Cơ cấu của Chính phủ và sự đề cao
trách nhiệm cá nhân
Hiến pháp năm 2013 (Điều 95) quy định về
cơ cấu của Chính phủ, theo đó Chính phủ gồm
Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính
phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ. Cơ cấu, số lượng thành viên Chính
phủ do Quốc hội quyết định. Chính phủ làm việc
theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số.
So với quy định của Hiến pháp năm 1946
thì quy định về cơ cấu của Chính phủ trong
Hiến pháp năm 2013 không hoàn toàn giống
bởi người đứng đầu Chính phủ không đồng
thời là nguyên thủ quốc gia. Tuy nhiên, tinh
thần đề cao trách nhiệm của cá nhân người
đứng đầu cũng như cá nhân các thành viên
Chính phủ trong Hiến pháp năm 1946 vẫn có
sự kế thừa nhất định. Hiến pháp năm 2013 quy
định rõ Thủ tướng là người đứng đầu Chính
phủ, các Phó Thủ tướng và Bộ trưởng phải
chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng
Chính phủ15. Quy định các Phó Thủ tướng và
Bộ trưởng phải chịu trách nhiệm cá nhân trước
Thủ tướng Chính phủ vừa đề cao vai trò, vị thế
của người đứng đầu Chính phủ, vừa bảo đảm
tính thứ bậc cần thiết, tạo tiền đề trong chỉ đạo,
điều hành thông suốt của Thủ tướng và Chính
phủ trong nền hành chính quốc gia.
Ngoài ra, Hiến pháp năm 2013 cũng có quy
định một điều riêng (Điều 98) về thẩm quyền
của Thủ tướng Chính phủ, tương xứng với
người đứng đầu của một Chính phủ hành pháp.
Thủ tướng Chính phủ “Lãnh đạo công tác của
Chính phủ; lãnh đạo việc xây dựng chính sách
và tổ chức thi hành pháp luật”, “Lãnh đạo và
chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống
hành chính nhà nước từ trung ương đến địa
phương, bảo đảm tính thống nhất và thông suốt
của nền hành chính quốc gia”.
Hiến pháp năm 2013 cũng có điều riêng
(Điều 99) về thẩm quyền của Bộ trưởng, theo
đó, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
là thành viên Chính phủ và là người đứng đầu
bộ, cơ quan ngang bộ, lãnh đạo công tác của
bộ, cơ quan ngang bộ; chịu trách nhiệm quản
lý nhà nước về ngành, lĩnh vực được phân
công; tổ chức thi hành và theo dõi việc thi
hành pháp luật liên quan đến ngành, lĩnh vực
trong phạm vi toàn quốc.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 267 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tổ chức và hoạt động của chính phủ theo hiến pháp năm 1946 và sự kế thừa, phát triển trong hiến pháp năm 2013, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Soá 4/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
3
CAÛI CAÙCH TÖ PHAÙP
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH PHỦ THEO HIẾN PHÁP NĂM 1946
VÀ SỰ KẾ THỪA, PHÁT TRIỂN TRONG HIẾN PHÁP NĂM 2013
Nguyễn Văn Cương1
Khái quát quy định về Chính phủ trong
Hiến pháp năm 1946
Hiến pháp năm 1946, bản Hiến pháp đầu
tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam ra đời
trong hoàn cảnh rất đặc biệt và là một trong
những văn kiện thể hiện rất sâu đậm tư tưởng
của chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp
luật. Trong bối cảnh đất nước vừa giành lại độc
lập, như cách nói trong lời nói đầu của Hiến
pháp này là “đã giành lại chủ quyền cho đất
nước, tự do cho nhân dân và lập ra nền dân chủ
cộng hòa”, đất nước đã “thoát khỏi vòng áp
bức của chính sách thực dân, đồng thời đã gạt
bỏ chế độ vua quan” và nước nhà “đã bước
sang một quãng đường mới”. Đây cũng là giai
đoạn mà dân tộc ta đặt trọng tâm vào nhiệm vụ
“bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và
kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ”.
