường quá cảm ngà, việc chọn lựa một 
hoặc nhiều phương pháp tùy thuộc vào đặc 
điểm của từng quốc gia, mục tiêu nghiên cứu 
cũng như quy mô của cơ sở điều trị(2). Khác với 
đo lường các bệnh răng miệng cơ bản như sâu 
răng và nha chu về phương tiện và chỉ số đo đạc, 
việc đo lường quá cảm ngà chủ yếu dựa vào 
nhận thức đau của mỗi cá thể dưới các tác nhân 
kích thích trên ngà răng. Các kích thích này 
thường được chia thành năm nhóm chính: cơ 
học, hóa học, điện, nhiệt và bay hơi. Thực tế trên 
lâm sàng, các kích thích này có thể được tạo ra từ 
những phương tiện đơn giản, rẻ tiền như kích 
thích cơ học gây ra bởi thám trâm nha khoa, hay 
kích thích nhiệt - bay hơi từ luồng hơi của ghế 
nha khoa đến các thiết bị đo lường khách quan 
như thám trâm điện tử Yeaple - là một dụng đo 
lực cọ xát có hiển thị cường độ lực. Phương pháp 
này giúp xác định đúng thời điểm khởi đầu sự ê 
buốt răng (ngưỡng đau) cho nên được xem 
phương pháp chẩn đoán chính xác tình trạng 
quá cảm ngà(2,3). 
Tại Việt Nam, trong những năm gần đây số 
lượng báo cáo về tỉ lệ hiện mắc quá cảm ngà liên 
tục gia tăng và nhu cầu chăm sóc răng miệng 
ngày càng cao(4,6,10). Chính vì vậy việc chẩn đoán 
chính xác tình trạng quá cảm ngà, qua đó đưa ra 
hướng điều trị nhằm cải thiện tình trạng ê buốt, 
khó chịu cho bệnh nhân là vấn đề mà các chuyên 
gia Răng Hàm Mặt quan tâm trong thực tế lâm 
sàng. Để khảo sát tình trạng này, nhiều nghiên 
cứu dịch tễ học răng miệng đã thực hiện trong 
cộng đồng bằng những thang đo lường khác 
nhau, tuy nhiên hầu hết chỉ sử dụng các phương 
pháp đo lường dựa trên cảm nhận chủ quan của 
người đo lẫn người bệnh như “thám trâm nha 
khoa”, “luồng hơi”, “bảng câu hỏi” Kết quả 
thực tế cho thấy có sự chênh lệch về tỉ lệ cũng 
như mức độ trầm trọng của quá cảm ngà giữa 
các phương pháp đo lường(6,10). 
Cho đến nay, vẫn chưa có nghiên cứu nào sử 
dụng các phương pháp đo lường khách quan ghi 
nhận quá cảm ngà trên người Việt Nam. Chính 
vì vậy nghiên cứu này được tiến hành nhằm 
khảo sát tình trạng quá cảm ngà trên nhóm bệnh 
nhân của Khoa Răng Hàm Mặt – Đại học Y Dược 
TP.HCM thông qua việc sử dụng thám trâm 
điện tử Yeaple - được xem là phương pháp 
chuẩn trong chẩn đoán quá cảm ngà. 
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm các 
mục tiêu sau: 
1- Xác định tỉ lệ quá cảm ngà răng trên bệnh 
nhân của Khoa Răng Hàm Mặt - Đại học Y Dược 
TP.HCM. 
2- Mô tả mức độ trầm trọng quá cảm ngà 
răng trên bệnh nhân có quá cảm ngà của Khoa 
Răng Hàm Mặt - Đại học Y Dược TP.HCM. 
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu cắt ngang mô tả. 
Đối tượng nghiên cứu 
Mẫu nghiên cứu bao gồm 370 bệnh nhân 
đến tư vấn, khám và điều trị răng miệng tại các 
khu điều trị lâm sàng của Khoa Răng Hàm Mặt - 
Đại học Y Dược TP.HCM cũng như các đơn vị 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 145
thực hành Răng Hàm Mặt trên địa bàn TP.HCM 
trực thuộc Khoa Răng Hàm Mặt - Đại học Y 
Dược TP.HCM năm 2014. 
