Thứ nhất, hoàn thiện quy định của
BLTTHS.
- Sửa đổi, bổ sung Điều 174 BLTTHS
năm 2015 theo hướng tăng số lần được
ĐTBS cho thẩm phán lên 02 lần. Điều 174
BLTTHS năm 2015 quy định trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử thẩm phán làm nhiệm
vụ chuẩn bị xét xử được trả hồ sơ ĐTBS 01
lần5. Quy định này mặc dù đã giới hạn số lần
trả hồ sơ ĐTBS, với mục đích của nhà làm
luật là tránh lạm dụng trả hồ sơ ĐTBS trong
TTHS, nhưng lại xảy ra bất cập đó là có
những vấn đề về chứng cứ, tình tiết, thủ tục
vụ án phát sinh mới mà thẩm phán không dự
liệu được, hoặc chính VKS đã không điều
tra đầy đủ lần ĐTBS thứ nhất, buộc thẩm
phán phải trả hồ sơ ĐTBS đến lần thứ hai.
Trước đây BLTTHS cũ cũng đã xác lập số
lần trả hồ sơ ĐTBS của phẩm phán chủ tọa
phiên tòa là 02 lần, nhưng thực tế rất nhiều
vụ án được trả đi trả lại nhiều lần hơn rồi
mới làm rõ được vấn đề. Tăng số lần (02
lần) được trả hồ sơ ĐTBS cho thẩm phán
chuẩn bị xét xử trong giai đoạn chuẩn bị xét
xử là phù hợp với thực tế và nó sẽ bổ sung
cho khiểm khuyết trong trường hợp hạn chế
thẩm quyền trả hồ sơ ĐTBS của Hội đồng
xét xử.
- Sửa đổi, bổ sung nội dung về giao
hồ sơ để truy tố lại tại Điều 298 BLTTHS
năm 2015 (Giới hạn của việc xét xử) theo
hướng xác định rõ việc giao hồ sơ để truy
tố lại không phải là trường hợp trả hồ sơ
để ĐTBS, nếu không sẽ làm gia tăng các
vụ án phải trả hồ ĐTBS và thời hạn truy tố
lại không cần thiết phải nhiều như thời hạn
ĐTBS. Đồng thời sửa đổi Điều 298 phải
theo hướng khẳng định nếu KSV bổ sung
được tại phiên tòa (bổ sung khi trình bày
cáo trạng hoặc trong quá trình tranh tụng)
thì không được chuyển hồ sơ lại cho VKS.
Vì có nhiều trường hợp tại phiên tòa chứng
cứ đã rõ, đủ để kết luận và tuyên án bị cáo
phạm tội nặng hơn nhưng Hội đồng xét xử
vẫn máy móc trả hồ sơ ĐTBS để VKS truy
tố lại. Thủ tục này là rườm rà, kéo dài thời
gian không cần thiết6. Xảy ra những trường
hợp cần truy tố lại đó là kết quả ĐTBS có
đủ cơ sở kết luận bị can, bị cáo phạm tội
nặng hơn, hoặc phạm tội khác, hoặc các vấn
đề khác làm thay đổi tội danh, khung hình
phạt, hoặc có sai lầm, thiếu sót khác so với
bản cáo trạng đã ban hành, cần phải bổ sung,
thay đổi quan điểm truy tố.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 210 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung ở tỉnh Quảng Trị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÒA ÁN TRẢ HỒ SƠ ĐIỀU TRA BỔ SUNG
Ở TỈNH QUẢNG TRỊ
Tóm tắt:
Trong những năm qua, phạm vi cả nước nói chung, ở tỉnh Quảng
Trị nói riêng còn xảy ra tình trạng Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ
sung (ĐTBS). Tình trạng này làm kéo dài thời gian giải quyết vụ
án, lãng phí công sức, tiền của, ảnh hưởng đến quyền lợi của bị
cáo và người tham gia tố tụng khác, vì vậy, cần phải có giải pháp
nhằm khắc phục tình trạng này.
Nguyễn Ngọc Kiện*
* TS. Trường Đại học luật, Đại học Huế
Abstract
In recent years, in the whole country in general, in Quang Tri
province in particular, there is still a situation where the Court
returns the criminal case file for additional investigation. This
situation prolongs the time for dealing with the law case, wasting
efforts and money, affecting the rights of defendants and other
participants in the proceedings, therefore, it is necessary to review
and provide recommendations for the mentioned situation.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ
sung, Tòa án tỉnh Quảng Trị.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 03/12/2018
Biên tập : 13/12/2018
Duyệt bài : 16/12/2018
Article Infomation:
Keywords: The court files additional
investigation,The court of Quang Tri
province.