Hiến pháp năm 1946 được xây dựng trên
nguyên tắc “đoàn kết toàn dân, không phân
biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo. Bảo
đảm các quyền tự do dân chủ.” Đặc biệt, Hiến
pháp năm 1946 chủ trương thực hiện “chính
quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân”.
Tóm tắt: Trong bối cảnh công cuộc cải cách, đổi mới đất nước ngày càng đi vào chiều sâu,
có thể nói, việc thực hiện đúng, đầy đủ quy định của Hiến pháp hiện hành, trong đó có các quy
định về Chính phủ cần được coi là giải pháp quan trọng hàng đầu để giải quyết các bài toán về
đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, tận dụng
cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, hiện đại hóa đất nước, theo kịp đà tiến hóa
chung của thế giới, từng bước giải tỏa được ưu tư của người dân và các cấp lãnh đạo về tình
trạng tụt hậu của đất nước. Bài viết về tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo Hiến pháp năm
1946 và sự kế thừa, phát triển trong Hiến pháp năm 2013 để kỷ niệm 71 năm ngày ban hành bản
Hiến pháp năm 1946, ôn lại các quy định của bản Hiến pháp này, trong đó có các quy định về
Chính phủ đặt trong sự so sánh với thực tiễn lịch sử và quá trình phát triển của Hiến pháp Việt
Nam (mà trực tiếp là Hiến pháp năm 2013).
Từ khóa: Hiến pháp; Quốc hội; Chính phủ; Nghị viện
Nhận bài: 06/3/2017; Hoàn thành biên tập: 18/4/2017; Duyệt đăng: 23/5/2017
1 Tiến sỹ, Viện trưởng Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp
Abstract: In the context of legal reform, the innovation process is focusing on the quality, it
can be said that the full and right implementation of the current Constitution with regulations
of the Government should be considered as the first important solution to solve issue on model
of growth, restructure and enhance competiveness of the economy, taking advantage of the 4th
industrial Revolution, modernization, keeping pace with the advancement,gradually easing the
anxiety of the people and leaders at different levels about the legging behind of the country. This
article highlights the organization and operation of the Government under Constitution 1946 and
the inheritance, development in Constitution 2013 to commemorate the 70 years of issuing
Constitution 1946, remembering regulations of this Constitution in which the regulations of the
Government are in the comparision with reality and the development process of Viet Nam’s
Constitution (directly the Constitution 2013).
Keywords: Constitution; National Assembly; Government; Congress
Date of receipt: 06/3/2017; Date of revision: 18/4/2017; Date of approval: 23/5/2017
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
4
Có thể nói, tinh thần tạo lập một chính
quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân
được thể hiện rõ nét trong các quy định về tổ
chức bộ máy nhà nước nhưng có lẽ đậm nét
nhất chính là trong các quy định về Chính phủ.
Hiến pháp năm 1946 dành một chương
riêng quy định về Chính phủ (Chương IV) với
14 điều (từ Điều thứ 43 đến Điều thứ 56).
1.1. Vị trí, tính chất của Chính phủ
Hiến pháp năm 1946 khẳng định rõ tính
chất “cơ quan hành chính” của Chính phủ và
xác định vị trí của Chính phủ là “cơ quan hành
chính cao nhất” của cả nước. Cụ thể, Điều thứ
43 quy định “Cơ quan hành chính cao nhất của
toàn quốc là Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng
hòa”.
1.2. Cơ cấu tổ chức của Chính phủ
Chính phủ theo Hiến pháp năm 1946 có cơ
cấu nhân sự khá đặc biệt so với các bản Hiến
pháp về sau khi xác định nguyên thủ quốc gia
(Chủ tịch nước) cũng đồng thời là người đứng
đầu Chính phủ.