Tiêu chí chọn mẫu 
Có tiền sử quá cảm ngà răng. 
Đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Tuổi từ 18 đến 65. 
Sức khỏe tổng quát tốt. 
Tiêu chí loại trừ 
Ở mức độ cá thể 
Đang được điều trị quá cảm ngà dưới bất kỳ 
hình thức nào. 
Mang khí cụ chỉnh nha và hàm giả. 
Đang sử dụng thuốc giảm đau, an thần hoặc 
thuốc điều trị tâm thần. 
Vệ sinh răng miệng kém, mảng bám và vôi 
răng nhiều. 
Bệnh nhân nghi ngờ bị bệnh nha chu. 
Nhiễm trùng đường hô hấp cấp trong ngày 
khám. 
Bệnh nhân đang mang thai hoặc cho con bú. 
Ở mức độ răng 
Những răng có sâu răng 1/3 cổ mặt ngoài. 
Những răng có miếng trám tại vị trí 1/3 cổ 
mặt ngoài. 
Những răng đã được điều trị nội nha. 
Những răng có sang thương sâu răng nghi 
ngờ ảnh hưởng tủy răng. 
Răng trụ cho hàm giả tháo lắp hay hàm giả 
cố định. 
Răng đang mang khâu chỉnh nha. 
Răng có triệu chứng tương tự quá cảm ngà: 
răng nứt, gãy; răng nhạy cảm sau khi trám 
Quy trình nghiên cứu 
Bước 1: Sàng lọc bệnh nhân thông qua vệc sử 
dụng bảng câu hỏi, đánh giá tình trạng quá cảm 
ngà dựa vào cảm nhận chủ quan của bệnh nhân. 
Dựa vào kết quả trả lời (nghi ngờ/ chắc chắn quá 
cảm ngà), bệnh nhân được đưa vào nhóm đánh 
giá thử nghiệm lâm sàng. 
Bước 2: Đánh giá quá cảm ngà bằng thám 
trâm điện tử Yeaple (Model 200A Electronic 
Force Sensing Probe), đầu thám trâm đặt vuông 
góc với cổ răng mặt ngoài tại đường nối men-xê 
măng. Ban đầu sử dụng lực 10 gram và sau đó 
tăng lực lên từng nấc (10g/nấc) cho đến khi bệnh 
nhân cảm thấy khó chịu hoặc khi lực đạt đến 100 
gram. Ghi nhận lực tại thời điểm này (ngưỡng 
đau). Đồng thời phân loại mức độ đáp ứng của 
bệnh nhân theo thang 0-3(3). 
0 : không đau ở lực > 75g 
1 : đau ở 50g < lực ≤ 75g 
2 : đau ở 25g < lực ≤ 50g 
3 : đau ở lực ≤ 25g 
Hình 1: Thám trâm điện tử Yeaple (3) 
KẾT QUẢ 
Bảng 1. Tỉ lệ % bệnh nhân có quá cảm ngà theo giới. 
Tình trạng quá cảm 
ngà răng 
Tỉ lệ % quá cảm ngà 
Nam 
N (%) 
Nữ 
N (%) 
Tổng 
N (%) 
Có quá cảm ngà 73 (47,1) 132 (61,4) 205 (55,41) 
Không có quá cảm ngà 82 (52,9) 83 (38,6) 165 (44,59) 
Kiểm định χ2, p<0,001 
Bảng 2. Trung bình số răng có quá cảm ngà của bệnh 
nhân theo giới. 
Giới tính 
Trung bình số răng có quá cảm ngà 
TB ĐLC 
Nam 3,35 0,07 
Nữ 4,31 0,06 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 146
Chung 3,96 0,05 Kiểm định T cho hai mẫu độc lập, p<0,001 
Bảng 3. Tỉ lệ % bệnh nhân có quá cảm ngà theo nhóm tuổi. 
Tình trạng quá cảm ngà răng 
Tỉ lệ % quá cảm ngà theo nhóm tuổi 
≤ 22 
N (%) 
23 – 31 
N (%) 
32 – 45 
N (%) 
≥ 46 
N (%) 
Tổng 
N (%) 
Có quá cảm ngà 28 (13,66) 63 (30,73) 61 (29,76) 53 (25,85) 205 (55,41) 
Không có quá cảm ngà 64 (38,78) 33 (20) 35 (21,21) 33 (20) 165 (44,59) 
Kiểm định χ2, p<0,001 
Bảng 4. Trung bình số răng có quá cảm ngà của bệnh nhân theo nhóm tuổi. 
