Bên cạnh việc tăng cường hệ thống văn
bản pháp luật trong nước, huy động nội lực,
Nhà nước ta cũng đã chủ động mở rộng
quan hệ với các nước và các tổ chức quốc tế
để huy động sự hỗ trợ về tài chính và kỹ
thuật cho công tác phòng, chống ma tuý nói
chung và điều trị nghiện ma tuý nói riêng.
Trong chuyến đi nghiên cứu, khảo sát công
tác phòng, chống ma túy tại Hoa Kỳ tháng
8/2013, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc,
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Ủy ban Quốc
gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ
nạn ma túy, mại dâm và các thành viên trong
đoàn gồm lãnh đạo Văn phòng Trung ương
Đảng, Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc
hội, Tòa án nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân Tối cao và Bộ Công an đã thăm
mô hình TMT ở một số thành phố. Phó Thủ
tướng đã đánh giá cao tính khoa học, hiệu
quả thực tiễn và tính nhân văn của TMT và
chỉ đạo các cơ quan chức năng nghiên cứu
thí điểm mô hình này cho phù hợp với thực
tiễn Việt Nam.
Việc áp dụng mô hình TMT ở Việt Nam
hoàn toàn có tính khả thi và cũng là nhu cầu
cần thiết. Trước hết là để phù hợp với yêu
cầu đổi mới về thủ tục tư pháp đưa người đi
điều trị nghiện bắt buộc mà các tổ chức quốc
tế và các tổ chức Liên hợp quốc đang
khuyến cáo Việt Nam thực hiện. Mặt khác,
việc triển khai TMT sẽ tạo điều kiện cho
người sử dụng ma túy, bao gồm cả những
người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự
vì các tội danh khác có cơ hội được lựa chọn
việc điều trị nghiện tại cộng đồng. Chương
trình TMT, vì vậy, sẽ giúp làm giảm gánh
nặng cho hệ thống tư pháp hình sự, các toà
án, các trại giam, trại tạm giam hiện nay.
Chương trình cũng giúp huy động, vận động
sự tham gia của các cấp, các ngành, các
nguồn lực xã hội vào công tác điều trị
nghiện ma túy
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 227 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tòa ma túy tại Hoa Kỳ và những khuyến nghị áp dụng tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
* TS. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
1 Rosenthal, J. T. A. (2002), Therapeutic jurisprudence and drug treatment courts: Integrating law and science. Trong Nolan, J.
(CB). Drug courts in theory and in practice. New York: Aldine de Gruyter, pp. 145-172.
2 Hennessy, J. (2001), Introduction: Drug courts in Operation. Trong Hennessy, J., & Pallone, N. J. (CB). Drug courts in operation:
current research. New York: Haworth Press, pp. 1-10.
3 Hora, P. F., Schma, W. G., & Rosenthal, J. T. (1999), The therapeuticjurisprudence and the drug treatment court movement:
revolutionizing the criminal justice systemls response to drug abuse and crime in America. Notre Dame Law Review, no. 74,
pp. 439 - 537.
4 Hora, P. F. (2002), A dozen year of drug treatment courts: uncovering our theoretical foundation and the construction of a
mainstream paradigm. Substance Use and Misuse, Vol. 37, No. 12 & 13, pp.1469 - 1488.
5 Drug Courts Program Office, U.S. Department of Justice (1998). Looking at a Decade of Drug Court.
58
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 09(313) T5/2016
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
TOÂA MA TUÁY TAÅI HOA KYÂ
VAÂ NHÛÄNG KHUYÏËN NGHÕ AÁP DUÅNG TAÅI VIÏåT NAM
nguYễn THị Vân*
Tòa Điều trị nghiện ma túy (Drug Treatment Court), hay còn được gọi là Tòa Ma túy
(Drug Court), một chương trình tổng hợp, kết hợp giữa các giải pháp tư pháp, điều trị,
phục hồi và giám sát dựa vào cộng đồng dành cho người nghiện ma túy. Tòa ma túy
(TMT) đầu tiên được hình thành tại thành phố Miami, bang Florida, Hoa Kỳ năm 1989
nhằm ngăn chặn tỷ lệ tái phạm đang ngày càng gia tăng trong những người phạm tội về
ma túy nghiêm trọng. Kể từ đó, TMT đã phát triển ra toàn Hoa Kỳ, thành một phong trào
mang tính quốc gia và được đánh giá là “sáng kiến tư pháp có ý nghĩa nhất” tại Hoa Kỳ
trong thế kỷ 20. Sự phát triển và thành công của TMT tại Hoa Kỳ đã là chất xúc tác cho
việc phát triển mô hình này tại các nước khác ở châu Âu, châu Mỹ, châu Phi và châu Đại
Dương. Bài viết mô tả tổng quan về mô hình TMT, sự phát triển và hiệu quả của mô hình
tại Hoa Kỳ; trên cơ sở đó, đưa ra những liên hệ và khuyến nghị cho việc áp dụng mô hình
TMT, như là một giải pháp cho vấn đề tội phạm liên quan đến ma túy, cũng như tỷ lệ tái
nghiện cao trong những người nghiện ma túy tại Việt Nam.