Điều thứ 44 Hiến pháp năm 1946 quy định:
“Chính phủ gồm có Chủ tịch nướcPhó chủ
tịch và Nội các. Nội các có Thủ tướng, các Bộ
trưởng, Thứ trưởng. Có thể có Phó Thủ tướng”.
Nhân sự của Chính phủ được chọn lựa như
sau (Điều thứ 45-48):
- Chủ tịch nước được chọn trong Nghị viện
nhân dân và phải được hai phần ba tổng số nghị
viên bỏ phiếu thuận. Nếu bỏ phiếu lần đầu mà
không đủ số phiếu ấy, thì lần thứ nhì sẽ theo đa
số tương đối. Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước là 5
năm và có thể được tái nhiệm.
- Phó Chủ tịch nước được chọn trong nhân
dân và bầu theo lệ thường với nhiệm kỳ theo
nhiệm kỳ của Nghị viện (tức là 3 năm). Phó
chủ tịch giúp Chủ tịch. Khi Chủ tịch từ trần hay
từ chức thì Phó chủ tịch tạm quyền Chủ tịch.
Chậm nhất là hai tháng phải bầu Chủ tịch mới.
- Thủ tướng do Chủ tịch nước chọn trong
Nghị viện và đưa ra Nghị viện biểu quyết. Nếu
được Nghị viện tín nhiệm, Thủ tướng chọn các
Bộ trưởng trong Nghị viện và đưa ra Nghị viện
biểu quyết toàn thể danh sách. Thứ trưởng có
thể chọn ngoài Nghị viện và do Thủ tướng đề
cử ra Hội đồng Chính phủ duyệt y. Nhân viên
Ban thường vụ Nghị viện không được tham dự
vào Chính phủ. Nếu khuyết Bộ trưởng nào thì
Thủ tướng thỏa thuận với Ban Thường vụ để
chỉ định ngay người tạm thay cho đến khi Nghị
viện họp và chuẩn y.
1.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ
và người đứng đầu Chính phủ
Theo quy định tại Điều thứ 52 Hiến pháp
năm 1946, Chính phủ có 7 quyền hạn sau đây2:
Thi hành các đạo luật và quyết nghị của
Nghị viện.
Đề nghị những dự án luật ra trước Nghị
viện.
Đề nghị những dự án sắc luật ra trước Ban
thường vụ, trong lúc Nghị viện không họp mà
gặp trường hợp đặc biệt.
Bãi bỏ những mệnh lệnh và nghị quyết của
cơ quan cấp dưới, nếu cần.
Bổ nhiệm hoặc cách chức các nhân viên
trong các cơ quan hành chính hoặc chuyên
môn.
Thi hành luật động viên và mọi phương
sách cần thiết để giữ gìn đất nước.
Lập dự án ngân sách hàng năm.
Có thể nói, nội dung quyền hạn của Chính
phủ như quy định tại Điều thứ 52 Hiến pháp
năm 1946 đã phản ánh cốt lõi những thẩm
quyền của một Chính phủ trong nhà nước hiện
đại, trong đó những việc quan trọng hàng đầu
2 Ngoài ra, Hiến pháp cũng có quy định riêng về thẩm quyền của người đứng đầu Chính phủ (Chủ tịch nước) (Điều
thứ 49 với tư cách là nguyên thủ quốc gia, theo đó: Chủ tịch nước có quyền: a) Thay mặt cho nước; b) Giữ quyền
Tổng chỉ huy quân đội toàn quốc, chỉ định hoặc cách chức các tướng soái trong lục quân, hải quân, không quân; c)
Ký sắc lệnh bổ nhiệm Thủ tướng, nhân viên Nội các và nhân viên cao cấp thuộc các cơ quan Chính phủ; d) Chủ
toạ Hội đồng Chính phủ; đ) Ban bố các đạo luật đã được Nghị viện quyết nghị; e) Thưởng huy chương và các bằng
cấp danh dự; g) Đặc xá; h) Ký hiệp ước với các nước; i) Phái đại biểu Việt Nam đến nước ngoài và tiếp nhận đại
biểu ngoại giao của các nước; k) Tuyên chiến hay đình chiến theo như Điều 38 đã định.