Tình trạng quá cảm ngà răng 
Trung bình số răng quá cảm ngà theo nhóm tuổi 
≤ 22 
TB (ĐLC) 
23 – 31 
TB (ĐLC) 
32 – 45 
TB (ĐLC) 
≥ 46 
TB (ĐLC) 
Tổng 
TB (ĐLC) 
Số răng 3,07 (0,12) 3,18 (0,06) 5 (0,09) 4,16 (0,11) 3,96 (0,05) 
Kiểm định ANOVA 1 yếu tố, p<0,001 
Biểu đồ 1. Tỉ lệ % bệnh nhân có quá cảm ngà theo 
từng nhóm răng. 
Biểu đồ 2. Tỉ lệ % bệnh nhân có quá cảm ngà theo 
từng răng ở hai hàm. 
BÀN LUẬN 
Trong thời gian nghiên cứu, tổng cộng có 370 
bệnh nhân tuổi từ 18 đến 65 đến tư vấn, khám và 
điều trị răng miệng tại Khoa Răng Hàm Mặt - 
Đại học Y Dược TP.HCM thỏa các tiêu chí chọn 
mẫu. Trong đó có 155 nam (41,89%) và 215 nữ 
(58,11%), chiếm tỉ lệ 1/1,39. Tỉ lệ nữ cao hơn nam, 
điều này có thể do nữ thường quan tâm đến tình 
trạng răng miệng nên có nhu cầu chăm sóc sức 
khỏe răng miệng nhiều hơn nam, vì vậy tổng số 
bệnh nhân nữ đến khám răng miệng của Khoa 
Răng Hàm Mặt - Đại học Y Dược TP.HCM cao 
hơn bệnh nhân nam. 
Đặc điểm mẫu nghiên cứu 
Theo y văn chúng tôi thấy rằng quá cảm ngà 
thường gặp ở lứa tuổi từ 20-40, cao nhất ở 
khoảng 35-40 tuổi và giảm dần trong độ tuổi 40-
60, do vậy trong nghiên cứu này chúng tôi chọn 
đối tượng từ 18 đến 65 tuổi(1,7,8). 18 tuổi được xem 
là lứa tuổi đã trưởng thành về mặt giới tính cũng 
như tâm lý. Các đối tượng từ 18 tuổi trở lên có 
thể tự cảm nhận được triệu chứng đau do quá 
cảm ngà và phân biệt được với các cơn đau khác 
trên lâm sàng (sâu răng, răng nứt, răng gãy, răng 
nhạy cảm sau khi trám). Về mặt giải phẫu học, 
ngà răng ở các răng vĩnh viễn bắt đầu có sự gia 
tăng số trung bình về mật độ và kích thước các 
ống ngà từ tiếp nối ngà - tủy đến tiếp nối men - 
ngà ở người từ 16-75 tuổi, sự thay đổi này có ảnh 
hưởng đến cơ chế gây đau trong quá cảm ngà 
theo thuyết thủy động học. Ngoài ra, sau 65 tuổi 
các đối tượng thường bị suy yếu về sức khỏe 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 147
tổng quát cũng như sức khỏe răng miệng. 
Nghiên cứu tại Mỹ 1978 và 1988 cho thấy tỉ lệ 
phần trăm người trưởng thành mất răng toàn bộ 
cao nhất sau 65 tuổi (67% - 79%) do ảnh hưởng 
bệnh sâu răng và nha chu - hai bệnh răng miệng 
vốn rất phổ biến từ trước đến nay. Việc mất 
nhiều răng trong miệng có thể ảnh hưởng đến 
kết quả về trung bình số răng có quá cảm ngả 
cũng như tỉ lệ phần trăm nhóm răng có quá cảm 
ngà của bệnh nhân. 