Hình thành và phát triển
Sự ra đời của các Tòa Điều trị nghiện
ma túy là kết quả của những nỗ lực nhằm
đối phó với sự gia tăng nhanh chóng của
việc lạm dụng ma túy, tội phạm và tỷ lệ tái
phạm cao tại Hoa Kỳ trong những năm 80
của thế kỷ trước. Chỉ riêng năm 1985, đã có
647.411 người bị bắt vì các hành vi tội
phạm liên quan tới ma túy1. Cho tới năm
1991, đã có hơn một triệu người bị phạt tù
vì các hành vi vi phạm pháp luật liên quan
tới ma túy. Khoảng 59% tù nhân trong các
nhà tù liên bang trong năm 1998 là tội phạm
ma túy, tăng từ 16% trong năm 19702. Cùng
với sự gia tăng nhanh chóng của lạm dụng
ma túy và tội phạm giữa những năm 1980,
hệ thống tư pháp của Hoa Kỳ cũng trở nên
quá tải bởi các vụ án về sử dụng ma túy và
các tội phạm có liên quan tới ma túy. Cũng
trong thời gian này, một điều đã được thừa
nhận rộng rãi là việc chỉ áp dụng các biện
pháp tư pháp hình sự gồm phạt giam, phạt
tù hay quản thúc sẽ không phá vỡ được cái
vòng luẩn quẩn: sử dụng ma túy và tội
phạm3,4. Đồng thời, điều trị nghiện ma túy
đã được chứng minh là có hiệu quả trong cả
việc giảm lệ thuộc ma túy và tội phạm liên
quan tới ma túy nếu người nghiện duy trì
điều trị trong một thời gian đủ dài5.
TMT đầu tiên được thành lập năm 1989
ở Miami, Florida là một sáng kiến kết hợp
giữa điều trị nghiện ma túy với các can thiệp
tư pháp nhằm giải quyết tình trạng nghiện
ma túy, một trong những nguyên nhân gây
tái phạm hình sự cao. TMT đầu tiên hướng
tới việc giám sát hiệu quả những người bị
buộc tội sở hữu ma túy đang chờ để xét xử.
Cùng với việc phục hồi từ nghiện ma túy,
người tham gia chương trình TMT còn có
được những lợi ích về kinh tế - xã hội rõ
ràng như: giáo dục, việc làm, cải thiện mối
quan hệ gia đình, cũng như tăng sự tự trọng
về giá trị của bản thân6.
Qua hơn hai thập kỷ phát triển, TMT đã
được đánh giá là “sáng kiến tư pháp có ý
nghĩa nhất” tại Hoa Kỳ trong thế kỷ 207.
Theo số liệu từ Viện Tư pháp Quốc gia Hoa
Kỳ, tính đến tháng 6/2014 đã có hơn 3.400
TMT trên khắp Hoa Kỳ8. Tính từ 1989 tới
nay đã có hơn 1,3 triệu người nghiện vi
phạm pháp luật về hình sự được điều trị theo
mô hình TMT. Hiện trung bình mỗi năm có
142.000 người nghiện tham gia chương
trình TMT trên toàn Hoa Kỳ9. Chỉ trong một
thời gian ngắn, mô hình TMT đã được phát
triển trên toàn nước Mỹ với những điều
chỉnh cho phù hợp với điều kiện, nhu cầu và
thế mạnh của mỗi địa phương. Sự phát triển
và thành công của các TMT tại Hoa Kỳ đã
là chất xúc tác cho sự phát triển của các
TMT tại châu Âu, Bắc Mỹ, Nam Mỹ, vùng
Ca-ri-bê, châu Phi và châu Đại Dương10.
Hiện nay TMT đã được vận hành tại 24
quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, gồm:
Argentina, Australia, Bahamas, Barbados,
Bỉ, Bermuda, Brazil, Canada, Cayman Islands,
Chile, Costa Rica, Cộng hoà Dominica, Anh,
Ireland, Jamaica, Mexico, New Zealand,
Na-uy, Panama, Puerto Rico, Scotland,
Trinidad-Tobaco, Hoa Kỳ và Wales11
Khái niệm, mục tiêu và các yếu tố cơ
bản
TMT, theo định nghĩa của Hiệp hội
quốc gia các chuyên gia về TMT của Hoa
Kỳ, là: “một tòa đặc biệt có trách nhiệm giải
quyết các trường hợp tội phạm có liên quan
tới lạm dụng chất gây nghiện, thông qua các
biện pháp tổng hợp bao gồm: giám sát, xét
nghiệm tìm chất ma túy, điều trị nghiện,
cùng các biện pháp kỷ luật và động viên
khuyến khích kịp thời”12.
