Tổ chức và hoạt động của quỹ đầu tư

Nhà quản lý quỹ đầu tư tốt có thể điều hành hoạt động ổn định và chống chọi lại với thị trường đi xuống tốt hơn các đối thủ của họ có thể làm. Hay nói cách khác, họ làm một công việc tuyệt với trong việc điều khiển rủi ro của danh mục đầu tư. Tối thiểu hoá thua lỗ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đến sự tăng trưởng dài hạn so với trở thành một quỹ nổi tiếng trên thị trường đang lên. Các nhà quản lý tốt không bao giờ để cho chi phí giao dịch vượt ra ngoài tầm kiểm soát của mình thông qua việc thực hiện rất nhiều giao dịch. Hơn nữa, họ có một chiến lược dài hạn. Công bằng mà nói, một quỹ hoạt động tốt, được quản lý tốt thu hút nhiều nhà đầu tư hơn và tài sản của nó theo đó cũng tăng lên hàng năm. Cùng với hoạt động và chi phí, các nhân tố khác cũng có thể giúp ta xác định được hiệu quả hoạt động của công ty quản lý.

doc21 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1289 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tổ chức và hoạt động của quỹ đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tổ chức và hoạt động của quỹ đầu tư I. Khái niệm về quỹ đầu tư 1. Quỹ đầu tư là gì? Các quỹ đầu tư tại Mỹ được định nghĩa là các tổ chức tài chính phi ngân hàng thu nhận tiền từ một số lượng lớn các nhà đầu tư và tiến hành đầu tư số vốn đó vào các tài sản tài chính có tính thanh khoản dưới dạng tiền tệ và các công cụ của thị trường tài chính. Các quỹ tín thác theo mô hình của Nhật Bản được coi là một sản phẩm được hình thành nhằm đầu tư số tiền tập hợp được từ một số lớn các nhà đầu tư vào chứng khoán (cổ phiếu và trái phiếu) chủ yếu dưới sự quản lý của những người không phải là người đầu tư và phân phối lợi nhuận thu được cho các nhà đầu tư theo tỷ lệ vốn mà họ đóng góp vào quỹ. Từ các định nghĩa trên, ta có thể rút ra định nghĩa chung cho quỹ đầu tư. Quỹ đầu tư được coi là một phương tiện đầu tư tập thể, là một tập hợp tiền của các nhà đầu tư và được uỷ thác cho các nhà quản lý đầu tư chuyên nghiệp tiến hành đầu tư để mang lại lợi nhuận cao nhất cho những người góp vốn. Quỹ đầu tư được phân thành nhiều loại khác nhau, dựa vào các tiêu chí khác nhau. 1.1. Các lợi ích cơ bản của người đầu tư khi thực hiện đầu tư qua quỹ a. Đa dạng hoá danh mục đầu tư, giảm thiểu rủi ro Đây là một ý tưởng mở rộng rổ chứng khoán của bạn. Một danh mục đầu tư đa dạng hoá tốt của ít nhất 12 loại cổ phiếu. Các quỹ có bất kỳ nơi nào từ một tá hoặc nhiều hơn cho đến vài trăm loại cổ phiếu trong các danh mục đầu tư lớn hơn. Một danh mục đầu tư đa dạng nói chung duy trì được sự tăng trưởng tốt ngay cả khi có một vài loại cổ phiếu trong danh mục bị giảm giá, còn các cổ phiếu khác thì lại tăng giá hơn mức mong đợi, tạo ra sự cân bằng cho danh mục. b. Quản lý đầu tư chuyên nghiệp Các quỹ đầu tư được quản lý bởi các chuyên gia có kỹ năng và giàu kinh nghiệm người mà được lựa chọn định kỳ căn cứ vào tổng lợi nhuận họ làm ra. Những chuyên gia không tạo ra lợi nhuận sẽ bị thay thế. Một số lớn các nhà quản lý và các đội quản lý có được bảng thành tích tốt. Một trong những nhân tố quan trọng trong việc chọn lựa quỹ đầu tư tốt là quỹ đó phải được quản lý thật tốt. c. Chi phí hoạt động thấp Do các quỹ đầu tư là các danh mục đầu tư được quản lý chuyên nghiệp cho nên chúng chỉ gánh một mức hoa hồng giao dịch thấp hơn so với các cá nhân, dù các cá nhân này đã ký hợp đồng với các nhà môi giới chiết khấu thấp nhất. Một quỹ tương hỗ có thể chỉ thanh toán một vài xu trên một cổ phiếu cho một giao dịch cổ phiếu lô lớn, trong khi đó một cá nhân có thể phải thanh toán 50 xu trên một cổ phiếu hoặc nhiều hơn thế cho một giao dịch tương tự. Chi phí giao dịch thấp có thể được hiểu như là hoạt động đầu tư tốt hơn. 1.2. Vai trò của quỹ đầu tư trên thị trường chứng khoán - Góp phần huy động vốn cho việc phát triển nền kinh tế nói chung và góp phần vào sự phát triển của thị trường sơ cấp Các quỹ đầu tư tham gia bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp, cung cấp vốn cho phát triển các ngành. Với chức năng này, các quỹ đầu tư giữ vai trò quan trọng trên thị trường sơ cấp. - Góp phần vào việc ổn định thị trường thứ cấp Với vai trò và các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán, các quỹ đầu tư góp phần bình ổn giá cả giao dịch trên thị trường thứ cấp, góp phần vào sự phát triển của thị trường này thông qua các hoạt động đầu tư chuyên nghiệp với các phương pháp phân tích đầu tư khoa học. - Tạo các phương thức huy động vốn đa dạng qua thị trường chứng khoán Khi nền kinh tế phát triển và các tài sản tài chính ngày càng tạo khả năng sinh lợi hơn, người đầu tư có khuynh hướng muốn có nhiều dạng công cụ tài chính để đầu tư. Để đáp ứng nhu cầu của người đầu tư, các quỹ đầu tư hình thành dưới nhiều dạng sản phẩm tài chính khác nhau như thời gian đáo hạn, khả năng sinh lợi, độ an toàn. - Xã hội hoá hoạt động đầu tư chứng khoán Quỹ đầu tư tạo một phương thức đầu tư được các nhà đầu tư nhỏ, ít có sự hiểu biêté về chứng khoán ưa thích. Nó góp phần tăng tiết kiệm của công chúng đầu tư bằng việc thu hút tiền đầu tư vào quỹ. II. Các loại hình quỹ đầu tư 1. Dựa vào nguồn vốn huy động 1.1. Quỹ đầu tư tập thể Quỹ đầu tư tập thể là quỹ huy động vốn bằng cách phát hành rộng rãi ra công chúng. Những người đầu tư vào quỹ có thể là các thể nhân hoặc các tổ chức kinh tế, nhưng đa phần là các nhà đầu tư riêng lẻ, ít am hiểu về thị trường chứng khoán. Quỹ đầu tư tập thể cung cấp cho các nhà đầu tư nhỏ phương tiện đầu tư đảm bảo đa dạng hoá đầu tư, giảm