Article History:
Received : 03 Dec. 2018
Edited : 13 Dec. 2018
Approved : 16 Dec. 2018
1. Thực trạng tòa án trả hồ sơ điều tra bổ
sung ở tỉnh Quảng Trị
Trong những năm qua, ngành Tòa án
tỉnh Quảng Trị thực hiện tốt đường lối cải
cách tư pháp của Đảng và Nhà nước, kết
quả đạt được trong hoạt động xét xử rất tích
cực. Trong việc giải quyết vụ án hình sự
(VAHS), Tòa án đã nâng cao chất lượng, kỹ
năng nghiên cứu hồ sơ của thẩm phán trong
giai đoạn chuẩn bị xét xử; cân nhắc cẩn thận
hơn trong việc đánh giá chứng cứ, tình tiết
vụ án để hạn chế vụ án phải trả hồ sơ ĐTBS.
Tuy nhiên, trong hoạt động tố tụng hình sự
(TTHS) của Tòa án vẫn để xảy ra nhiều vụ
án trả hồ sơ ĐTBS.
Số vụ án Tòa án hai cấp ở Quảng Trị
trả hồ sơ ĐTBS cho Viện kiểm sát (VKS)
tăng giảm không đều (từ năm 2011 đến năm
2017 Tòa án các cấp ở tỉnh Quảng Trị trả
hồ sơ ĐTBS 57 vụ trên tổng số 1832 vụ
VKS đề nghị xét xử, chiếm tỷ lệ bình quân
3,11%/năm), phổ biến là lý do “thiếu chứng
cứ quan trọng không thể bổ sung tại phiên
tòa được” (có 31/39 vụ). Đáng chú ý là số vụ
án Tòa án trả hồ sơ nhưng không được VKS
chấp nhận còn nhiều (từ năm 2011 đến năm
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
53Số 21(397) T11/2019
2017 Tòa án các cấp trả hồ sơ ĐTBS cho
VKS tổng số 57 vụ, có 18 vụ không được
VKS chấp nhận, chiếm tỉ lệ 31,58%)1.
Lý do của số vụ trả hồ sơ không được
VKS chấp nhận chủ yếu là do có sự nhận
thức khác nhau trong việc đánh giá chứng
cứ, tình tiết vụ án. Bên cạnh đó, có 03 vụ
Tòa án trả hồ sơ ĐTBS vì “lý do khác”; có
02 vụ vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Để xảy ra trường hợp trả hồ sơ ĐTBS do vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng là một
tồn tại của hoạt động tố tụng. Hậu quả của
việc trả hồ sơ ĐTBS đã gây ảnh hưởng đến
quyền lợi của người tham gia tố tụng, lãng
phí thời gian, công sức, chi phí tố tụng.
Dẫn chứng một số vụ án do Tòa án trả
hồ sơ ĐTBS không được VKS chấp nhận:
Vụ án thứ nhất: Quyết định trả hồ
sơ ĐTBS số 02/2014/HSST - QĐ ngày
19/5/2014 của TAND tỉnh Quảng Trị với nội
dung yêu cầu giám định tỉ lệ tổn thương cơ thể
của bị hại trong vụ án. Tuy nhiên, VKSND
tỉnh Quảng Trị vẫn giữ nguyên quan điểm
truy tố và chuyển trả lại hồ sơ Đoàn Q. Th.
bị truy tố về tội Cố ý gây thương tích theo
khoản 2 Điều 104 Bộ luật Hình sự. VKSND
tỉnh cho rằng, Kết luận giám định pháp y
số 240/2013/GĐPY ngày 24/12/2013 của
Trung tâm Giám định pháp y tỉnh Quảng Trị
đã kết luận rõ ràng, cụ thể, đầy đủ, chính xác
thương tích bị hại (theo quy định tại khoản
1, khoản 2 Điều 29 Luật Giám định tư pháp
thì không thuộc trường hợp phải trưng cầu
giám định lại hoặc giám định bổ sung)2. Qua
vụ án này chúng ta thấy, Tòa án đã ra quyết
định trả hồ sơ ĐTBS cho VKS không chính
xác, đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của
người tham gia tố tụng, tính đúng đắn của
thủ tục tố tụng bị xâm phạm.