Soá 4/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
5
chính là tổ chức thi hành luật, trình dự án luật,
lập dự án ngân sách quốc gia, thực hiện các
công việc điều hành nền hành chính quốc gia
(bãi bỏ văn bản của cấp dưới, bổ nhiệm nhân
sự cơ quan hành chính). Đây cũng chính là nội
dung cốt lõi của quyền hành pháp trong một
Chính phủ hiện đại.
Một trong những nét đặc sắc trong quy định
của Hiến pháp năm 1946 liên quan tới Chính
phủ là với sự hiện diện của chế định Nguyên
thủ quốc gia đồng thời kiêm vai trò người đứng
đầu Chính phủ. Với cách thiết kế về nguyên thủ
quốc gia kiêm người đứng đầu Chính phủ (hành
pháp) như thế, Hiến pháp năm 1946 đã dành
cho người đứng đầu Chính phủ (Chủ tịch nước)
quyền hạn rất lớn gắn với cơ chế chịu trách
nhiệm khá đặc biệt. Cụ thể, theo Hiến pháp năm
1946, Chủ tịch nước không chỉ có quyền chủ
tọa các phiên họp của Hội đồng Chính phủ mà
còn có quyền yêu cầu Nghị viện nhân dân thảo
luận lại những dự luật đã được Nghị viện biểu
quyết3. Thêm vào đó, người đứng đầu Chính
phủ (Chủ tịch nước) không phải chịu một trách
nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản quốc4. Chế
định về người đứng đầu quốc gia kiêm đứng
đầu Chính phủ này là một sáng tạo rất độc đáo,
tuy có sự tham khảo, kế thừa nhất định các mô
hình tổ chức bộ máy nhà nước phổ biến thời
bấy giờ (chẳng hạn mô hình chính thể đại nghị,
mô hình chính thể tổng thống và mô hình nhà
nước Xô Viết) nhưng không trùng khớp với bất
kỳ mô hình nào đã nêu.
Những quy định kể trên được thực tiễn
chứng minh là rất phù hợp với bối cảnh đất
nước vừa giành được độc lập sau nhiều thập kỷ
bị thực dân phương Tây đô hộ, đang chuẩn bị
cho một cuộc chiến trường kỳ chống kẻ thù có
tiềm lực mạnh hơn Việt Nam rất nhiều lần5.
Bởi lẽ, bối cảnh đất nước ấy rất cần có một
chính quyền mạnh mẽ để đoàn kết, tập hợp
toàn dân kháng chiến và kiến quốc6. Thật khó
hình dung những chiến thắng vang dội của đất
nước ta những năm sau đó, nhất là chiến thắng
đánh đuổi thực dân Pháp sau 9 năm kháng
chiến trường kỳ biết bao gian khổ, lập lại hòa
bình ở miền Bắc nếu thiếu vắng thiết chế
Chính phủ có đủ quyền lực, gắn với vai trò cá
nhân của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà Hiến pháp
năm 1946 đã trao.
1.4. Mối quan hệ giữa Chính phủ và Nghị
viện nhân dân (Quốc hội)
Theo quy định của Hiến pháp năm 1946,
Chính phủ chịu sự giám sát của Nghị viện nhân
dân (Quốc hội). Việc giám sát của Quốc hội đối
với Chính phủ được thực hiện theo nhiều
phương thức khác nhau, trong đó có cơ chế báo
cáo, chất vấn và cơ chế bỏ phiếu tín nhiệm.
Về cơ chế báo cáo, chất vấn, Điều thứ 55
Hiến pháp năm 1946 quy định rõ “Các Bộ
trưởng phải trả lời bằng thư từ hoặc bằng lời
nói những điều chất vấn của Nghị viện hoặc
Ban thường vụ. Kỳ hạn trả lời chậm nhất là 10
ngày sau khi nhận được thư chất vấn”.