Tại Hoa Kỳ, nơi pháp luật có thể khác
nhau giữa các tiểu bang, thậm chí giữa các
thành phố của cùng một tiểu bang, các chính
sách và thủ tục đối với các TMT cũng không
thống nhất. Mặc dù vậy, tất cả các TMT tại
Hoa Kỳ đều hướng tới một mục tiêu chung
là nhằm giải quyết tình trạng lạm dụng rượu
và các chất gây nghiện khác cũng như các
hoạt động tội phạm có liên quan. Mục tiêu
tổng thể này được thể hiện thành các mục
tiêu cụ thể hơn, bao gồm: i) Giảm nghiện
rượu và lệ thuộc các chất gây nghiện khác;
ii) Giảm tái nghiện và tái phạm các hành vi
vi phạm pháp luật khác; iii) Giảm tải cho các
phiên tòa hình sự có phạm nhân liên quan
tới ma túy; iv) Tăng tính trách nhiệm của
người vi phạm đối với bản thân họ, với gia
đình và xã hội; (v) Tăng cường trao đổi và
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của hệ
thống tư pháp hình sự, các cơ quan nhà nước
và cộng đồng13.
6 Cooper, C. S. (2003), Drug courts: Current issues and future perspectives. Substance Use and Misuse, Vol. 38, No.11-13, pp. 1671 - 1711.
7 U.S. National Drug Courts Institute (2005), Drug Courts: A national phenomenon. Truy cập 6/10/2015 tại
8 National Institute of Justice, U.S. Department of Justice (2015), Drug Courts. Truy cập 6/10/2015 tại
9 U.S. National Association of Drug Court Professionals (2014), 25th Anniversary of Drug Courts. Truy cập 6/1/2016 tại
10 United Nations Office of Drug and Crime (2004), Drug Treatment Courts Work. UNODC Update Newsletter, June 2004. Truy cập
từ ngày 14/5/2015.
11 Global Center for Drug Treatment Courts - GCDTC (2016), Drug Treatment Courts in Operation Worldwide. Truy cập ngày 6/1/2016
tại
12 U.S. National Association of Drug Court Professionals (2005), Facts on Drug Courts. Truy cập ngày 20/5/2015 tại
13 Supreme Court of Virginia (2015), Virginia Drug Treatment Courts: Annual Report. Truy cập tại
dls/h&sdocs.nsf/ By+Year/RD632015/$file/RD63.pdf ngày 15/10/2015
59
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 09(313) T5/2016
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
14 Makkai, T. (1998), Drug Court: Issues and Prospects. Trends and Issues in Crime and Criminal Justice, No. 95. Australian Institute
of Criminology, Canbera.
15 U.S. Violent Crime Control and Law Enforcement Act of 1994.
16 Cooper, C. S. (1997), 1997 Drug Court Survey Report: Executive Summary. Washington, D.C: American University, OJP Drug Court
Clearinghouse and Technical Assistance Project. Truy cập 23/8/2015 tại
17 Bureau of Justice Assistance, U.S. Department of Justice, (1997), Defining Drug Court: the key components. Truy cập 6/1/2016
tại
60
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 09(313) T5/2016
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
Trong thời kỳ đầu, các TMT hướng tới
những người vi phạm pháp luật về ma túy
lần đầu và không bạo lực hoặc những người
có hành vi “lái xe khi đang bị ảnh hưởng
của chất gây nghiện” (DWI - Driving While
Intoxicated). Tiêu chí “lần đầu” được đưa ra
dựa trên lý thuyết dán nhãn với quan điểm
cho rằng một khi một người đã bị coi là “tội
phạm” thì khả năng để họ hòa nhập hoàn
toàn với xã hội sẽ bị mất đi rất nhiều14. Vì
vậy, việc sử dụng các giải pháp khác thay
cho việc đưa một người có vi phạm pháp
luật về ma tuý lần đầu ra Toà hình sự sẽ giúp
tăng cường khả năng hoà nhập xã hội của họ
sau này. Tiêu chí “không bạo lực” được áp
dụng là để các TMT được nhận hỗ trợ từ
ngân sách liên bang theo quy định tại Luật
Kiểm soát Tội phạm bạo lực năm 199415.