1 Xem diễn đạt số liệu ở chú thích cuối bài viết
2 Nguồn: Công văn số 635/CV-VKS-P1A ngày 3/6/2014 của VKSND tỉnh Quảng Trị “Về việc: chuyển trả lại hồ sơ
VAHS cho TAND tỉnh Quảng Trị để xét xử theo quy định của pháp luật”.
3 Nguồn: Công văn số 309/VKS-CV ngày 11/5/2017 và Công văn số 354/VKS-CV ngày 23/5/2017 của VKSND thành
phố Đông Hà.
Vụ án thứ hai: Quyết định trả hồ sơ
ĐTBS số 09/2017/HSST-QĐ ngày 9/5/2015
của TAND thành phố Đông Hà trả hồ sơ
VAHS “Mua bán trái phép chất ma túy”
theo khoản 1 Điều 194 BLHS đối với
bị can Dương Tr. D. và đồng phạm, yêu
cầu VKS giám định xác định hàm lượng
Methamphetamine trong tổng lượng chất ma
túy thu giữ được của bị can. Tuy nhiên, VKS
làm công văn chuyển trả lại toàn bộ hồ sơ
VAHS cho Tòa án, vì lý do, 26 viên ma túy
thu giữ của Dương Tr. D và đồng phạm loại
ma túy tổng hợp thuộc thể rắn, nên không
thuộc trường hợp bắt buộc phải giám định
hàm lượng để xác định trọng lượng chất ma
túy, (căn cứ khoản 2 Điều 1 Thông tư liên
tịch số 08/2015/TTLT- BCA-VKSNDTC-
TANDTC-BTP ngày 4/1/2015 sửa đổi bổ
sung tiết 1.4 mục 1 Phần I Thông tư liên
tịch số 17/2007/TTLT ngày 24/12/2007).
Viện kiểm sát còn cho rằng Công văn số
2878 ngày 25/7/2016 của VKSNDTC-V4
hướng dẫn thực hiện Thông tư 08 nêu trên
cũng đã hướng dẫn trường hợp vật chứng là
ma túy tổng hợp thuộc vụ án nêu trên không
bắt buộc phải giám định hàm lượng để xác
định trọng lượng chất lượng ma túy. Đáng
quan tâm là ngày 15/5/2017, TAND thành
phố Đông Hà tiếp tục trả hồ sơ VAHS lần
2 để xác định hàm lượng chất ma túy như
quyết định trả hồ sơ lần 13. Ngày 23/5/2017
VKSND Thành phố Đông Hà làm công văn
chuyển trả lại hồ sơ cho Tòa án để giải quyết
theo thẩm quyền. Như vậy, thẩm phán đã
vận dụng không đúng các văn bản hướng
dẫn áp dụng pháp luật, cho dù VKS đã giữ
nguyên quan điểm truy tố, nói rõ lí do nhưng
Tòa án vẫn tiếp tục trả hồ sơ lần thứ 2. Trong
vụ án vừa nêu Tòa án đã trả hồ sơ ĐTBS
một cách không cần thiết gây khó khăn cho
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
54 Số 21(397) T11/2019
VKS, ảnh hưởng đến mối quan hệ phối hợp
trong hoạt động TTHS và vụ án phải kéo
dài gây hậu quả xấu cho người tham gia
tố tụng.
2. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng
Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở
Quảng Trị
Thứ nhất, do vận dụng các văn bản
hướng dẫn khác nhau về đánh giá chứng cứ,
định tội danh4. Như đã đề cập ở trên, trong
các vụ án về tội phạm ma túy, Tòa án cho
rằng VKS phải giám định hàm lượng ma
túy theo Công văn số 234/TANDTC-HS
ngày 17/9/2014 của Tòa án nhân dân tối
cao. Tuy nhiên, VKS ở các địa phương áp
dụng Công văn số 2878 ngày 25/7/2016
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng
dẫn thực hiện khoản 2 Điều 1 Thông tư liên
tịch số 08/2015/TTLT- BCA-VKSNDTC-
TANDTC-BTP, cho rằng trường hợp vật
chứng là ma túy tổng hợp thuộc vụ án nêu
trên không bắt buộc phải giám định hàm
lượng để xác định trọng lượng chất lượng
ma túy. Như vậy, giữa ngành Tòa án và
Kiểm sát đều có văn bản hướng dẫn áp dụng
pháp luật khác nhau, không thống nhất, dẫn
đến cách hiểu khác nhau của các cơ quan
thực thi pháp luật ở địa phương.