Nhiều nghiên cứu cùng đề tài trên thế giới 
cũng chọn đối tượng mẫu là bệnh nhân của bệnh 
viện Đại học hoặc bệnh nhân ở các phòng khám 
nha khoa(1,8,9). Việc chọn dân số mẫu là bệnh 
nhân có thể không phản ánh chính xác tình trạng 
quá cảm ngà của dân số nói chung, do bệnh 
nhân đến khám tại các bệnh viện và phòng 
khám nha khoa đa số có vấn đề về sức khỏe răng 
miệng, hầu hết bệnh nhân đến khám và điều trị 
nha khoa ít nhiều bị ảnh hưởng bởi bệnh nha 
chu nhiều hơn dân số bình thường nên kết quả 
ghi nhận trên đối tượng này không phản ánh 
khách quan tình trạng quá cảm ngà của dân số. 
Tuy nhiên, trong tiêu chí chọn mẫu của chúng 
tôi những bệnh nhân có vôi răng, mảng bám 
nhiều, nghi ngờ bị viêm nha chu cũng như 
những răng có triệu chứng giống quá cảm ngà 
như răng nứt, răng sâu lớn, răng bị viêm tủy 
đều đã loại ra khỏi nghiên cứu, chính vì vậy dân 
số nghiên cứu không làm ảnh hưởng đến kết 
quả đánh giá tình trạng quá cảm ngà. Hơn nữa, 
nghiên cứu thực hiện với cỡ mẫu tương đối lớn 
(370 bệnh nhân tương ứng với 9443 răng) và độ 
tuổi khá rộng từ 18-65 có thể phản ánh đầy đủ tỉ 
lệ phần trăm cũng như mức độ trầm trọng quá 
cảm ngà giữa các nhóm tuổi, điều mà trước đây 
chưa có nghiên cứu nào thực hiện ở Việt Nam. 
Phương pháp nghiên cứu 
Việc đánh giá tình trạng quá cảm ngà của 
bệnh nhân thông qua sử dụng các phương 
pháp kích thích lên vùng cổ răng gần đường 
nối men - xê măng để đánh giá đáp ứng đau 
của bệnh nhân là một trong những phương 
pháp tiếp cận tiêu chuẩn và thường được các 
tác giả trên thế giới sử dụng với mục tiêu chẩn 
đoán quá cảm ngà(2,3). 
Hiện nay, trên lâm sàng có nhiều phương 
pháp đo lường quá cảm ngà bao gồm sử dụng 
kích thích điện (Tarbet 1982), nhiệt (Mazor 1991), 
thổi hơi và cọ xát (Carlo 1982, Johansen 1998) (2,3). 
Mặc dù rất nhiều tác động có thể gây đau trên 
ngà răng, nhưng không phải tất cả đều có ý 
nghĩa như nhau vì kích thích phải mô phỏng 
được những tác động tự nhiên mà bệnh nhân 
gặp phải. Do đó việc chọn lựa kích thích cũng rất 
quan trọng. 
Không như nhiều nghiên cứu khác, đánh giá 
tình trạng quá cảm ngà dựa trên các phương 
pháp đo lường chủ quan như thám trâm nha 
khoa, luồng hơi. Trong nghiên cứu này, chúng 
tôi sử dụng thám trâm điện tử Yeaple - một thiết 
bị đo lực cọ xát có hiển thị cường độ lực để đo 
lường tình trạng này. Cường độ lực cọ xát khởi 
đầu là 10 gram, tăng mỗi 10g/nấc cho đến khi 
bệnh nhân cảm thấy khó chịu hoặc khi cường độ 
lực tối đa là 100 gram. Phương pháp này giúp 
xác định đúng thời điểm khởi đầu sự ê buốt răng 
(ngưỡng đau) cho nên đây được xem là công cụ 
chẩn đoán khách quan nhất tình trạng quá cảm 
ngà hiện nay trên thế giới do có thể đo lường lực 
tác động(2,3). 
Kết quả nghiên cứu này cho thấy rằng độ 
tuổi và giới tính của các đối tượng tham gia 
nghiên cứu đã phản ánh được một số đặc điểm 
dịch tễ học của quá cảm ngà ở người Việt Nam 
trưởng thành. 