thiểu rủi ro, chi phí đầu tư thấp với hiệu quả đầu tư cao do tính chuyên nghiệp của đầu tư mang lại. 1.2. Quỹ đầu tư cá nhân Khác với quỹ đầu tư tập thể, quỹ đầu tư cá nhân huy động vốn bằng phương thức phát hành riêng lẻ cho một số nhóm nhỏ các nhà đầu tư, có thể được lựa chọn trước, là các thể nhân hoặc các dịnh chế tài chính hoặc các tập đoàn kinh tế lớn. Các nhà đầu tư vào các quỹ tư nhân thường đầu tư lượng vốn tương đối lớn và đổi lại, họ đòi hỏi các yêu cầu về quản lý quỹ rất cao. Họ sẵn sàng chấp thuận khả năng thanh khoản thấp hơn so với các nhà đầu tư nhỏ – những người đầu tư vào các quỹ đầu tư tập thể, và vì thế, họ khống chế việc đầu tư trong các quỹ tư nhân. một đặc điểm khác của các quỹ tư nhân là các nhà quản lý quỹ thường tham gia kiểm soát hoạt động của các công ty nhận đầu tư. Việc kiểm soát này có thể dưới hình thức là thành viên hội đồng quản trị, cung cấp tư vấn hoặc có ảnh hưởng đáng kể tới các thành viên của hội đồng quản trị của công ty nhận đầu tư. 2. Dựa vào cấu trúc vận động vốn 2.1. Quỹ đầu tư dạng đóng Quỹ chỉ phát hành cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư ra công chúng một lần với số lượng nhất định và quỹ không thực hiện việc mua lại cổ phiếu/chứng chỉ quỹ đầu tư khi nhà đầu tư có nhu cầu bán lại. Sau khi phát hành lần đầu ra công chúng, cổ phiếu/chứng chỉ quỹ đầu tư của quỹ được giao dịch như bất kỳ chứng khoán niêm yết nào trên thị trường chứng khoán tập trung (Sở giao dịch chứng khoán). Các nhà đầu tư có thể mua hoặc bán để thu hồi vốn cổ phiếu hoặc chứng chỉ quỹ đầu tư của mình trên thị trường thứ cấp thông qua các nhà môi giới. 2.2. Quỹ đầu tư dạng mở Quỹ liên tục phát hành cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư ra công chúng và thực hiện việc mua lại cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư khi người đầu tư có nhu cầu thu hồi vốn. Đặc điểm quan trọng đối với quỹ đầu tư dạng mở là giá của cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư của quỹ mở luôn gắn trực tiếp với giá trị tài sản thuần của quỹ. Cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư của quỹ dạng mở không giao dịch trên thị trường thứ cấp mà giao dịch thẳng với quỹ hoặc các đại lý được uỷ quyền của quỹ. 3. Dựa vào cơ cấu tổ chức và hoạt động của quỹ 3.1. Quỹ đầu tư dạng Công ty Trong mô hình này, quỹ đầu tư là một tác nhân đầy đủ, tức là một công ty được hình thành theo quy định của pháp luật từng nước và cơ quan điều hành cao nhất của quỹ là Hội đồng quản trị quỹ. Các nhà đầu tư góp vốn vào quỹ là các cổ đông và họ có quyền bầu ra các thành viên hội đồng quản trị. Các tổ chức tham gia vào cơ cấu hoạt động của quỹ đầu tư dạng Công ty là công ty quản lý quỹ, Ngân hàng bảo quản. Ngoài ra, tuỳ từng nước, còn có sự tham gia của các đại lý chuyển nhượng và các nhà bảo lãnh phát hành chính. Hội đồng quản trị quỹ đầu tư do các cổ đông bầu ra, có nhiệm vụ chính là quản lý toàn bộ hoạt động của quỹ, lựa chọn công ty quản lý quỹ và giám sát hoạt động đầu tư của công ty quản lý quỹ, hàng năm xem xét lại hoặc từ chối các hợp đồng với các công ty quản lý quỹ nếu công ty quản lý quỹ hoạt động không có hiệu quả. Trong mô hình này, Công ty quản lý quỹ hoạt động như một nhà tư vấn đầu tư do hội đồng quản lý quỹ thuê quản lý đầu tư và họ được hưởng phí từ việc quản lý đầu tư đó. Thông thường, các Công ty quản lý quỹ có đội ngũ các nhà điều hành quỹ rất chuyên nghiệp. Họ có trình độ nghiên cứu và phân tích đầu tư rất cao. Nhà tư vấn đầu tư có trách nhiệm tiến hành phân tích đầu tư, quản lý danh mục đầu tư và thực hiện các công việc quản trị kinh doanh khác. Có một vài quỹ, việc quản lý đầu tư và quản trị kinh doanh nói chung tách rời nhau do các tổ chức khác nhau đã nhận. Ngân hàng bảo quản là nơi giữ và bảo quản tài sản của quỹ, đồng thời tiến hành giao hoặc nhận các chứng khoán cho quỹ trong các giao dịch. Ngoài các tổ chức tham gia chính đã nêu, tuỳ từng nước còn có thể có các đại lý chuyển nhượng hoặc nhà bảo lãnh phát hành chính tham gia vào hoạt động của quỹ đầu tư. Đại lý chuyển nhượng thường được uỷ nhiệm để tiến hành bán hoặc mua lại cổ phần của quỹ (nếu quỹ đó là quỹ dạng mở). Nhà bảo lãnh phát hành chính giúp quỹ chào bán và phân phối cổ phần của quỹ cho các nhà đầu tư. 3.2. Quỹ đầu tư dạng hợp đồng Quỹ đầu tư dạng hợp đồng còn được gọi là mô hình quỹ tín thác đầu tư. Một đặc điểm khác biệt cơ bản với mô hình quỹ đầu tư dạng công ty là trong mô hình này quỹ đầu tư không phải là một pháp nhân. Quỹ hoàn toàn chỉ là một lượng tiền nhất định do các nhà đầu tư đóng góp hình thành nên quỹ. Mô hình này thể hiện rõ vai trò của ba bên tham gia vào hoạt động của quỹ: Công ty quản lý quỹ, ngân hàng giám sát và bảo quản, và các nhà đầu tư. Công ty quản lý quỹ đứng ra thành lập quỹ, tiến hành việc huy động vốn, thực hiện việc đầu tư theo những mục tiêu đã đề ra trong điều lệ quỹ. Ngân hàng giám sát và bảo quản mô hình này có vai trò quan trọng hơn nhiều so với ngân hàng bảo quản trong mô hình công ty. Ngoài vai trò bảo quản vốn và các tài sản của quỹ, ngân hàng giám sát, bảo quản còn làm nhiệm vụ giám sát hoạt động của công ty quản lý quỹ để đảm bảo việc tuân thủ các mục tiêu và chính sách đầu tư đã nêu ra. Quan hệ giữa công ty quản lý quỹ và ngân hàng giám sát, bảo quản được thể hiện bằng hợp đồng quản lý giám sát trong đó quy định quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên trong việc thực hiện và giám sát việc đầu tư để bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư. Người đầu tư là những