Thứ hai, do Kiểm sát viên (KSV) chưa
thực hiện tốt công tác thực hành quyền công
tố, kiểm sát các hoạt động điều tra. Với
chức năng của mình, VKS có trách nhiệm
bảo đảm hoạt động tố tụng được đúng đắn,
do đó để xảy ra vụ án trả hồ sơ ĐTBS cho
dù lỗi thuộc về cơ quan điều tra (CQĐT),
nhưng trách nhiệm vẫn thuộc về VKS, mà
trực tiếp là KSV được phân công nhiệm
vụ chưa nghiên cứu tài liệu chứng cứ một
cách toàn diện, không phát hiện được các
mâu thuẫn giữa các tài liệu, chứng cứ; KSV
chưa đề ra yêu cầu điều tra hoặc nội dung
4 Tham khảo thêm ví dụ: Trong năm 2010 cả nước có 513/2151 vụ án Tòa án trả hồ sơ ĐTBS nhưng không được VKS
chấp nhận, chiếm 23,84% (nguồn: Thông báo rút kinh nghiệm số 74/TB-VKNDTC- V1C ngày 14/4/2011 của Viện
kiểm sát nhân dân tối cao).
yêu cầu điều tra chưa đầy đủ; cũng như thiếu
đôn đốc, theo dõi tiến độ điều tra để kịp thời
khắc phục, bổ sung chứng cứ, thủ tục tố tụng
hoặc nhằm định tội danh được chính xác,
thường thấy đến khi vụ án ở giai đoạn truy
tố, KSV mới phát hiện vi phạm và phải trả
hồ sơ cho CQĐT.
Thứ ba, trình độ, năng lực của một
số KSV, Điều tra viên (ĐTV) và thẩm phán
còn hạn chế, chưa ngang tầm nhiệm vụ. Có
ĐTV, KSV và thẩm phán không được đào
tạo bài bản, thiếu bản lĩnh... nghề nghiệp khi
thực thi công vụ. Có ĐTV, KSV lớn tuổi chỉ
thích làm việc theo lối mòn, kinh nghiệm cũ,
chậm đổi mới, không theo kịp tình hình mới,
trong khi tội phạm xảy ra ngày càng phức
tạp, nghiêm trọng. Nguyên nhân khác nữa là
ở nhiều địa phương ĐTV ít nhưng phải kiêm
nhiệm nhiều việc, năng lực, kinh nghiệm
còn hạn chế; chưa chú trọng đến hoạt động
tố tụng của cán bộ làm công tác điều tra,
giúp việc cho ĐTV.
Thứ tư, các cơ quan tiến hành tố tụng
chưa thực hiện tốt nguyên tắc phối hợp
trong hoạt động TTHS. Một mặt, với tâm lý
e ngại phải bồi thường do oan, sai trong hoạt
động TTHS, nên ĐTV, KSV và thẩm phán
cẩn trọng thái quá trong khi cân nhắc buộc
tội, luôn đòi hỏi phải đầy đủ chứng cứ. Cho
dù những chứng cứ đó có thể tự mình bổ
sung, tự mình làm rõ tại phiên tòa nhưng tòa
án vẫn trả lại hồ sơ. Đặc biệt là nếu VAHS
có luật sư tham gia, thì KSV và thẩm phán
càng thận trọng và luôn lường trước phải có
cho bằng được chứng cứ buộc tội có lợi thế
về mình. Vì thế mà nguyên tắc suy đoán vô
tội bị lu mờ ở đây, do thói quen buộc tội của
KSV và thẩm phán- đó là trước khi tranh
tụng yêu cầu CQĐT, VKS thu thập đầy đủ
mọi chứng cứ, mà lẽ ra có thể tự mình bổ
sung, làm rõ được tại phiên tòa.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
55Số 21(397) T11/2019
3. Kiến nghị
Nhằm khắc phục tình trạng Tòa án trả
hồ sơ ĐTBS, chúng tôi cho rằng cần thực
hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, hoàn thiện quy định của
BLTTHS.