Tỉ lệ phần trăm bệnh nhân có quá cảm ngà 
Tỉ lệ hiện mắc quá cảm ngà trong nghiên cứu 
của chúng tôi là 55,41% (Bảng 1). Kết quả này 
phù hợp với các báo cáo trước đây của tác giả 
Hoàng Đạo Bảo Trâm (2012) và Tống Minh Sơn 
(2014) cho rằng tỉ lệ nhạy cảm ngà ở người Việt 
Nam trưởng thành khoảng 47% - 57% và tỉ lệ 
này nằm ở mức trung bình trên thế giới(4,5,8,10). 
Tuy nhiên một số nghiên cứu đưa ra một tỉ lệ 
thấp hơn từ 2,8% - 18,2% (1). Sự khác biệt này có 
thể do đối tượng nghiên cứu của chúng tôi bao 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 148
gồm những bệnh nhân đến khám răng miệng tại 
trường Đại học, tất cả các đối tượng đã được 
sàng lọc thông qua bảng câu hỏi trước khi đánh 
giá lâm sàng nên đây là những đối tượng có 
nguy cơ mắc phải quá cảm ngà, nhưng thấp hơn 
so với kết quả của một số nghiên cứu khác vì các 
tác giả chọn đối tượng nghiên cứu là bệnh nhân 
của Bệnh viện, đây được xem là nhóm đối tượng 
có quá cảm ngà cao. 
Trong nghiên cứu này, kết quả còn ghi nhận 
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa tỉ lệ 
phần trăm nam và nữ có quá cảm ngà, với tỉ lệ 
nữ có quá cảm ngà cao hơn nam (Bảng 1). Sự 
khác biệt này cũng phù hợp với các nghiên cứu 
trước đây(5,6,7). Cho đến nay, sự khác biệt này vẫn 
còn đang tranh cãi, đa số các tác giả cho rằng nữ 
có sức khỏe tổng quát và nhận thức vệ sinh răng 
miệng tốt hơn, thường xuyên chải răng nhiều 
hơn nên họ dễ nhạy cảm với đau hơn nam. 
Ngoài ra, cũng có thể do chế độ ăn khác nhau 
nên nữ có răng bị mài mòn và xoi mòn nhiều 
hơn nam. 
Tần suất quá cảm ngà tăng dần theo tuổi và 
đặc biệt cao nhất ở lứa tuổi thanh niên (23-31 
tuổi) chiếm tỉ lệ 30,73% và sau đó giảm dần theo 
tuổi tác. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với 
p<0,001 (Bảng 2). Kết quả này hoàn toàn phù 
hợp với nghiên cứu của Nguyễn Thị Từ Uyên 
(2010)(6). Trong nghiên cứu đó, tác giả nhận thấy 
những đối tượng từ 23 tuổi trở lên có quá cảm 
ngà cao nhất. Một nghiên cứu khác của Tống 
Minh Sơn (2014) cũng đã báo cáo tỉ lệ phần trăm 
quá cảm ngà gặp nhiều ở lứa tuổi 22-40 (87,83%), 
trong đó cao nhất là dưới 30 tuổi(10). 
Trung bình số răng có quá cảm ngà 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi còn cho 
thấy trung bình một bệnh nhân có 3,9 răng quá 
cảm ngà. Trung bình số răng có quá cảm ngà ở 
nam (3,3 răng) thấp hơn nữ (4,3 răng) có ý nghĩa 
thống kê (p<0,001) (Bảng 3). Kết quả này hoàn 
toàn phù hợp với nghiên cứu của Liu (1998), 
theo tác giả trung bình số răng có quá cảm ngà là 
3,8 răng. Sự tương đồng này có thể do mẫu 
nghiên cứu của Liu có khoảng tuổi khá rộng từ 
20-83 tuổi, do đó trung bình số răng bị quá cảm 
của nghiên cứu này cao(5). Tuy nhiên, đây là con 
số lớn hơn nhiều so với kết quả của những 
nghiên cứu khác. Theo Nguyễn Thị Từ Uyên 
(2010), trung bình số răng quá cảm là 1,12 - 2,48, 
có thể lý giải sự khác biệt này do nghiên cứu chỉ 
thực hiện trên những đối tượng là sinh viên từ 
19-23 tuổi, đây là lứa tuổi ít có quá cảm ngà nhất 
trong nghiên cứu của chúng tôi cho nên trung 
bình số răng quá cảm thấp hơn(6). 