người góp vốn vào quỹ và uỷ thác việc đầu tư cho công ty quản lý quỹ để bảo đảm khả năng sinh lợi cao nhất từ khoản vốn đóng góp của họ. Việc góp vốn của các nhà đầu tư được thể hiện bằng việc họ mua các chứng chỉ đầu tư do công ty quản lý quỹ thay mặt quỹ phát hành. Các nhà đầu tư trong mô hình này không phải là các cổ đông như mô hình quỹ đầu tư dạng công ty mà chỉ đơn thuần là những người thụ hưởng kết quả kinh doanh từ hoạt động đầu tư của quỹ. III. Hoạt động của quỹ đầu tư 1. Huy động vốn 1.1. Phương thức hình thành vốn a. Phương thức phát hành - Đối với các quỹ đầu tư dạng công ty, quỹ phát hành cổ phần để huy động vốn hình thành nên quỹ. Tương tự như các công ty cổ phần, cổ đông của quỹ cũng nhận được các cổ phiếu xác nhận số cổ phần của mình sở hữu tại công ty. - Đối với các quỹ đầu tư dạng hợp đồng, thông thường lượng vốn dự kiến hình thành nên quỹ được chia thành các đơn vị (tương tự như các cổ phần của quỹ dạng công ty). Quỹ sẽ phát hành chứng chỉ đầu tư, xác nhận số đơn vị tương đương với số vốn người đầu tư góp vào quỹ. Cũng như cổ phiếu phổ thông khác, chứng chỉ đầu tư có thể phát hành dưới hình thức ghi danh hoặc vô danh và có thể được giao dịch và chuyển nhượng như cổ phiếu, tuy tiền và nghĩa vụ của người hưởng lợi (người nắm giữ chứng chỉ đầu tư) có một số khác biệt so với các cổ động trong mô hình quỹ dạng công ty. b. Định giá ban đầu Việc định giá cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư lần đầu để lập nên quỹ do các tổ chức đứng ra thành lập quỹ xác định. Đối với các quỹ theo mô hình công ty, việc định giá cổ phiếu quỹ là do các tổ chức bảo đảm hoặc các tổ chức bảo lãnh phát hành xác định giá. Đối với các quỹ đầu tư dạng hợp đồng, công ty quản lý quỹ sẽ xác định giá chào bán ban đầu các chứng chỉ đầu tư quỹ. Chi phí chào bán lần đầu (bao gồm chi phí cho các đại lý, chi phí in ấn tài liệu...) được khấu trừ từ tổng giá trị của quỹ huy động được. c. Phương thức chào bán Về cơ bản, có hai phương thức chào bán: chào bán qua các tổ chức bảo lãnh và do quỹ trực tiếp chào bán. - Chào bán qua các tổ chức bảo lãnh phát hành: Phương thức phổ biến nhất để bán cổ phần của các quỹ đầu tư theo mô hình công ty là qua các tổ chức bảo lãnh phát hành. Theo phương thức này, người bảo lãnh của quỹ đóng vai trò như là người buôn bán và người phân phối đối với các hãng kinh doanh và môi giới chứng khoán. Các công ty này đến lượt mình lại bán các cổ phiếu cho công chúng qua các văn phòng chi nhánh của họ. Ngoài ra, các quỹ đầu tư có thể thông qua các đại lý chào bán là ngân hàng thương mại, các công ty chứng khoán hoặc các công ty tài chính để thực hiện việc chào bán. - Chào bán trực tiếp từ quỹ hoặc công ty quản lý quỹ: Các quỹ được trực tiếp bán cổ phiếu của nó cho nhà đầu tư không thông qua một trung gian nào. Các quỹ đầu tư dạng hợp đồng do công ty quản lý quỹ đứng ra thành lập thường hay chào bán chứng chỉ đầu tư bằng hình thức này thông qua hệ thống mạng lưới của công ty quản lý quỹ hoặc mạng lưới của ngân hàng giám sát. Ngoài ra, họ giao dịch với các cổ động hiện thời và tiềm năng thông qua thư, điện thoại, mạng lưới ngân hàng, hoặc các văn phòng địa phương của họ. Các quỹ này hấp dẫn các nhà đầu tư trước hết thông qua quảng cáo, thư trực tiếp cũng như bằng những bài diễn văn, các phương tiện quảng cáo hữu hiệu. 1.2. Nội dung cơ bản của bản cáo bạch - Giải thích chi tiết về các mục tiêu đầu tư của quỹ - Mô tả chính sách đầu tư, ví dụ như các loại chứng khoán quỹ có thể được mua, việc phân bổ tiền và tài sản của quỹ vào các khoản đầu tư... - Giới hạn đầu tư hay những hoạt động đầu tư mà quỹ không được tiến hành. Thông thường phần này sẽ xác định mức độ đa dạng hoá danh mục đầu tư của quỹ. - Các chi phí liên quan tới hoạt động giao dịch của nhà đầu tư vào quỹ (người thụ hưởng trong mô hình quỹ dạng hợp đồng hoặc cổ đông của quỹ trong mô hình công ty) - Lịch sử các hoạt động kinh doanh của quỹ dựa trên các số liệu đưa ra như thu nhập trên cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư, việc thay đổi vốn và các tỷ lệ tài chính minh chứng - Phân tích chi tiết các rủi ro đối với người đầu tư khi đầu tư vào quỹ, bao gồm các rủi ro về môi trường kinh doanh nói chung và rủi ro của danh mục đầu tư nói riêng. - Các thông tin liên quan về người quản lý quỹ: Công ty quản lý quỹ hoặc nhà tư vấn đầu tư và các chi phí liên quan phải trả cho công ty quản lý quỹ/ nhà tư vấn. - Các thông tin liên quan tới tổ chức bảo quản tài sản của quỹ, đại lý chuyển nhượng hoặc đại lý phân phối thu nhập (nếu có). - Cách thức phân phối cổ tức và lãi vốn và thông báo về các khoản thuế liên quan tới người đầu tư (nếu có). - Các dịch vụ cung ứng cho người đầu tư như việc giao dịch bằng điện thoại, việc tái đầu tư các khoản lợi nhuận chi trả cho người đầu tư. - Các quỹ do cùng một công ty quản lý quỹ thành lập và quản lý (đối với mô hình quỹ đầu tư dạng hợp đồng) 1.3. Giao dịch chứng chỉ đầu tư/cổ phiếu khi quỹ đã hình thành - định giá và chi phí phát hành. - Khái niệm giá trị tài sản ròng của quỹ Giá trị tài sản ròng của quỹ (NAV) bằng tổng giá trị tài sản và các khoản đầu tư của quỹ trừ đi các nghĩa vụ phải trả của quỹ. Đối với các quỹ đầu tư, giá trị tài sản ròng của quỹ là một trong những chỉ tiêu quan trọng đánh giá hiệu quả hoạt động của các quỹ nói chung và là cơ sở để định giá chào bán cũng như để xác định giá mua lại đối với các quỹ đầu tư dạng mở. - Giao dịch chứng chỉ đầu tư/ cổ phiếu của quỹ sau khi phát hành. Sự khác biệt về cấu trúc vận động của vốn đã