- Sửa đổi, bổ sung Điều 174 BLTTHS
năm 2015 theo hướng tăng số lần được
ĐTBS cho thẩm phán lên 02 lần. Điều 174
BLTTHS năm 2015 quy định trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử thẩm phán làm nhiệm
vụ chuẩn bị xét xử được trả hồ sơ ĐTBS 01
lần5. Quy định này mặc dù đã giới hạn số lần
trả hồ sơ ĐTBS, với mục đích của nhà làm
luật là tránh lạm dụng trả hồ sơ ĐTBS trong
TTHS, nhưng lại xảy ra bất cập đó là có
những vấn đề về chứng cứ, tình tiết, thủ tục
vụ án phát sinh mới mà thẩm phán không dự
liệu được, hoặc chính VKS đã không điều
tra đầy đủ lần ĐTBS thứ nhất, buộc thẩm
phán phải trả hồ sơ ĐTBS đến lần thứ hai.
Trước đây BLTTHS cũ cũng đã xác lập số
lần trả hồ sơ ĐTBS của phẩm phán chủ tọa
phiên tòa là 02 lần, nhưng thực tế rất nhiều
vụ án được trả đi trả lại nhiều lần hơn rồi
mới làm rõ được vấn đề. Tăng số lần (02
lần) được trả hồ sơ ĐTBS cho thẩm phán
chuẩn bị xét xử trong giai đoạn chuẩn bị xét
xử là phù hợp với thực tế và nó sẽ bổ sung
cho khiểm khuyết trong trường hợp hạn chế
thẩm quyền trả hồ sơ ĐTBS của Hội đồng
xét xử.
- Sửa đổi, bổ sung nội dung về giao
hồ sơ để truy tố lại tại Điều 298 BLTTHS
năm 2015 (Giới hạn của việc xét xử) theo
hướng xác định rõ việc giao hồ sơ để truy
tố lại không phải là trường hợp trả hồ sơ
để ĐTBS, nếu không sẽ làm gia tăng các
vụ án phải trả hồ ĐTBS và thời hạn truy tố
lại không cần thiết phải nhiều như thời hạn
5 BLTHS năm 2015 chưa phân biệt khái niệm Thẩm phán chuẩn bị xét xử và Thẩm phán chủ tọa phiên tòa.
6 Trước đây BLTTHS năm 2003 không quy định thủ tục giao hồ sơ để VKS truy tố lại, nhưng VKS vẫn làm công văn xin
rút hồ sơ, hoặc tại phiên tòa KSV xin hoãn phiên tòa để rút hồ sơ về truy tố lại nhưng không phải theo tội nặng hơn- Hội
đồng xét xử tôn trọng ý kiến của KSV và ra quyết định trả hồ sơ ĐTBS.
ĐTBS. Đồng thời sửa đổi Điều 298 phải
theo hướng khẳng định nếu KSV bổ sung
được tại phiên tòa (bổ sung khi trình bày
cáo trạng hoặc trong quá trình tranh tụng)
thì không được chuyển hồ sơ lại cho VKS.
Vì có nhiều trường hợp tại phiên tòa chứng
cứ đã rõ, đủ để kết luận và tuyên án bị cáo
phạm tội nặng hơn nhưng Hội đồng xét xử
vẫn máy móc trả hồ sơ ĐTBS để VKS truy
tố lại. Thủ tục này là rườm rà, kéo dài thời
gian không cần thiết6. Xảy ra những trường
hợp cần truy tố lại đó là kết quả ĐTBS có
đủ cơ sở kết luận bị can, bị cáo phạm tội
nặng hơn, hoặc phạm tội khác, hoặc các vấn
đề khác làm thay đổi tội danh, khung hình
phạt, hoặc có sai lầm, thiếu sót khác so với
bản cáo trạng đã ban hành, cần phải bổ sung,
thay đổi quan điểm truy tố.
Thứ hai, ban hành văn bản hướng dẫn
thi hành BT TTHS để giải thích rõ trường
hợp “Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố
tụng” (điểm d, khoản 1 Điều 245) và “Việc
khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm
trọng về thủ tục tố tụng” (điểm d, khoản
1 Điều 280 của BLTTHS năm 2015). Đây
là những căn cứ để VKS, Tòa án trả hồ sơ
ĐTBS.
Thứ ba, nâng cao trình độ chuyên
môn, tinh thần trách nhiệm của KSV.
KSV được phân công kiểm sát điều tra
vụ án phải nắm chắc tiến độ điều tra, hàng
tuần ít nhất 01 lần gặp ĐTV trao đổi, bàn
bạc tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong việc
thực hiện kế hoạch điều tra.