Sau này, khi TMT đã chứng minh được
hiệu quả của nó đối với cả vấn đề sử dụng
ma túy và vấn đề tội phạm trong những
người vi phạm pháp luật hình sự và có sử
dụng ma túy, các TMT đã được mở rộng tới
cả những đối tượng sử dụng ma túy nhưng
bị bắt vì các tội không liên quan tới ma tuý.
Theo một nghiên cứu được thực hiện năm
1997, trong 93 chương trình toà cai nghiện
ma tuý, tất cả các chương trình này đều
hướng tới đối tượng tàng trữ ma tuý; ngoài
ra, 52% hướng tới tội phạm gian lận liên
quan tới tân dược gây nghiện, 35% hướng
tới tội phạm buôn bán ma túy, 24% tội phạm
trộm cắp tài sản, 5% tội gian lận thẻ tín
dụng/ngân hàng và 4% phạm tội mại dâm16.
Người sử dụng ma túy mà có các hành
vi vi phạm pháp luật hình sự, nếu tự nguyện
tham gia TMT sẽ không bị xử tù về hành vi
vi phạm pháp luật hình sự cũng như không
bị ghi án tích. Nếu không tự nguyện tham
gia TMT thì sẽ bị xử theo các Tòa hình sự
thông thường về hành vi vi phạm pháp luật
của mình.
Bởi sự đa dạng trong việc vận hành các
TMT giữa các thành phố, các tiểu bang, Bộ
Tư pháp Hoa Kỳ đã đưa ra Mười yếu tố cơ
bản của TMT. Các yếu tố này được xem như
là những tiêu chuẩn chung cho một TMT
hiệu quả tại Hoa Kỳ17, bao gồm:
i) TMT lồng ghép các dịch vụ điều trị
nghiện rượu và nghiện ma túy với việc xét
xử của hệ thống tư pháp;
ii) Sử dụng cách tiếp cận, truy tố và bào
chữa không đối kháng nhằm tăng cường an
toàn xã hội trong khi bảo vệ quyền tố tụng
của người tham gia;
iii) Người đủ điều kiện tham gia được
xác định sớm và nhanh chóng đưa vào
chương trình;
iv) Toà ma túy giúp cho người nghiện
rượu và người nghiện ma túy được tiếp cận
một chuỗi liên hoàn các dịch vụ điều trị,
phục hồi và các dịch vụ hỗ trợ;
v) Việc ngừng sử dụng rượu và ma túy
được giám sát chặt chẽ bằng các biện pháp
kiểm tra, xét nghiệm;
vi) Có một chiến lược lồng ghép để
kiếm soát việc đáp ứng của các Toà ma túy
đối với sự tuân thủ của người tham gia;
vii) Sự tương tác liên tục của Tòa đối
với người tham gia chương trình rất quan
trọng;
viii) Thực hiện giám sát và đánh giá
nhằm xác định mức độ đạt được mục tiêu và
đo lường hiệu quả của chương trình;
ix) Giáo dục liên ngành thường xuyên
giúp tăng cường lập kế hoạch, thực hiện và
vận hành TMT;
x) Mối quan hệ chặt chẽ giữa các TMT
với các cơ quan chính quyền và các tổ chức
cộng đồng giúp đẩy mạnh sự hỗ trợ của địa
phương và tăng hiệu quả của Tòa.
Kết cấu, vận hành và đầu tư tài chính
Về thời gian, thông thường một chương
trình điều trị theo TMT sẽ kéo dài từ 12 đến
18 Thurston County Superior Court (2015), Drug Court Program. Thurston, WA. Truy cập ngày 15/10/2015 tại:
19 Drug Court Clearinghouse and Technical Assistance Project, American University (1997), Summary Assessment of the Drug Court
Experience. Truy cập ngày 6/1/2016 tại
20 Steen, S. (2002), West Coast drug courts: Getting Offenders morally involved in the criminal justice process. Trong Nolan, J. (CB).
Drug courts in theory and in practice. New York: Aldine de Gruyter, pp. 51 - 66.
61
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 09(313) T5/2016
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
18 tháng và chia làm 3 hoặc 4 giai đoạn. Ví
dụ như chương trình TMT của hạt Thurston,
bang Washington gồm 3 giai đoạn như sau18:
+ Giai đoạn 1 - Định hướng/Tiếp nhận
(3 - 4 tháng): Người tham gia chương trình
được tiếp nhận, đánh giá tình trạng nghiện
ma túy, lập kế hoạch điều trị, giáo dục về ma
túy và đồ uống có cồn, giáo dục đạo đức và
tư vấn cá nhân, tư vấn nhóm.