đề cập ở trên dẫn đến hai cách thức giao dịch các chứng chỉ đầu tư/ cổ phần của quỹ. Đối với các quỹ đầu tư dạng đóng ở bất kì mô hình nào, sau khi phát hành, chứng chỉ đầu tư/ cổ phần của quỹ được niêm yết trên thị trường tập trung và giao dịch như bất kì loại cổ phiếu niêm yết nào. Chính vì vậy, giá của chứng chỉ đầu tư/ cổ phần do cung cầu trên thị trường điều tiết và có khuynh hướng xa rời giá trị tài sản ròng. Giá của chứng chỉ đầu tư của quỹ đóng có thể giao dịch trên mức giá trị tài sản ròng và có thể giao dịch tại mức giá chiết khấu, tức là tại mức thấp hơn giá trị tài sản ròng. Đối với các quỹ đầu tư dạng mở, sau khi phát hành, chứng chỉ đầu tư/cổ phần của quỹ được phát hành thêm và mua lại tại chính công ty quản lý quỹ hoặc thông qua các đại lý của công ty. Giá chứng chỉ đầu tư/cổ phiếu của quỹ mở luôn gắn với giá trị tài sản ròng của quỹ. - Định giá NAV (chứng chỉ/cổ phần) = NAV (quỹ) Tổng số chứng chỉ/cổ phần đang lưu hành Giá chào bán (P0) = NAV/chứng chỉ + chi phí bán Tỷ lệ phí chào bán (%) = NAV – P0 P0 Nếu tỷ lệ phí chào bán được xác định trước trong các bản cáo bạch của quỹ, có thể tính được giá chào bán theo công thức sau: P0 = NAV 100% - Tỷ lệ phí chào bán Giá mua vào = NAV/chứng chỉ – chi phí mua lại 1.4. Cơ chế vay và cho vay vốn của quỹ Rất ít các quỹ có các khoản vay lớn vì Luật pháp các nước thường không cho phép. Thực tế cho thấy một số quỹ, ví dụ như quỹ cổ phiếu tăng trưởng linh hoạt, đôi lúc lại sử dụng các khoản tiền vay mượn để cố gắng thổi phồng các khoản lãi vốn khi thị trường đi xuống. Đồng thời với chi phí vay, được phản ánh bằng lãi suất ngắn hạn duy trì hợp lý làm cho danh mục đầu tư hoạt động vẫn tốt. Tuy nhiên, đây là một con dao hai lưỡi mà có thể thổi phồng các khoản lỗ. Các quỹ có hệ số đòn bẩy cao thường được xếp vào hạng các quỹ hoạt động kém nhất trong các thị trường đang đi xuống. Việc bán lại chứng chỉ đầu tư hay cổ phần của các quỹ mở có thể làm trầm trọng thêm các vấn đề thông thường khi giá rơi xuống. Một quỹ hay sử dụng đòn bẩy thường mang theo các rủi ro lớn hơn. Khi biện pháp đòn bẩy được sử dụng, NAV thường có chiều hướng lên xuống rất nhanh. Vì vậy, luật pháp các nước thường chỉ cho phép quỹ vay tiền từ các ngân hàng. Do vậy, các danh mục đầu tư đòn bẩy chỉ có thể đáp ứng nhu cầu về vốn ngắn hạn. Các quỹ này cũng bị giới hạn về số lượng vay nợ tức là phải khống chế hệ số đòn bẩy. Nếu giá trị của danh mục đầu tư tăng thì mọi điều đều đúng và tỷ lệ tài sản trên khoản vay tăng lên. Nhưng nếu giá trị tài sản giảm, quỹ đó cũng phải ngay lập tức giảm các khoản vay ngân hàng xuống. Điều này có thể được nhà quản lý phải bán cổ phiếu ép giá. Tuy nhiên, quỹ này cũng phải thanh toán lãi suất trên khoản vay bằng tiền rút từ khoản lợi nhuận của quỹ. Chi phí lãi suất được tách ra riêng biệt từ chi phí hoạt động trên dòng bổ sung trong bảng phân tích từng loại cổ phiếu. Đòn bẩy đặc biệt khó khăn khi tỷ lệ lãi suất tăng lên hoặc khi giá chứng khoán giảm xuống, mà thường thì hai vấn đề này xảy ra cùng nhau. Tuy nhiên, sẽ là điều bất bình thường đối với bất kỳ quỹ nào để vay đến tận mức giới hạn. Nhiều quỹ thường chỉ vay các khoản vay nhỏ để giúp nhà quản lý thực hiện việc mua lại mà không cần phải bán các cổ phiếu đang sở hữu. 2. Mục tiêu đầu tư - việc xác lập danh mục đầu tư của quỹ 2.1. Lựa chọn mục tiêu đầu tư của quỹ Bất kỳ quỹ nào cũng nhằm đạt được mục tiêu ban đầu như sau: - Thu nhập: Nhanh chóng có nguồn chi trả cổ tức. - Lãi vốn: làm tăng giá trị của các nguồn vốn ban đầu thông qua việc đánh giá các cổ phiếu trong danh mục đầu tư của quỹ. - Thu nhập và lãi vốn: Sự kết hợp của cả hai yếu tố trên . Nhiều quỹ cũng đặt ra mục tiêu duy trì và bảo toàn vốn như là mục tiêu cũ. Về cơ bản, mỗi mục tiêu đều có lối thoát của nó và các nhà đầu tư cũng vậy. Điều này thực sự rất khó để có thể tìm ra được một quỹ cổ phiếu mà cùng một lúc đạt được cả hai mục tiêu thu nhập cao và lãi vốn thu nhập được. Nếu bạn muốn tiềm năng tăng trưởng tối đa thì bạn sẽ phải từ bỏ mục đích thu nhập. Ví dụ khác, một danh mụcđầu tư ổn định nhất sẽ chỉ đầu tư vào các trái phiếu chính phủ, nhưng nó không có tiềm năng tăng trưởng và kém về mặt cổ tức so với các quỹ đầu tư các khoản thu nhập rủi ro hơn thường tập trung vào các chứng khoán như trái phiếu chất lượng thấp, kém. Để đạt được các mục tiêu ban đầu, mỗi quỹ đều hình thành các chính sách đầu tư riêng của mình, trên cơ sở đó có thể thiết lập danh mục đầu tư, đạt mục tiêu đề ra. Người đầu tư sẽ lựa chọn và quyết định đầu tư vào các quỹ theo khả năng và mức độ chịu rủi ro của mình dựa vào các thông tin về chính sách và mục tiêu đầu tư của quỹ. Tên gọi của các quỹ thể hiện mục tiêu và chính sách đầu tư của quỹ. Các loại quỹ thường gặp là: Quỹ tăng trưởng Các quỹ trong lĩnh vực nhìn chung kém ổn định hơn các quỹ nói trên. Như tên gọi của nó đã hàm ý, các danh mục đầu tư tăng trưởng nắm giữ cổ phiếu của các công ty mà khả năng sinh lợi của nó được mong đợi là sẽ tăng cao hơn tỷ lệ trung bình. Các nhà quản lý danh mục đầu tư thường quan tâm nhiều đến việc tăng trưởng vốn hơn là thu nhập cổ tức. Quỹ thu nhập và tăng trưởng Tăng trưởng vốn, thu nhập cổ tức và thậm chí tăng trưởng cổ tức tương lai là các đặc điểm hấp dẫn các nhà quản lý quỹ thu nhập và tăng trưởng. Tuy nhiên, họ thường tập trung chủ yếu vào tiềm năng tăng trưởng vốn. Việc đầu tư này thường tạo ra sự hứng thú cho những người muốn một cái gì đó hơn thu nhập và có lẽ ít giảm giá hơn những cái được đưa ra bởi quỹ tăng trưởng. Danh mục đầu