KSV nên chủ động đề ra yêu cầu điều
tra ngay khi tiếp nhận hồ sơ, tài liệu do
CQĐT chuyển đến đề nghị xét phê chuẩn
khởi tố bị can. Trong trường hợp có những
vấn đề mới phát sinh trong giai đoạn điều
tra, KSV cần kịp thời ban hành Bản yêu cầu
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
56 Số 21(397) T11/2019
điều tra gửi đến CQĐT, để được tiến hành
điều tra hoặc khắc phục những thiếu sót về
chứng cứ và thủ tục tố tụng.
KSV chủ động nghiên cứu hồ sơ vụ
án trong giai đoạn điều tra, đọc hồ sơ vụ án
trước khi kết thúc điều tra, nhằm nắm chắc
tiến độ điều tra, kịp thời khắc phục những
vướng mắc trong việc điều tra.
KSV nên chủ động, tích cực tham dự,
chứng kiến các cuộc hỏi cung đối với vụ án
khó, phức tạp, vụ án bị can, bị cáo không nhận
tội .v.v, tham dự việc đối chất, nhận dạng của
CQĐT để kịp thời định hướng điều tra.
Trong các vụ án phải trả hồ sơ ở Quảng
Trị chiếm đa phần là nguyên nhân thiếu
chứng cứ quan trọng của vụ án, do đó lãnh
đạo CQĐT và VKS; ĐTV và KSV cần chú
trọng công tác khám nghiệm hiện trường vụ
án. Công tác khám nghiệm hiện trường vụ
án có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc
giải quyết VAHS, nếu không được tiến hành
đúng thủ tục tố tụng thì vụ án phải trả hồ
sơ ĐTBS; nếu bỏ sót chứng cứ, dấu vết về
sau khó khắc phục, do quy luật khách quan
của việc hình thành, mất đi dấu vết tại hiện
trường, và nó làm cho vụ án lâm vào tình
trạng bế tắc kéo dài, vụ án phải trả hồ sơ
ĐTBS nhiều lần.
Thứ tư, tăng cường công tác phối hợp
giữa CQĐT, VKS và Tòa án trong việc giải
quyết VAHS. Một năm ít nhất 01 lần tiến
hành họp đánh giá kết quả phối hợp liên
ngành theo quy chế phối hợp, để kịp thời rút
ra những kinh nghiệm cần thiết cho việc giải
quyết VAHS.
Phụ lục:
Bảng phân tích số vụ án tòa án hai cấp ở Quảng trị trả hồ sơ để ĐTBS trong 5 năm
(2013-2017)7
Năm
Số vụ trả hồ sơ
Số lần trả
hồ sơ
Lý do trả
hồ sơ điều tra bổ sung
(Chỉ tính số vụ chấp nhận)
Trách nhiệm Trả
hồ sơ
ĐTBS
dẫn
đến
tạm
đình
chỉ
(vụ)
Trả
hồ sơ
ĐTBS
dẫn
đến
đinh
chỉ
(vụ)
Tỷ lệ %
Tăng/
Giảm
so với
cùng
kỳ năm
trước
Tổng
số
Tổng
số bị
can
Chấp
nhận
Không
chấp
nhận
Tỷ lệ
% so
với vụ
VKS
đề
nghị
xét xử
Lần
1
Lần
2
Lần
3
trở
lên
Thiếu
chứng
cứ (K1
Đ 168)
Có căn
cứ khởi
tố mới
(K2
Điều
168 )
Vi
phạm
tố
tụng
(K3
Điều
168)
Lý
do
khác
CQ
ĐT
VKS Tòa
án
2013 413 17 15 14 3 4,11% 17 13 1 14 3 Giảm
20%
7 Nguồn: Báo cáo số 146/BC-VKS-VP ngày 11/12/2013 của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh Quảng Trị “báo
cáo công tác kiểm sát năm 2013”; Báo cáo số 3295/BC-VKSND ngày 26/11/2014 của VKSND tỉnh Quảng Trị “Báo
cáo công tác kiểm sát năm 2014”; Báo cáo số 106-BC/BCSĐ-VKS ngày 15/12/2015 của Ban cán sự Đảng VKSND
tỉnh Quảng Trị “Báo cáo tổng kết công tác cải cách tư pháp năm 2015”; Báo cáo số 149/BC-VKS- VP ngày 7/12/2016
của VKSND tỉnh Quảng Trị “tổng kết công tác kiểm sát năm 2016”; Báo cáo số 1497/VKS-BC ngày 4/12/2017 của