+ Giai đoạn 2 - Tư vấn tăng cường (5 -
8 tháng), bên cạnh các dịch vụ như trong
giai đoạn 1, người tham gia chương trình sẽ
được dạy nghề, tạo việc làm và giới thiệu,
chuyển gửi tới các dịch vụ hỗ trợ khác.
+ Giai đoạn 3 - Chuyển gửi/Giám sát (4
- 6 tháng): người tham gia chương trình sẽ
được tư vấn dự phòng tái nghiện, kết nối,
chuyển gửi tới các dịch vụ hỗ trợ xã hội
trong cộng đồng và xây dựng kế hoạch phục
hồi của cá nhân.
Tại tất cả các giai đoạn, người tham gia
chương trình phải được xét nghiệm ngẫu
nhiên để tìm chất gây nghiện và thực hiện
các buổi báo cáo tiến bộ trước cán bộ Tòa
án ít nhất là 1 lần/tuần. Người nghiện sẽ
được ra khỏi chương trình khi hoàn thành tất
cả các yêu cầu với mỗi giai đoạn và có ít
nhất là 6 tháng liên tục sạch chất gây nghiện,
4 tháng liên tục có việc làm toàn thời gian
(hoặc bán thời gian hoặc đi học). Một số
chương trình có thêm giai đoạn chăm sóc và
giám sát sau khi người nghiện hoàn thành
chương trình.
Việc xét nghiệm tìm chất ma túy thường
xuyên và ngẫu nhiên là yếu tố then chốt của
các chương trình Tòa điều trị nghiện ma túy.
Kết quả xét nghiệm là tiêu chí quan trọng để
quyết định chuyển một người tới giai đoạn
sau hay đưa về giai đoạn trước. Các hình
thức kỷ luật, phạt cũng được áp dụng với
những người có kết quả xét nghiệm dương
tính với chất gây nghiện. Việc phạt có thể
dưới hình thức tăng số lần xét nghiệm, số
lần giải trình/báo cáo trước Tòa, hay gửi tới
các chương trình giải độc cắt cơn, hoặc thậm
chí bị phạt giam. Việc khen thưởng, khuyến
khích cũng được áp dụng với những người
có thành tích, tiến bộ trong điều trị, dưới
những hình thức như: biểu dương, giảm thời
hạn, giảm số lần phải xét nghiệm tìm chất
gây nghiện hay bằng một số món quà nhỏ
như áp phông/áo thun, vé xem các sự kiện
thể thao, văn hóa, băng, đĩa, sách... Việc áp
dụng các hình thức thưởng, phạt nhằm tăng
cường sự tuân thủ chương trình của người
nghiện. Những người hoàn thành chương
trình sẽ được xóa án tích, giảm án, giảm tiền
phạt hoặc giảm phí điều trị...
Các buổi báo cáo tiến bộ là yếu tố quan
trọng của các chương trình Tòa điều trị
nghiện ma túy. Thông thường các buổi báo
cáo tiến bộ sẽ được thực hiện hàng tuần
trong giai đoạn đầu. Trong các giai đoạn sau
thì thưa hơn, có thể hai tuần một lần và sau
đó là một tháng một lần. Người tham gia
chương trình TMT cũng được yêu cầu gặp
các nhân viên điều trị hàng tuần, trong suốt
thời gian tham gia chương trình19.
Về vận hành, các chương trình TMT
được thực hiện theo cơ chế liên ngành với
sự tham gia của các thẩm phán, công tố viên,
cảnh sát khu vực phụ trách quản lý người bị
cải tạo không giam giữ, các nhân viên điều
trị nghiện, giáo dục, dạy nghề và các nhà
lãnh đạo cộng đồng... Một yếu tố cơ bản để
phân biệt TMT và các tòa hình sự khác là
trong TMT hành vi vi phạm pháp luật không
được xem như hành vi lệch chuẩn về đạo
đức mà là hệ luỵ của việc nghiện và thường
là ngoài tầm kiểm soát của người nghiện20.
Về tài chính, nguồn ngân sách cho các
TMT ở Hoa Kỳ bao gồm: ngân sách của liên
bang và tiểu bang, hỗ trợ, đóng góp của các
nhà hảo tâm và từ lệ phí tham gia chương
trình do người nghiện nộp. Theo quy định
của luật pháp Hoa Kỳ, ngân sách liên bang
21 Violent Crime Control and Law Enforcement Act of 1994, Title V, sec. 2205.
22 National Institute of Justice, U.S. Department of Justice (2003), Recidivism Rates For Drug Court Graduates: National Based
Estimates. Washington D. C.
23 Drug Courts Program Office, 1998 (sđd).
24 National Institute of Justice, 2003 (sđd).
25 U.S. National Association of Drug Court Professionals (2016), Drug Courts Work. Truy cập 6/1/2016 tại
26 Stark, M. J. (1992). Dropping out of substance abuse drug treatment: A clinically oriented review. Clinical Psychological Review,
no. 12, p. 93.