tư này bao gồm cả các công ty tăng trưởng và các cổ phiếu thu nhập với bản báo cáo thanh toán cổ tức tốt. Quỹ thu nhập – cổ phiếu Chiến lược thu nhập cổ phiếu là một loại đầu tư giá trị đặc biệt. Các nhà quản lý này ban đầu thường tập trung vào tỷ lệ lợi nhuận hàng năm cao hơn mức chuẩn của thị trường chẳng hạn như tỷ lệ lợi nhuận của S & P 500. Khi giá một cổ phiếu giảm thì lợi tức hàng năm của nó sẽ tăng. Các quỹ thu nhập, cổ phiếu bao gồm các công ty nguồn lực tự nhiên, tài chính, năng lượng và công nghệ bậc cao. Một số quỹ còn nắm giữ một số lượng lớn chứng khoán chuyển đổi, trái phiếu và các cổ phiếu ưu đãi. Một số công ty trong só các công ty này có thể nhất thời nằm ngoài sự quan tâm của các nhà quản lý quỹ. Các công ty này có thể bị đánh giá thấp khi không đạt được mức lợi tức cao hơn mức lợi tức trung bình. Quỹ cân bằng Danh mục đầu tư cân bằng cố gắng để đạt được 3 mục tiêu: Thu nhập, tăng trưởng vốn đều đặn và bảo toàn vốn. Chúng thực hiện điều này bằng cách đầu tư vào các trái phiếu, các chứng khoán chuyển đổi và có lẽ thêm một vài loại cổ phiếu ưu tiên cũng như cổ phiếu thường. Nhìn chung các danh mục đầu tư từ 40% - 60% giá trị quỹ vào trái phiếu. Chúng thường tập trung chú ý vào các chứng khoán được phát hành bởi các công ty chất lượng cao. Quỹ có khả năng chuyển đổi Các chứng khoán có khả năng chuyển đổi là trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi mà có thể được đổi thành một số lượng cổ phiếu thường đã được tính trước của một công ty, theo sự lựa chọn của người nắm giữ. Chứng khoán có khả năng chuyển đổi có nguồn gốc tách ngay từ khi phát hành. Có lúc chúng được coi như là các cổ phiếu thường, nhưng lúc khác chúng lại được coi là trái phiếu. Các chứng khoán này thường đưa ra sự bảo đảm mặt dưới đối với các chứng khoán có thu nhập ổn định và tiềm năng mặt trên của các cổ phiếu. Do tính chất hỗn hợp của trái phiếu chuyển đổi, một quỹ có khả năng chuyển đổi là một cái gì đó tương tự như danh mục đầu tư cân bằng. Nó thường tập trung nhiều hơn vào thu nhập và bảo toàn số vốn so với các khoản đầu tư cổ phiếu điển hình. Quỹ thu nhập – quyền lựa chọn Các quỹ thu nhập – quyền lựa chọn ổn định một cách tương đối thường đầu tư vào các công ty lớn, đang thanh toán cổ tức trong đó các quyền lựa chọn luôn sẵn có. Sau đó, chúng bán các quyền lựa chọn đổi lấy các vị thế cổ phiếu của chúng, thu gom các khoản thu nhập, tiền thưởng trong quá trình này. Những khoản tiền thưởng này, gắn liền với cổ tức của cổ phiếu là kết quả của nguồn thu nhập tốt. Hợp đồng quyền lựa chọn thường có chiều hướng làm giảm bớt sự thua lỗ trong một thị trường đang đi xuống, nhưng cũng hạn chế sự tăng trưởng quá nhanh trên một thị trường đang lên. Trong suốt thời kỳ thị trường suy giảm, cổ phiếu có thể được các quỹ bán ra với mức giá thấp hơn nhiều so với giá trị hiện tại của nó. Quỹ ngành Các danh mục đầu tư loại này thường tập trung vào các ngành cụ thể hoặc lĩnh vực thị trường chứng khoán. Sự tập trung chủ yếu vào các quỹ ngành - đặc biệt là những khoản đầu tư vào các ngành công nghiệp đơn lẻ hoặc cổ phiếu của các ngành kim loại quý hiếm – có chiều hướng ngày càng linh hoạt hơn các danh mục đầu tư đa dạng tổng quát. Lợi nhuận của các quỹ này thường không đồng nhất với mức lợi nhuận trung bình của thị trường. Tuy nhiên, các danh mục đầu tư này thường tạo ra nhiều sự hấp dẫn hơn là việc chủ đầu tư vào cổ phiếu của một ngành mà bạn đang quan tâm. Các quỹ này luôn có sự thay đổi bên trong các nhóm lựa chọn đầu tư của chúng và do vậy mà chúng không mang theo rủi ro cụ thể của bất kỳ công ty nào. Quỹ trái phiếu Đối với nhiều người, lĩnh vực về quỹ là cách thức để đầu tư. Những nhà đầu tư nhỏ, cụ thể sẽ hứng thú với một vài ưu điểm với danh mục đầu tư trọn gói so với các tài sản cá nhân. Những thuận lợi bao gồm: - Dễ tiếp cận: thường khó khăn và tốn kém đối với những nhà đầu tư nhỏ để giao dich trực tiếp tại thị trường trái phiếu, loài thị trường luôn đòi hỏi các nhà đầu tư chuyên nghiệp. Chi phí giao dịch cao hơn và tính thanh khoản thấp hơn đối với những người mua và bán ở khối lượng tương đối vừa phải. Để thành công trong việc đầu tư trái phiếu, bạn nên khảo sát kỹ càng những nhà kinh doanh khác nhau để có được mức giá hợp lý. - Tính thanh khoản: bạn dễ dàng rút tiền ra khỏi quỹ mà không bị thiệt về giá cả so với việc bạn bán các trái phiếu đã giao dịch trước ngày đáo hạn. Trường hợp này đặc biệt áp dụng đối với khoản nợ của công ty có lãi suất cao, tính thanh khoản thấp và nhiều đợt phát hành chứng khoán đô thị. Sự chênh lệch kinh doanh có thể càng lớn khi đến thời điểm để bán. - Thu nhập hàng tháng: các quỹ trái phiếu nhìn chung công bố cổ tức hàng tháng. Trái lại, các trái phiếu cá nhân thường thanh toán lãi theo nửa năm. Những người nghỉ hưu có thể đặc biệt đánh giá cao sự phân phối theo tháng đối với các khoản đầu tư của họ khi có thu nhập bổ sung. - Dễ tái đầu tư: các quỹ trái phiếu đưa ra việc tái đầu tư thuận tiện đối với các cổ tức và các khoản phân phối về vốn, thậm chí đối với một lượng tiền ít ỏi. Điều này cho phép sự phối hợp hiệu quả hơn để có thể tạo ra thu nhập lâu dài. - Sự quản lý chuyên nghiệp: Lãi suất dao động và các nhân tố khác tạo nên chiến lược mua và nắm giữ trái phiếu mạo hiểm. Thu nhập cao thường do sự quản lý danh mục đầu tư năng động. Những nhà quản lý giỏi có thể ứng phó với các cơ hội ở một thị trường thu nhập cố định và bắt đầu triển khai thực hiện. Họ cũng có thể bán tháo các chứng khoán phát hành có chất lượng thấp khi mà mức rủi ro