Về cơ chế bỏ phiếu tín nhiệm, Điều thứ 54
Hiến pháp năm 1946 quy định “Bộ trưởng nào
không được Nghị viện tín nhiệm thì phải từ
chức”. Thủ tướng và tập thể Nội các cũng có
thể bị đặt vấn đề về sự tín nhiệm, theo đó “Thủ
tướng phải chịu trách nhiệm về con đường
chính trị của Nội các. Nhưng Nghị viện chỉ có
thể biểu quyết về vấn đề tín nhiệm khi Thủ
tướng, Ban thường vụ hoặc một phần tư tổng
3 Điều thứ 31.
4 Điều thứ 50.
5 Đây là nhận định được cả các học giả có uy tín của nước ngoài công nhận. Chẳng hạn, xem Mark Sidel, The
Constitution of Vietnam: A Contextual Analysis (Oxford: Hart Publishing, 2009) at 33.
6 Trong Kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa I (cuối tháng 10 đầu tháng 11/1946), khi phát biểu trước Quốc hội về lập Chính
phủ mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố “Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ liêm khiết, một Chính
phủ biết làm việc, có gan góc, quyết tâm đi vào mục đích trong thì kiến thiết, ngoài thì tranh thủ độc lập và thống
nhất của nước nhà” [PGS.TS. Lê Mậu Hãn (chủ biên), Lịch sử Chính phủ Việt Nam: tập 1, 1945-1955 (Hà Nội: NXB
Chính trị quốc gia, 2008) tr. 149].
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
6
số Nghị viện nêu vấn đề ấy ra”. Tuy nhiên,
“trong hạn 24 giờ sau khi Nghị viện biểu quyết
không tín nhiệm Nội các thì Chủ tịch nước Việt
Nam có quyền đưa vấn đề tín nhiệm ra Nghị
viện thảo luận lại. Cuộc thảo luận lần thứ hai
phải cách cuộc thảo luận lần thứ nhất là 48 giờ.
Sau cuộc biểu quyết này, Nội các mất tín
nhiệm phải từ chức”7.
2. Quy định về Chính phủ trong Hiến
pháp năm 2013 qua góc nhìn so sánh với
quy định tương ứng của Hiến pháp năm
1946
Hiến pháp năm 2013 được ban hành trong
bối cảnh đất nước đã tiến hành công cuộc đổi
mới được gần 3 thập niên và đang cần tìm tiếp
những động lực cho phát triển. Đây cũng là bản
Hiến pháp được xây dựng khi đất nước đã hội
nhập rất sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và
cộng đồng quốc tế, trong đó có cộng đồng
ASEAN. Mặc dù vậy, đất nước cũng đang phải
đối mặt với rất nhiều thách thức mà như gần
đây Đại hội XII nhận định: “Nhìn tổng thể, qua
30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; đồng thời
cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn
chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết,
khắc phục để tiếp tục đưa đất nước phát triển
nhanh và bền vững”8. Trong số những vấn đề
lớn, phức tạp, những hạn chế cần tập trung giải
quyết, khắc phục cần phải kể tới tình trạng “tụt
hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong
khu vực và trên thế giới”9, tình trạng “kỷ
cương, kỷ luật trong quản lý nhà nước, thực thi
công vụ còn nhiều yếu kém”10, “năng lực thực
thi luật pháp chưa cao”11, cùng các biểu hiện
tha hóa quyền lực do “cơ chế kiểm soát quyền
lực chậm được hoàn thiện, còn nhiều sơ hở”12.