27 Huddleston, C. W., Freeman-Wilson, K., & Boone, D. L. (2004), Painting the current picture: A national report card on drug courts
and other problem solving court programs in the United States. Vol. 1, No. 1. Alexandria, VA: National Drug Court Institute.
28 Satel, S. L. (1999), Drug treatment: the case for coercion. Washington, DC: American Enterprise Institute Press.
62
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 09(313) T5/2016
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
không được vượt quá 75% tổng ngân sách
hoạt động của Tòa điều trị nghiện ma túy21.
Khoản phí mà các cá nhân tham gia chương
trình TMT phải đóng góp khác nhau theo
quy định của từng tiểu bang. Ví dụ, ở Idaho,
mỗi cá nhân tham gia TMT phải đóng khoản
phí tối đa không quá 300$/tháng trong khi ở
Texas là không quá 1000$ còn ở Indiana,
Montana và Missouri là không quá 500$.
Hiệu quả
Hiệu quả của các TMT ở Hoa Kỳ đã
được kiểm chứng qua rất nhiều nghiên cứu
và các số liệu thực tế, thể hiện ở việc giảm
sử dụng ma túy trong những người nghiện
tham gia chương trình và hoàn thành
chương trình, giảm tái phạm hình sự, tăng
tuân thủ điều trị, giảm chi phí, tiết kiệm chi
phí cho hệ thống tư pháp và cải thiện địa vị
kinh tế xã hội của người nghiện tham gia
chương trình.
Giảm sử dụng ma túy: Theo số liệu
nghiên cứu của Viện Tư pháp quốc gia Hoa
Kỳ, tỷ lệ thử nước tiểu cho kết quả dương
tính trong những người tham gia TMT là
29%, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ 46% trong
những người nghiện ma túy tham gia các
chương trình quản thúc khác tại cộng
đồng22. Chế độ điều trị nghiêm ngặt cùng
với việc thường xuyên thử nước tiểu định kỳ
và bất chợt đối với tất cả những người tham
gia chương trình, không chỉ những người
nghi có tái sử dụng, cùng với chế độ xử phạt
nghiêm khắc tương ứng với kết quả xét
nghiệm dương tính là yếu tố quan trọng làm
giảm tỷ lệ tái sử dụng ma túy trong những
người nghiện tham gia chương trình.
Giảm tỷ lệ tái phạm hình sự: Tỷ lệ tái
phạm hình sự thấp trong những người đã
hoàn thành chương trình điều trị của TMT
là một minh chứng nữa cho hiệu quả của
Tòa. Theo Bộ Tư pháp Hoa Kỳ, có ít nhất
45% những người nghiện bị bắt vì tội tàng
trữ ma túy tái phạm sau hai hoặc ba năm kể
từ khi chấp hành xong các hình phạt khác.
Tuy nhiên, với những người đã hoàn thành
chương trình TMT, tỷ lệ tái phạm hình sự là
từ 5% tới 28%, tùy thuộc vào các điều kiện
và mức độ hỗ trợ xã hội có được như: tình
trạng việc làm, quan hệ gia đình, điều kiện
sức khỏe23. Một nghiên cứu trong 17.000
người hoàn thành chương trình TMT trên
toàn Hoa Kỳ cho thấy tỷ lệ tái phạm sau hai
năm là từ chỉ từ 16,5% tới 27,5%. Tỷ lệ tái
phạm trung bình sau một năm là dưới 10%24.
Trung bình 75% người hoàn thành chương
trình TMT không tái phạm sau 2 năm. Các
phân tích tổng hợp cho thấy các chương
trình TMT làm giảm tội phạm tới 45% so
với các chương trình tư pháp khác25.
Tăng tuân thủ điều trị: Theo Hiệp hội
Các chuyên gia về TMT Hoa Kỳ, chỉ có
khoảng 30% bệnh nhân của các chương
trình điều trị nghiện ma túy thông thường
theo hết được chương trình điều trị, khoảng
70% bỏ dở chương trình. Trong khi đó, tỷ
lệ tuân thủ điều trị ở những người nghiện
tham gia vào các TMT trên toàn Hoa Kỳ là
từ 65% tới 85%. Tỷ lệ này cao hơn một cách
đáng kể so với các chương trình điều trị
nghiện ma túy khác, nơi có tới từ 40% tới
80% khách hàng bỏ điều trị trước 90
ngày26,27 và có tới 80% tới 90% bỏ dở điều
trị trước 12 tháng28. Tỷ lệ người nghiện tham
gia TMT ở lại với chương trình điều trị đủ
dài cho việc phục hồi của họ cao hơn 6 lần
so tỷ lệ ở những người nghiện tham gia các
chương trình khác (NADCP, 2016). Việc
giám sát thường xuyên cùng với các chế độ
kỷ luật, khen thưởng kịp thời, thích hợp đã
giúp người nghiện ở lại hết chương trình.