của chúng tăng tới mức không thể chấp nhận. Vì lẽ đó, các quỹ trái phiếu thường có ý nghĩa hơn các tài sản cá nhân. - Sự đa dạng hoá: Nếu một quỹ tương hỗ nắm giữ nhiều hơn hàng trăm trái phiếu, nó sẽ giúp các cổ đông phòng ngừa rủi ro tín dụng nhiều hơn so với việc nắm giữ trạng thái của một hay một vài trái phiếu đó. Những khía cạnh này có thể đặc biệt quan trọng đối với các nhà đầu tư trong một phạm vi nhất định. 2.2. Phân bổ tài sản và hình thành danh mục đầu tư của quỹ Phân bổ tài sản có nghĩa là phân chia tiền của quỹ vào “các rổ” đầu tư, mỗi rổ nhằm đạt được mục tiêu cụ thể riêng biệt hoặc toàn bộ các yêu cầu sinh lợi từ danh mục đầu tư. Khi chia số tiền của quỹ vào từng loại tài sản khác nhau, người quản lý đầu tư có thể tính toán cân đối giữa giá trị của danh mục đầu tư cũng như mức độ sinh lợi của từng loại chứng khoán cấu thành. Vì vậy, việc phân bổ tài sản của quỹ, hình thành nên danh mục đầu tư của quỹ là một khâu quan trọng sau khi quỹ đã hình thành và chuẩn bị tiến hành hoạt động đầu tư. Việc phân bổ tài sản sẽ góp phần quan trọng vào tối ưu hoá danh mục đầu tư và tối ưu hoá mức sinh lợi từ các khoản đầu tư. Công ty quản lý quỹ là người nắm rất rõ kỹ thuật phân bổ tài sản. Việc nắm bắt được các rủi ro và quyết định phân bổ tài sản có thể làm tăng hoặc giảm rủi ro từng khoản đầu tư cũng như toàn bộ danh mục đầu tư của quỹ. Các khoản đầu tư đều có mức độ rủi ro nhất định. Ví dụ như giá cổ phiếu thường biến động trong thời gian ngắn hạn, nhưng nếu tính về thu nhập dài hạn thì lại tương đối phù hợp và tương đối cao. Tín phiếu kho bạc có mức sinh lợi tương đối ổn định và phù hợp nhưng lại có rủi ro liên quan đến sức mua của đồng tiền sau một thời gian do ảnh hưởng của lạm phát. Khi đã tiến hành phân bổ tài sản, nhà quản lý đầu tư của quỹ có thể đánh giá các khoản đầu tư và khả năng sinh lợi của chúng. 3. Chi phí liên quan tới hoạt động Có ba loại chi phí cơ bản liên quan tới hoạt động cảu các quỹ. ở đây chỉ đề cập tới các khoản chi phí cho từng hoạt động của quỹ sau khi quỹ đã hình thành và tiến hành hoạt động đầu tư. Các chi phí liên quan tới việc phát hành và mua lại chứng chỉ đầu tư/cổ phần của quỹ đã đề cập ở trên là: 3.1. Phí liên quan tới hoạt động đầu tư - Phí môi giới được các công ty quản lý quỹ trả cho người môi giới. - Phí tư vấn đầu tư - Phí lưu giữ và bảo quản tài sản của quỹ - Lãi suất trong trường hợp quỹ phải vay ngắn hạn thuế (nếu có) - Phí trả các tổ chức định giá các khoản đàu tư của quỹ 3.2. Chi phí quản lý và điều hành bao gồm phí và thưởng cho người quản lý cũng như các chi phí khác nhau trong điều hành quỹ, phí giám sát Chi phí điều hành và quản lý hoạt động thường xuyên xuất hiện như là một phần của tỷ lệ chi phí. Phí quản lý, một loại phí thông dụng đối với tất cả các danh mục đầu tư, được các công ty tư vấn thanh toán cho các nhà phân tích chứng khoán và các chức năng quản lý danh mục đầu tư mà họ thực hiện. Khoản phí này nhìn chung dao động từ khoảng 0,4% đến 1% một năm. Với 1%, chi phí quản lý danh mục đầu tư khoảng 10 triệu đôla cho một danh mục đầu tư có giá trị 1 tỷ đô la. Trong nhiều trường hợp, các nhà tư vấn phải công bố rằng quỹ đang có kế hoạch giảm phí vì tài sản tăng lên. Ví dụ, quỹ tăng trưởng ABC có một khoản phí quản lý hoạt động là 0,7% đối với 100 triệu đôla tài sản đầu tiên, 0,6% cho 400 triệu đôla tài sản tiếp theo và 0,5% cho số tài sản vượt quá 500 triệu đôla. 3.3. Các chi phí quản lý hành chính khác - Phí lập báo cáo - Phí kiểm toán - Phí cho các dịch vụ pháp lý - Phí thay đổi các quy định của hợp đồng tín thác theo yêu cầu của cổ đông (nếu có) - Phí tổ chức đại hội cổ đông hoặc đại hội các nhà đầu tư của quỹ Nhiều công ty giới hạn tỷ lệ chi phí của họ, thông thường vì mục đích cạnh tranh. Ví dụ, nhà tư vấn có thể hoàn trả lại quỹ các khoản phí vượt trội để duy trì tỷ lệ phí tối đa là 1%. Điều này có thể được hoàn tất bằng cách điều chỉnh phí tư vấn. Thông tin chi tiết sẽ được báo cáo trong bản cáo bạch và trong bản báo cáo hoạt động nửa năm và một năm. Việc giới hạn tỷ lệ chi phí thường xảy ra ở các quỹ nhỏ, mới và có thể là mang tính chất tạm thời. 4. Tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của một quỹ đầu tư 4.1. Tổng thu nhập Có ba bộ phận cấu thành nên tổng lợi nhuận của một quỹ cổ phiếu là: - Cổ tức từ khoản thu nhập đầu tư ròng: Khoản thu nhập đầu tư bao gồm cổ tức và lãi suất thu được từ danh mục đầu tư của quỹ khấu trừ đi chi phí - Phân phối các khoản thu nhập ròng được thừa nhận. Các khoản thu nhập ròng được thừa nhận được hiểu là các khoản đầu tư đã quyết toán xong có lãi (hoặc bị lỗ) - Sự tăng (hoặc giảm) ròng trong giá trị tài sản ròng. Sự thay đổi của NAV phản ánh sự tăng hoặc giảm trong giá trị các khoản đầu tư vào cổ phiếu mà quỹ đang nắm giữ. Ngoài ra, nó cũng bao gồm các khoản thu nhập ròng được thừa nhận hoặc thu nhập ròng từ các khoản đầu tư chưa chia cho các nhà đầu tư. Tính toán tổng thu nhập Tổng thu nhập của quỹ là một trong các chỉ tiêu quan trọng đánh giá hoạt động của một quỹ tốt hay không. TR = Số tiền phân chia + sự thay đổi trong NAV NAV tại thời điểm đầu kỳ Ví dụ: Mỗi một cổ phiếu của quỹ XYZ không tính phí, được mua vào ngày 01 tháng 01 năm 1992 tại mức NAV bằng 8,2đô la, có một khoản phân phối lãi vốn bằng 0,7 đô la và tổng phân phối thu nhập là 0,1 đô la. NAV vào thời điểm cuối năm là 8,5 đôla. Tổng lợi nhuận năm 1992 là 13,41% được tính như sau: TR = 0.70 + 0.10 + 8.50 – 8.20 = 13.41% 8.20 Bản thân tổng lợi nhuận là 13.41% không nói lên điều gì, con số