Trong bối cảnh đó, việc tiếp tục đổi mới,
hoàn thiện quy định về Chính phủ trong Hiến
pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)
để Chính phủ có đủ vị trí, quyền hạn cần thiết
giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội, phát triển
đất nước bền vững là rất cần thiết. Điều khá
đặc sắc là, tinh thần xây dựng chính quyền
“mạnh mẽ và sáng suốt”, đề cao trách nhiệm,
tính năng động, sáng tạo của Chính phủ và
người đứng đầu Chính phủ của Hiến pháp năm
1946 thể hiện khá rõ trong quy định về Chính
phủ trong Hiến pháp năm 2013, cụ thể:
2.1. Vị trí và tính chất của Chính phủ
Hiến pháp năm 2013 (Điều 94) quy định
“Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước
cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ
quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ chịu
trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công
tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc
hội, Chủ tịch nước”.
Hiến pháp năm 2013 đã quy định rõ tính
chất, vị trí của Chính phủ với tư cách là “cơ
quan hành chính nhà nước cao nhất” của đất
nước, “thực hiện quyền hành pháp”. Việc nhấn
mạnh và đưa lên thứ nhất tư cách là cơ quan
hành chính nhà nước cao nhất, cùng với việc
khẳng định rõ Chính phủ là cơ quan thực hiện
quyền hành pháp chuyển tải thông điệp về việc
Chính phủ cần coi trọng hàng đầu việc hoạch
định, điều hành chính sách quốc gia, tổ chức
7 Quy định về bỏ phiếu tín nhiệm thành viên Chính phủ này đã không còn được giữ lại trong Hiến pháp năm 1959,
Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992. Tuy nhiên, trong lần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2001, quy định
về bỏ phiếu tín nhiệm thành viên Chính phủ đã được khôi phục lại một phần. Hiến pháp năm 2013 vẫn duy trì quy
định về bỏ phiếu tín nhiệm thành viên Chính phủ mà lần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2001 đã quy định.
8 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII (Hà Nội, NXB Chính trị quốc gia,
2016) tr. 16.
9 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII (Hà Nội, NXB Chính trị quốc gia,
2016) tr. 19.
10 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII (Hà Nội, NXB Chính trị quốc gia,
2016) tr. 174-175.
11 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII (Hà Nội, NXB Chính trị quốc gia,
2016) tr. 259.
12 Nghị quyết Hội nghị trung ương 4 (Khóa XII).
Soá 4/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
7
thực hiện pháp luật nghiêm minh, bảo đảm tính
thông suốt, thống nhất trong vận hành của nền
hành chính quốc gia13. So với quy định về vị
trí, tính chất của Chính phủ trong Hiến pháp
năm 1946, tính kế thừa (Chính phủ là cơ quan
hành chính cao nhất của quốc gia) và bổ sung,
phát triển (Chính phủ là cơ quan thực hiện
quyền hành pháp) được thể hiện khá đậm nét.
2.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính
phủ với tinh thần đề cao tính năng động,
sáng tạo của Chính phủ
Hiến pháp năm 2013 (Điều 96) quy định
Chính phủ có 8 nhóm nhiệm vụ và quyền hạn
cụ thể. Điều đáng nói là, nhóm nhiệm vụ,
quyền hạn đầu tiên của Chính phủ phải thực
hiện (và được Hiến pháp giao) là “Tổ chức thi
hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc
hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường
vụ Quốc hội”. Tiếp đến, Chính phủ được quy
định thực hiện nhóm nhiệm vụ thứ hai là “Đề
xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy
ban thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết
định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn quy định tại Điều này; trình dự án
luật, dự án ngân sách nhà nước và các dự án
khác trước Quốc hội; trình dự án pháp lệnh
trước Ủy ban thường vụ Quốc hội”. Ngoài ra,
Chính phủ được quy định thực hiện việc
“Thống nhất quản lý về kinh tế, văn hóa, xã
hộiđối ngoại, quốc phòng, an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội”, “Thống nhất quản lý
nền hành chính quốc gia”,“Bảo vệ quyền và
lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con
người, quyền công dân” v.v.