Tiết kiệm chi phí: Thông qua việc cung
cấp các dịch vụ điều trị và giám sát ngoại trú
đối với người nghiện ma túy vi phạm hình
sự thay cho xử phạt giam, các TMT đã giảm
chi phí đáng kể cho hệ thống tư pháp hình
sự. Chi phí trung bình cho việc phạt giam
một tội phạm ma túy ở Hoa Kỳ là từ 20.000
tới 50.000 đô la mỗi năm. Trong khi đó, chi
phí cho một người tham gia TMT chỉ từ
2.500 tới 4.000 đô la mỗi năm tùy thuộc và
mức độ dịch vụ được cung cấp và tùy theo
từng tiểu bang. Tính trung bình, cứ 1 đô la
đầu tư vào TMT, người đóng thuế trên toàn
Hoa Kỳ sẽ tiết kiệm được 3,36 đô la cho các
chi phí tư pháp hình sự. Nếu gộp chung với
các khoản tiết kiệm khác như tiết kiệm từ
chi phí chăm sóc y tế, tiết kiệm từ giảm tội
phạm... thì lợi ích có được là 27 đô la tiết
kiệm cho mỗi đô la đầu tư vào TMT. Tính
theo mỗi đối tượng, TMT tiết kiệm được từ
3.000 đô la tới 13.000 so với việc xử phạt
tù. Năm 2007, cứ 1 đô la từ ngân sách Liên
bang Hoa Kỳ chi cho TMT giúp tiết kiệm
được 9 đô la từ ngân sách liên bang cho các
hoạt động liên quan29.
Tiết kiệm các nguồn lực khác cho hệ
thống tư pháp: TMT đã giúp cho hệ thống tư
pháp hình sự Hoa Kỳ đầu tư và phân bổ các
nguồn lực hiệu quả hơn. Nhân viên các toà
hình sự trước đây phải dành nhiều thời gian
cho các vụ tội phạm hình sự ít nghiêm trọng
nhưng có liên quan tới sử dụng ma túy giờ
đã có thể dành thời gian tập trung cho các vụ
án hình sự nghiêm trọng hơn. Hệ thống các
trại giam cũng được giảm tải để dành cho các
tội phạm hình sự nghiêm trọng30.
Cải thiện địa vị kinh tế - xã hội của
người tham gia TMT: Song song với việc
phục hồi từ căn bệnh nghiện ma túy, người
tham gia TMT còn thu được nhiều lợi ích về
mặt kinh tế - xã hội khác. Hầu hết các TMT
yêu cầu người nghiện phải tìm được việc
làm hoặc tốt nghiệp chương trình học phổ
thông mới được cấp giấy chứng nhận hoàn
thành chương trình. Vì vậy, nhiều người
nghiện khi bắt đầu tham gia chương trình
không có việc làm nhưng với sự hỗ trợ của
chương trình và nỗ lực của bản thân sau đó
đã tìm được việc làm; những người đang có
việc làm thì giữ được việc làm. Tính trung
bình có 73% số người tham gia các TMT
trên toàn Hoa Kỳ đã giữ hoặc tìm được việc
làm. Những lợi ích về mặt xã hội khác mà
những người nghiện tham gia TMT có được
là được học văn hóa (hầu hết các TMT yêu
cầu người hoàn thành chương trình phải đạt
được bằng GED - General Education Deve-
lopment, tương đương bằng tốt nghiệp trung
học cơ sở ở Việt Nam), trẻ sơ sinh không bị
ảnh hưởng từ việc nghiện ma túy của người
mẹ và sự tái hợp của các gia đình người
nghiện. Tỷ lệ tái hợp của các cặp gia đình
người nghiện trước đó bị tan vỡ trong những
người tham gia TMT cao hơn 50% so với
những người tham gia các chương trình tư
pháp hình sự khác31.
các khuyến nghị cho việc áp dụng mô
hình TMT tại Việt nam
Theo số liệu tổng điều tra, ra soát người
nghiện ma tuý của Bộ Công an, cuối tháng
9/2014 cả nước có khoảng 204.400 người
nghiện ma túy có hồ sơ quản lý, gấp 3,7 lần
so với năm 1994 (55.445 người). Trong giai
đoạn 1994 - 2013, trung bình mỗi năm số
người nghiện có hồ sơ quản lý tăng 6,5%
tương đương với 6.660 người. Khoảng 90%
số quận huyện và 60% số xã phường của cả
nước có người nghiện có hồ sơ quản lý.