này cần phải được phân tích dựa trên cơ sở so sánh với các dữ liệu khác. Vì vậy, vấn đề này sẽ được phản ánh cụ thể tại phần sau của chương này. 4.2. Tỷ lệ chi phí Tỷ lệ này được xác định bằng tổng chi phí chia cho giá trị tài sản ròng trung bình. Phí môi giới từ các giao dịch của quỹ không tính trong tỷ lệ chi phí này. Bởi vì tỷ lệ chi phí có thể thay đổi nên tốt hơn hết là tính giá trị bình quân cho khoản thời gian từ 3 đến 5 năm về trước. Tuỳ theo danh mục đầu tư, tỷ lệ chi phí có thể khác nhau từ 0,5% đến trên 5%. Những tỷ lệ chi phí thấp nhất thường thấy ở các quỹ chỉ số là các quỹ thực hiện chiến lược mua và nắm giữ thụ động các loại chứng khoán giống như những chứng khoán có trong chỉ số bình quân phổ biến nào đó, ví dụ chỉ sô sS&P 500. Các quỹ nhỏ và tăng trưởng nhanh có sử dụng hiệu ứng đòn bẩy và chịu chi phí lãi suất cao là các quỹ phải hoạt động với tỷ lệ chi phí cao nhất. Nói chung, tất cả các tỷ lệ chi phí thấp hơn 1% đều được coi là thấp. Các quỹ nhỏ có xu hướng chịu tỷ lệ chi phí cao hơn so với các quỹ lớn hơn – là những quỹ thu được lợi ích từ tính kinh tế theo quy mô bởi vỉ chi phí quản lý và các chi phí khác của chúng được trải rộng cho một cơ sở tài sản lớn hơn. Các quỹ đầu tư trên thị trường quốc tế có xu hướng chịu tỷ lệ chi phí lớn hơn một cách đáng kể so với các danh mục đầu tư trong thị trường nội địa do chi phí nghiên cứuvà các chi phí khác liên quan đến hoạt động đầu tư quốc tế. Các quỹ cổ phiếu có tỷ lệ chi phí cao hơn so với các quỹ đầu tư chứng khoán thu nhập ổn định. Khi đánh giá tỷ lệ chi phí, cần so sánh tỷ lệ chi phí với số liệu của các danh mục khác có cùng quy mô. 4.3. Tỷ lệ thu nhập Tỷ lệ thu nhập được tính bằng giá trị thu nhập đầu tư ròng chia cho giá trị tài sản ròng trung bình. Con số này không có tầm quan trọng như tổng lợi nhuận bởi vì tổng lợi nhuận là một thước đo trọn vẹn về hoạt động trong khi tỷ lệ này chỉ tập trung vào thu nhập. Tỷ lệ này cũng tương tự như lợi suất cổ tức khi đánh giá hiệu quả đầu tư của cổ phiếu phổ thông. 4.4. Tỷ lệ doanh thu Tỷ lệ này do tổng giá trị giao dịch (mua và bán) do công ty quản lý quỹ tiến hành đối với quỹ. Tỷ lệ này được xác định bằng số lượng tài sản được bán hoặc mua chia cho giá trị tài sản ròng của quỹ trong năm. Nếu tỷ lệ này là 100% doanh thu có nghĩa là công ty quản lý nắm giữ một loại cổ phiếu hoặc trái phiếu trung bình trong một năm. 50% doanh thu cho biết quỹ này thường nắm giữ các chứng khoán trung bình trong hai năm, 200% doanh thu cho biết quỹ này nắm giữ các loại chứng khoán trung bình trong 6 tháng và cứ như vậy doanh thu đối với các quỹ cổ phiếu trung bình vào khoản từ 75% đến 85%. Doạnh thu luôn biến đổi theo từng loại quỹ và triết lý đầu tư của các nhà quản lý quỹ. Nhiều nhà quản lý tìm kiếm lợi nhuận nhanh chóng và có xu hướng mua và bán linh hoạt. Nhiều nhà quản lý khác lại theo xu hướng mua và nắm giữ trong dài hạn. Các quỹ mà tin tưởng vào chiến lược hợp đồng tương lai, hợp đồng lựa chon jvà bán khống có thể mong đợi có một doanh thu và chi phí giao dịch cao hơn. 4.5. Chất lượng của hoạt động quản lý quỹ Nhà quản lý quỹ đầu tư tốt có thể điều hành hoạt động ổn định và chống chọi lại với thị trường đi xuống tốt hơn các đối thủ của họ có thể làm. Hay nói cách khác, họ làm một công việc tuyệt với trong việc điều khiển rủi ro của danh mục đầu tư. Tối thiểu hoá thua lỗ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đến sự tăng trưởng dài hạn so với trở thành một quỹ nổi tiếng trên thị trường đang lên. Các nhà quản lý tốt không bao giờ để cho chi phí giao dịch vượt ra ngoài tầm kiểm soát của mình thông qua việc thực hiện rất nhiều giao dịch. Hơn nữa, họ có một chiến lược dài hạn. Công bằng mà nói, một quỹ hoạt động tốt, được quản lý tốt thu hút nhiều nhà đầu tư hơn và tài sản của nó theo đó cũng tăng lên hàng năm. Cùng với hoạt động và chi phí, các nhân tố khác cũng có thể giúp ta xác định được hiệu quả hoạt động của công ty quản lý. Kinh nghiệm đầu tư và quá trình hoạt động của công ty quản lý quỹ lúc nào cũng được quan tâm nhưng không phải là điều chính yếu – để có một người lãnh đạo quỹ trong năm năm hoặc lâu hơn. Các quỹ đã đạt được kết quả hoạt động dài hạn xuất sắc thường được điều hành bởi một nhóm các nhà quản lý chứ không phải được điều hành bởi chỉ một hay hai cá nhân. Đối với các quỹ đầu tư dạng hợp đồng, cơ cấu tổ chức hoạt động kinh doanh tại công ty quản lý quỹ có ảnh hưởng nhiều tới tính ổn định của quỹ. 5. Việc công bố thông tin 5.1. Sự cần thiết của công bố thông tin Cũng như bất kỳ các công cụ tài chính khác trên thị trường, giá của chứng chỉ đầu tư/cổ phần của quỹ đầu tư phản ánh nhận định và dự đoán của người đầu tư về giá trị của quỹ phát hành các chứng chỉ đầu tư/cổ phần đó. Đối với quỹ đầy tư, việc công bố các thông tin liên quan tới hoạt động của quỹ sẽ đạt được các mục đích: - Đối với những nhà đầu tư đang đầu tư vào quỹ. Cho biết hoạt động và hiệu quả kinh doanh của quỹ để quyết định tiếp tục đầu tư hay rút vốn khỏi quỹ. Đồng thời nâng cao uy tín của công ty quản lý quỹ và người quản lý đầu tư khi quỹ hoạt động hiệu quả. - Thu hút vốn đầu tư cho quỹ: các thông tin về hoạt động của quỹ sẽ giúp người đầu tư mới đưa ra quyết định đầu tư. 5.2. Nội dung công bố thông tin định kỳ liên quan tới hoạt động kinh doanh của quỹ Các thông tin trên do Hội đồng quản trị của quỹ (trong mô hình công ty) hoặc công ty quản lý quỹ thực hiện việc công bố. Nội dung công bố - Đối với các quỹ đầu tư dạng công ty: Hội đồng quản trị phải cung cấp cho các nhà