So với quy định tương ứng của Hiến pháp
năm 1946 (Điều thứ 52), quy định về nhiệm vụ
và quyền hạn của Chính phủ trong Hiến pháp
năm 2013 đã kế thừa những nội dung then chốt
trong quyền năng của cơ quan hành chính cao
nhất của toàn quốc mà Hiến pháp năm 1946 đã
quy định cho Chính phủ. Trong đó, phải kể tới
nội dung quyền năng về tổ chức thi hành Luật
và các văn bản pháp luật khác của Quốc hội (và
cơ quan thường trực của Quốc hội), quyền trình
dự án văn bản quy phạm pháp luật trước Quốc
hội (và cơ quan thường trực của Quốc hội),
quyền trình dự án ngân sách nhà nước, quyền
quản lý và điều hành nền hành chính quốc gia.
Việc sắp xếp thứ tự của các quyền năng, trong
đó đưa tổ chức thi hành văn bản pháp luật do
Quốc hội ban hành lên ưu tiên thứ nhất cũng là
sự kế thừa cách thiết kế quy định về thẩm quyền
của Chính phủ trong Hiến pháp năm 1946,
đồng thời cũng thể hiện trách nhiệm hàng đầu
của cơ quan thực hiện quyền hành pháp.
Tất nhiên, quy định của Hiến pháp năm
2013 có những điểm bổ sung, phát triển khi so
sánh với quy định tương ứng của Hiến pháp
năm 1946 về quyền hạn của Chính phủ khi
khẳng định rõ nét hơn Chính phủ thực hiện
quyền đề xuất, xây dựng chính sách cùng một
số quyền năng khác, phù hợp với quy định
Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành
pháp mà Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên quy
định. Việc bổ sung quy định như trên đã khẳng
định vai trò hoạch định chính sách của Chính
phủ đặt ra yêu cầu rất quan trọng là “Chính phủ
phải coi trọng công tác hoạch định chính sách,
nâng cao chất lượng các chính sách phát triển
đất nước với tầm nhìn chiến lược, phù hợp với
xu thế phát triển của thời đại, một Chính phủ
thực sự phục vụ nhân dân và xã hội, có vai trò
mở đường và thúc đẩy phát triển”14.
Ngoài ra, việc thiết kế quy định về thẩm
quyền của Chính phủ mang tính khái quát như
quy định của Hiến pháp năm 2013 (so với Hiến
pháp năm 1992 trước đó), nhấn mạnh vai trò
quản lý vĩ mô của Chính phủ cũng góp phần
tạo cơ sở hiến định cho một Chính phủ năng
động, sáng tạo và linh hoạt. Thực tế chứng
minh rằng, không phải cứ quy định cho Chính
phủ thật nhiều quyền, yêu cầu Chính phủ làm
13 Điều 109 Hiến pháp năm 1992 coi vị trí, tính chất thứ nhất của Chính phủ là “cơ quan chấp hành của Quốc hội”,
sau đó mới là “cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
14 TS.Uông Chu Lưu, et.al, (chủ biên), Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 và thành
tựu lập pháp trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII (Hà Nội, NXB Chính trị quốc gia, 2016) tr. 383.
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
8
thật nhiều việc mới có được một Chính phủ
mạnh mà điều quan trọng, muốn có một Chính
phủ năng động, sáng tạo và mạnh mẽ, Chính
phủ chỉ nên tập trung vào làm những công việc
đúng với vị thế, vai trò và chức năng quản lý vĩ
mô của mình đối với xã hội và phải làm một
cách quyết liệt, triệt để, đến nơi đến chốn để
tạo niềm tin chắc chắn trong Nhân dân.
2.3. Cơ cấu của Chính phủ và sự đề cao
trách nhiệm cá nhân
Hiến pháp năm 2013 (Điều 95) quy định về
cơ cấu của Chính phủ, theo đó Chính phủ gồm
Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính
phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ. Cơ cấu, số lượng thành viên Chính
phủ do Quốc hội quyết định. Chính phủ làm việc
theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số.