VKSND tỉnh Quảng Trị “báo cáo chuyên đề trả hồ sơ điều tra bổ sung năm 2017”; Báo cáo số 21 /VKS-P1 ngày
26/6/2017 của VKSND tỉnh Quảng Trị “báo cáo chuyên đề án trả hồ sơ điều tra bổ sung” (3 năm 2013- 2016”); Báo cáo
số 50/BC- TAT ngày 20/11/2014 của Tòa án nhân dân (TAND) tỉnh Quảng Trị “kết quả công tác năm 2014 và phương
hướng nhiệm vụ năm 2015 (trình bày tại kỳ họp thứ 14 Hội đồng nhân dân tỉnh khóa VI)”; Các phụ lục mẫu số 03A của
các năm: 2013, 2014, 2015, 2016 và năm 2017 của Văn phòng TAND tỉnh Quảng Trị.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
57Số 21(397) T11/2019
2014 377 6 17 2 4 1,59% 6 2 2 4 Giảm
64,7%
2015 430 13 16 4 9 3,02% 13 1 3 1 4 9 2 Tăng
116,7%
2016 341 9 14 8 1 2,64% 9 6 2 8 1 3 Giảm
30%
2017 271 12 24 11 1 4,42% 12 1 7 1 3 11 1 Tăng
33%
Tổng
số
1832 57 86 39 18 3,11% 57 2 31 3 2 3 39 18 5
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Báo cáo số 21 /VKS-P1 ngày 26/6/2017 của VKSND tỉnh Quảng Trị “báo cáo chuyên đề án trả hồ sơ điều
tra bổ sung” (3 năm 2013- 2016”).
2. Báo cáo số 146/BC-VKS-VP ngày 11/12/2013 của VKSND tỉnh Quảng Trị “báo cáo công tác kiểm sát
năm 2013”;
3. Báo cáo số 3295/BC-VKSND ngày 26/11/2014 của VKSND tỉnh Quảng Trị “Báo cáo công tác của ngành
kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Trị năm 2014”;
4. Báo cáo số 106-BC/BCSĐ-VKS ngày 15/12/2015 của Ban cán sự Đảng VKSND tỉnh Quảng Trị “Báo cáo
tổng kết công tác cải cách tư pháp năm 2015”;
5. Báo cáo số 149/BC-VKS- VP ngày 7/12/2016 của VKSND tỉnh Quảng Trị “tổng kết công tác kiểm sát
năm 2016”;
6. Báo cáo số 1497/VKS-BC ngày 4/12/2017 của VKSND tỉnh Quảng Trị “báo cáo chuyên đề trả hồ sơ điều tra
bổ sung năm 2017” kèm theo các phụ lục; Báo cáo số 21 /VKS-P1 ngày 26/6/2017 của VKSND tỉnh Quảng
Trị “báo cáo chuyên đề án trả hồ sơ điều tra bổ sung” (3 năm 2013- 2016”);
7. Báo cáo số 50/BC- TAT ngày 20/11/2014 của TAND tỉnh Quảng Trị “kết quả công tác năm 2014 và phương
hướng nhiệm vụ năm 2015 (trình bày tại kỳ họp thứ 14 Hội đồng nhân dân tỉnh khóa VI)”;
8. Các phụ lục mẫu số 03A của các năm: 2013, 2014, 2015, 2016 và năm 2017 của Văn phòng TAND tỉnh
Quảng Trị.
9. Công văn số 635/CV-VKS-P1A ngày 3/6/2014 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Trị “Về việc: chuyển
trả lại hồ sơ VAHS cho Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị để xét xử theo quy định của pháp luật”.
10. Công văn số 309/VKS-CV ngày 11/5/2017 và Công văn số 354/VKS-CV ngày 23/5/2017 của Viện kiểm sát
nhân dân Thành phố Đông Hà.
11. Nghị quyết số 01/2010/NQ- HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao .
12. Thông báo rút kinh nghiệm số 74/TB-VKNDTC- V1C ngày 14/4/2011 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
58 Số 21(397) T11/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- toa_an_tra_ho_so_dieu_tra_bo_sung_o_tinh_quang_tri.pdf