Kết quả ghi nhận có sự khác biệt có ý nghĩa 
(p<0,001) về trung bình số răng bị quá cảm ngà 
giữa các nhóm tuổi. Trung bình số răng có quá 
cảm ngà cao nhất ở nhóm tuổi từ 32-45, trong đó 
cao nhất là 5 răng (Bảng 4). Nhìn chung kết quả 
này khá phù hợp với nghiên cứu của Çolak 
(2012) với trung bình số răng quá cảm cao nhất 
là 5,5 răng ở nhóm tuổi từ 41-50(1). 
Trung bình quá cảm ngà ở các nhóm răng 
Nghiên cứu này cho thấy bệnh nhân có răng 
cối nhỏ bị quá cảm ngà nhiều nhất chiếm tỉ lệ 
63,78% và răng cửa là nhóm răng ít bị quá cảm 
nhất với 18,65% (Biểu đồ 1). Tương tự, nghiên 
cứu của một số tác giả trên thế giới cũng cho 
rằng răng cối nhỏ là nhóm răng thường bị quá 
cảm nhất(1,6). 
Một số tác giả khác như Taani và Awartani 
(2002) hay Rees (2003) lại báo cáo răng cửa là 
nhóm răng bị ảnh hưởng nhiều nhất(8,9). Nghiên 
cứu thực hiện trên đối tượng là những bệnh 
nhân đang điều trị bệnh nha chu của trường Đại 
học, sự khác biệt này dẫn đến làm sai lệch kết 
quả trong nhóm răng bị ảnh hưởng nhất. Trong 
điều trị viêm nha chu không phẫu thuật, nhóm 
răng cửa một chân đáp ứng tốt hơn so với nhóm 
răng nhiều chân, ở răng cửa việc loại bỏ mô 
nhiễm trùng ở bề mặt chân răng dường như dễ 
dàng hơn và do vậy nó được giữ lại trên miệng 
lâu hơn so với răng nhiều chân. Sự tụt nướu có 
thể là nguyên nhân khiến các răng cửa có nguy 
cơ nhạy cảm nhiều hơn. Mặt khác, bệnh nhân 
cũng thực sự muốn giữ lại những răng này lâu 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 149
hơn chủ yếu do thẩm mỹ ngay cả khi các răng 
này đã bị suy yếu trầm trọng. Khi phân biệt chi 
tiết giữa hàm trên và hàm dưới, nghiên cứu còn 
cho thấy nhóm răng cối nhỏ hàm dưới bị quá 
cảm ngà nhiều nhất và răng cối lớn thứ hai hàm 
trên là nhóm ít bị quá cảm ngà nhất. 
Điểm mạnh và hạn chế của nghiên cứu 
Nghiên cứu của chúng tôi đã sử dụng thám 
trâm điện tử Yeaple để đo lường tình trạng quá 
cảm ngà. Trong chẩn đoán và điều trị quá cảm 
ngà hiện nay, thám trâm điện tử Yeaple là một 
thiết bị cơ học được Hướng dẫn ADA khuyến 
nghị sử dụng như là một “phương pháp chuẩn”. 
Ưu điểm chính của thám trâm Yeaple là sự nhạy 
xúc giác có thể ghi lại dưới dạng một lực cố định 
và lực này có thể lặp lại được. Đầu thám trâm 
cũng có khả năng tiếp xúc đến tất cả bề mặt 
răng(2,3). Tuy nhiên, thiết bị đo này có giá thành 
cao và khá hiếm trên thị trường thế giới và tại 
Việt Nam nên ít được sử dụng trong các điều tra 
cộng đồng. Do đó, để khắc phục những hạn chế 
trên, cần thêm nữa các nghiên cứu tiến hành so 
sánh thám trâm nha khoa và luồng hơi là hai 
phương pháp được sử dụng khá phổ biến trên 
thế giới nhằm khẳng định giá trị chẩn đoán của 
cả hai phương pháp này, qua đó có thể ứng 
dụng phương pháp này trong các nghiên cứu 
dịch tễ học về quá cảm ngà ở Việt Nam. 
KẾT LUẬN 
Việc chẩn đoán chính xác tình trạng quá cảm 
ngà nhằm đưa ra hướng điều trị thích hợp đã và 
đang là một vấn đề nghiên cứu được quan tâm 
hiện nay. Qua khảo sát cho thấy phần trăm bệnh 
nhân có quá cảm ngà chiếm tỉ lệ khá cao 55,41%. 