So với quy định của Hiến pháp năm 1946
thì quy định về cơ cấu của Chính phủ trong
Hiến pháp năm 2013 không hoàn toàn giống
bởi người đứng đầu Chính phủ không đồng
thời là nguyên thủ quốc gia. Tuy nhiên, tinh
thần đề cao trách nhiệm của cá nhân người
đứng đầu cũng như cá nhân các thành viên
Chính phủ trong Hiến pháp năm 1946 vẫn có
sự kế thừa nhất định. Hiến pháp năm 2013 quy
định rõ Thủ tướng là người đứng đầu Chính
phủ, các Phó Thủ tướng và Bộ trưởng phải
chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng
Chính phủ15. Quy định các Phó Thủ tướng và
Bộ trưởng phải chịu trách nhiệm cá nhân trước
Thủ tướng Chính phủ vừa đề cao vai trò, vị thế
của người đứng đầu Chính phủ, vừa bảo đảm
tính thứ bậc cần thiết, tạo tiền đề trong chỉ đạo,
điều hành thông suốt của Thủ tướng và Chính
phủ trong nền hành chính quốc gia.
Ngoài ra, Hiến pháp năm 2013 cũng có quy
định một điều riêng (Điều 98) về thẩm quyền
của Thủ tướng Chính phủ, tương xứng với
người đứng đầu của một Chính phủ hành pháp.
Thủ tướng Chính phủ “Lãnh đạo công tác của
Chính phủ; lãnh đạo việc xây dựng chính sách
và tổ chức thi hành pháp luật”, “Lãnh đạo và
chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống
hành chính nhà nước từ trung ương đến địa
phương, bảo đảm tính thống nhất và thông suốt
của nền hành chính quốc gia”.
Hiến pháp năm 2013 cũng có điều riêng
(Điều 99) về thẩm quyền của Bộ trưởng, theo
đó, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
là thành viên Chính phủ và là người đứng đầu
bộ, cơ quan ngang bộ, lãnh đạo công tác của
bộ, cơ quan ngang bộ; chịu trách nhiệm quản
lý nhà nước về ngành, lĩnh vực được phân
công; tổ chức thi hành và theo dõi việc thi
hành pháp luật liên quan đến ngành, lĩnh vực
trong phạm vi toàn quốc.
2.4. Chính phủ chịu trách nhiệm trước
Quốc hội và Nhân dân
Chính phủ theo quy định của Hiến pháp năm
2013 là Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc
hội và Nhân dân. Đây vừa là quy định có tính kế
thừa quy định của Hiến pháp năm 1992 và các
bản Hiến pháp trước đó (trong đó có Hiến pháp
năm 1946), vừa có sự bổ sung, phát triển.
Quy định Chính phủ phải chịu trách nhiệm
trước Quốc hội và chịu sự giám sát của Quốc
hội (và cơ quan thường trực của Quốc hội là
Ủy ban thường vụ Quốc hội) là quy định khá
nhất quán trong các bản Hiến pháp của nước
ta từ Hiến pháp năm 1946. Điều 94 Hiến pháp
năm 2013 quy định “Chính phủ chịu trách
nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác
trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội”.
Điều 95 Hiến pháp năm 2013 cũng quy định rõ
“Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm
trước Quốc hội về hoạt động của Chính phủ và
những nhiệm vụ được giao; báo cáo công tác
của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trước
Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội”. Cũng
tại điều này, Hiến pháp năm 2013 quy định
“Bộ trưởng chịu trách nhiệm cá nhân
trước Quốc hội về ngành, lĩnh vực được
phân công phụ trách, cùng các thành viên khác
của Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể về hoạt
động của Chính phủ”. (Xem tiếp trang 16)
15 Hiến pháp năm 1992 không có quy định này.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- to_chuc_va_hoat_dong_cua_chinh_phu_theo_hien_phap_nam_1946_v.pdf