đầu tư các báo cáo tài chính liên quan tới hoạt động của quỹ. - Đối với các quỹ đầu tư dạng hợp đồng, các tài liệu công bố định kỳ bao gồm báo cáo của công ty quản lý quỹ, báo cáo của người thụ uỷ, báo cáo tài chính bao gồm báo cáo về tài sản và công nợ của quỹ, thu nhập và chi phí, thay đổi giá trị tài sản ròng và các bản thuyết minh kèm theo. Báo cáo của công ty quản lý quỹ Việc phân bổ tài sản của quỹ tại thời điểm báo cáo và đặc biệt là các thay đổi đáng kể về việc phân bổ tài sản so với lần báo cáo trước đó. Giải thích hoạt động của quỹ dựa trên cơ sở giá chứng chỉ đầu tư của quỹ trong thời kỳ đó, phân tích theo phân tăng trưởng vốn lẫn việc phân phối lợi nhuận của quỹ. Đánh giá thị trường mà quỹ đầu tư trong giai đoạn báo cáo bao gồm cả mức sinh lợi trên các khoản đầu tư của thị trường. Dự đoán xu hướng phát triển của thị trường mà quỹ đang đầu tư và các chiến lược mà quỹ dự kiến sử dụng thích ứng với môi trường đã phân tích. Những thay đổi đặc biệt về phân phối thu nhập hoặc việc phân phối thêm thu nhập trong thời kỳ báo cáo. ảnh hưởng của phân phối thu nhập và các khoản phân phối thêm tới giá trị tài sản ròng của quỹ trước và sau khi phân phối thu nhập. Báo cáo của người thụ uỷ (tổ chức giám sát bảo quản) Người thụ uỷ phải chuẩn bị báo cáo nên rõ ý kiến đánh giá của mình đối với hoạt động của công ty quản lý quỹ: đánh giá việc tuân thủ các giới hạn đầu tư trong quyền hạn của công ty quản lý quỹ phù hợp với hợp đồng tín thác, các quy định trong điều lệ quỹ và các quy định khác của pháp luật. Người thụ uỷ phải đảm bảo: - Thủ tục và quy trình do công ty quản lý quỹ áp dụng để đánh giá và định giá các chứng chỉ của quỹ là chính xác và việc đánh giá, định giá đó được tiến hành phù hợp với hợp đồng tín thác và các quy định của pháp luật. - Việc chào bán, mua lại, phát hành thêm và huỷ bỏ chứng chỉ được tiến hành phù hợp với hợp đồng tín thác và các quy định của pháp luật. Người thụ uỷ được quyền chỉ ra các thiếu sót của công ty quản lý quỹ, những thiếu sót có thể ảnh hưởng tới quyết định của những người đầu tư tiềm năng hay những người đầu tư hiện tại của quỹ. Báo cáo tài chính: - Tài sản và nợ của qũy: + Các khoản đầu tư của quỹ, tổng giá trị tài sản + Tổng giá trị các khoản nợ của quỹ + Giá trị tài sản ròng của quỹ + Số chứng chỉ đang lưu hành + Giá trị tài sản ròng của từng chứng chỉ (kể cả trường hợp chứng chỉ không cổ tức) + Tiền của người đầu tư: vốn, các khoản thu nhập chưa phân phối, dự phòng rủi ro biến động giá các khoản đầu tư - Thu nhập và chi phí của quỹ + Thu nhập: Thu nhập từ lãi suất, thu nhập từ cổ tức, các khoản lãi hoặc lỗ khi bán các khoản đầu tư + Chi phí: phí và các khoản phải trả cho công ty quản lý quỹ, chi phí và các khoản thưởng cho người thụ uỷ, các khoản chi phí đáng kể khác. + Thu nhập ròng trước và sau thuế + Các khoản thu nhập chưa phân phối + Tổng thu nhập đã phân phối và giá trị giá phân phối cho từng loại chứng chỉ. Ngày tiến hành các đợt phân phối - Báo cáo thay đổi giá trị tài sản ròng của quỹ Biến động của giá trị tài sản ròng của quỹ phân loại theo các biến động phát sinh từ các khoản đầu tư và các biến động phát sinh từ người đầu tư. + Giá trị tài sản ròng đầu kỳvà cuối kỳ + Thu nhập ròng trong kỳ + Thay đổi lỗ lãi của các khoản đầu tư chưa được thực hiện + Trị giá thu được từ các chứng chỉ được phát hành + Trị giá trả cho các chứng chỉ bị huỷ bỏ + Phân phối cho người đầu tư Báo cáo liên quan tới tình hình hoạt động của quỹ - Bảng so sánh số liệu về tình hình hoạt động trong vòng 03 đến 05 năm gần đây. Các số liệu bao gồm: + Kết cấu danh mục đầu tư của quỹ + Tổng giá trị tài sản ròng của quỹ + Giá trị tài sản ròng của quỹ của từng chứng chỉ và số lượng các chứng chỉ của quỹ lưu hành tại thời điểm cuối kỳ của từng năm tài chính. + Giá chào bán chứng chỉ + Giá mua lại chứng chỉ + Giá chào bán và mua lại cao nhất hoặc thấp nhất + Tổng thu nhập của quỹ chia theo sự tăng trưởng của vốn và phân phối thu nhập + Phân phối thu nhập theo chứng chỉ + Tỷ lệ phí quản lý của quỹ + Tổng doanh thu của danh mục đầu tư - Thu nhập trung bình hàng năm của quỹ tính trong vòng 03 năm hoặc 05 năm hoặc bắt đầu từ khi thành lập quỹ. - Các thuyết minh khác như biến động của các chỉ số chuẩn liên quan. 5.3. Phương tiện công bố thông tin Đối với các nước có thị trường tài chính phát triển, các thông tin về hoạt động của các quỹ đầu tư cũng như các thông tin liên quan tới các chứng khoán giao dịch trên thị trường chứng khoán đều được công bố trên các tạp chí tài chính. Ngoài ra, các thông tin còn được công bố tại trụ sở các công ty quản lý quỹ hoặc tại các đại lý nhận lệnh của công ty. Thời báo kinh doanh của các nhà đầu tư đưa ra một bản báo cáo phản ánh về tình hình hoạt động ba năm của hơn hai nghìn quỹ. Bản báo cáo này cũng cung cấp các kết quả về tình hình hoạt động trong 4 tuần gần nhất của từng quỹ được phát hành từ thứ hai đến thứ năm. trong bản báo cáo này cũng bao gồm cả số điện thoại và tổng tài sản được quản lý bởi công ty quản lý quỹ lớn hơn. Báo cáo phân tích về hoạt động của quỹ tương hỗ tổng hợp cũng được phát hành hàng năm hoặc thường xuyên hơn. Nhiều nhà đầu tư cũng rất quan tâm đến Hướng dẫn cổ phiếu của người sở hữu chứng khoán hàng tháng của Stanđard & Poor, luôn sẵn có tại các văn phòng môi giới và các thư viện. Gần cuối của quyển sách hướng dẫn, bạn sẽ có được những thông tin có giá trị về các quỹ, bao gồm cả các tài liệu về hoạt động của quỹ.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0209.doc
Tài liệu liên quan