Tỉ lệ này được báo cáo tăng lên theo tuổi, hơn 
nữa, sự tăng mức độ ngà lộ do tụt nướu thường 
đi kèm với sự tăng mức độ mòn răng do chế độ 
ăn uống những chất có tính axít làm cho tỉ lệ quá 
cảm ngà sẽ lại càng gia tăng nhiều hơn trong 
tương lai. Bên cạnh đó, do việc thực hành vệ 
sinh răng miệng và sự phát triển của các phương 
pháp điều trị nha chu, bệnh nhân có thể giữ 
được răng lại lâu hơn trong miệng và có sự tăng 
tình trạng ngà lộ, điều này dẫn đến tỉ lệ quá cảm 
ngà tiếp tục gia tăng. Vì vậy, yêu cầu tìm ra các 
phương pháp đo lường chính xác tình trạng quá 
cảm ngà của bệnh nhân cũng như các biện pháp 
phòng ngừa và điều trị hiệu quả là một trong 
những vấn đề cấp thiết hiện nay trong nha khoa. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Çolak H, Demirer S, Hamidi M (2012). Prevalence of dentine 
hypersensitivity among adult patients attending a dental 
hospital clinic in Turkey. West Indian Med J,61 (2), pp.174-179. 
2. Gillam D.G., Newman H.N. (1993). Assessment of pain in 
cervical dentinal sensitivity studies. A review. J Clin Periodontol, 
20, pp.383-394. 
3. Kleinberg I, Kaufman H.W., Wolff M (1994). Measurement of 
tooth hypersensitivity and oral factors involved in its 
development. Archs Oral Biol, 39, pp.63S-71S. 
4. Lê Nữ Khôi Nguyên, Phạm Ngọc Dung, Hoàng Đạo Bảo Trâm 
(2005). Thử nghiện lâm sàng hiệu quả điều trị quá cảm ngà cổ 
răng của vécni shellac F. Tiểu luận tốt nghiệp Bác sĩ Răng Hàm 
Mặt, Đại học Y Dược TP.HCM. 
5. Liu H.C., Lan W.H., Hsieh C.C. (1998). Prevalence and 
distribution of cervical dentin hypersensitivity in a population in 
Taipei, Taiwan. Journal of Endodontics, 24 (1), pp.45-47. 
6. Nguyễn Thị Từ Uyên, Trần Đức Thành, Hoàng Trọng Hùng 
(2010). Tình trạng quá cảm ngà răng của sinh viên Đại học Y 
Dược TP.HCM. Tiểu luận tốt nghiệp Bác sĩ Răng Hàm Mặt, Đại 
học Y Dược TP.HCM. 
7. Que K, Ruan J, Fan X, Liang X, Hu D (2010). A multi-centre and 
cross-sectional study of dentine hypersensitivity in China. 
Journal of Clinical Periodontology, 37, pp.631-637. 
8. Rees J.S., Jin L.J., Lam S, Kudanowska I (2003). The prevalence of 
dentine hypersensitivity in a hospital clinic population in Hong 
Kong. Journal of Dentistry,31, pp.453-461. 
9. Taani S.D.M.Q., Awartani F (2002). Clinical evaluation of 
cervical dentine sensitivity (CDS) in patients attending general 
dental clinics (GDC) and periodontal speciality clinics (PSC). 
Journal of Clinical Periodontology, 29, pp.118-122. 
10. Tống Minh Sơn (2013). Tình trạng nhạy cảm ngà răng của nhân 
viên công ty Bảo hiểm Nhân thọ tại Hà Nội. Nghiên cứu Y học, số 
5, tr.31-36. 
Ngày nhận bài báo: 30/01/2015 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 28/02/2015 
Người phản biện: TS Huỳnh Kim Khang 
Ngày bài báo được đăng: 10/04/2015 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 tinh_trang_qua_cam_nga_cua_benh_nhan_khoa_rang_ham_mat_dai_h.pdf tinh_trang_qua_cam_nga_cua_benh_nhan_khoa_rang_ham_mat_dai_h.pdf