Cũng như ở Hoa Kỳ và nhiều quốc gia khác,
tệ nạn nghiện ma túy ở Việt Nam cũng có
liên quan chặt chẽ tới các tội phạm hình sự:
khoảng 13,1% người nghiện có hồ sơ quản
lý năm 2013 đang được quản lý trong các
trại giam, trại tạm giam; số đang cai nghiện
trong các Trung tâm là 22,4%32.
Công tác cai nghiện và tái hòa nhập
cộng đồng cho người nghiện ma túy vẫn còn
nhiều khó khăn, bất cập. Khoảng 50% số
người nghiện ma túy có các vấn đề về sức
khỏe tâm thần và thể chất, 38% đã có tiền
án, tiền sự. Mô hình cai nghiện tại trung tâm
tốn nhiều kinh phí, hiệu quả hạn chế, tỷ lệ
tái nghiện cao, từ 70 - 95%, bên cạnh đó còn
chịu nhiều sự chỉ trích của các tổ chức quốc
29 U.S. National Association of Drug Court Professionals, 2016 (sđd).
30 Cooper, C. S., 1997 (sđd).
31 U.S. National Association of Drug Court Professionals, 2016 (sđd).
32 Bộ Công An (2015), Báo cáo công tác phòng, chống ma túy năm 2014, phương hướng nhiệm vụ năm 2015.
63
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 09(313) T5/2016
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
tế về nhân quyền cũng như về cơ sở khoa
học điều trị nghiện trong trung tâm.
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã
có những chỉ đạo nhằm nâng cao hiệu quả
công tác phòng, chống ma túy như: Chỉ thị
số 21-CT/TW của Bộ Chính trị về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác
phòng, chống ma túy; Quyết định số
2596/QĐ-TTg ngày 27/12/2013 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đổi mới
công tác cai nghiện ở Việt Nam đến năm
2020; Nghị quyết số 98/NQ-CP ngày
26/12/2014 của Chính phủ về Tăng cường
công tác phòng, chống, kiểm soát và cai
nghiện ma tuý trong tình hình mới.
Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 đã
đánh dấu thêm một bước tiến quan trọng
trong lộ trình đổi mới quan điểm, đường lối
đối với công tác cai nghiện phục hồi bằng
việc quy định thẩm quyền ra quyết định áp
dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc thuộc Tòa án nhân
dân cấp huyện (trước đây thuộc thẩm quyền
của Chủ tịch UBND cấp huyện). Những đổi
mới của Luật Xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực cai nghiện ma túy bắt buộc
đã làm tăng thêm tính minh bạch của các thủ
tục tố tụng liên quan tới việc đưa người đi
cai nghiện bắt buộc cũng như tăng quyền
được bào chữa và tự bào chữa của người bị
áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa đi
cai nghiện bắt buộc.
Bên cạnh việc tăng cường hệ thống văn
bản pháp luật trong nước, huy động nội lực,
Nhà nước ta cũng đã chủ động mở rộng
quan hệ với các nước và các tổ chức quốc tế
để huy động sự hỗ trợ về tài chính và kỹ
thuật cho công tác phòng, chống ma tuý nói
chung và điều trị nghiện ma tuý nói riêng.
Trong chuyến đi nghiên cứu, khảo sát công
tác phòng, chống ma túy tại Hoa Kỳ tháng
8/2013, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc,
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Ủy ban Quốc
gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ
nạn ma túy, mại dâm và các thành viên trong
đoàn gồm lãnh đạo Văn phòng Trung ương
Đảng, Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc
hội, Tòa án nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân Tối cao và Bộ Công an đã thăm
mô hình TMT ở một số thành phố. Phó Thủ
tướng đã đánh giá cao tính khoa học, hiệu
quả thực tiễn và tính nhân văn của TMT và
chỉ đạo các cơ quan chức năng nghiên cứu
thí điểm mô hình này cho phù hợp với thực
tiễn Việt Nam.
Việc áp dụng mô hình TMT ở Việt Nam
hoàn toàn có tính khả thi và cũng là nhu cầu
cần thiết. Trước hết là để phù hợp với yêu
cầu đổi mới về thủ tục tư pháp đưa người đi
điều trị nghiện bắt buộc mà các tổ chức quốc
tế và các tổ chức Liên hợp quốc đang
khuyến cáo Việt Nam thực hiện. Mặt khác,
việc triển khai TMT sẽ tạo điều kiện cho
người sử dụng ma túy, bao gồm cả những
người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự
vì các tội danh khác có cơ hội được lựa chọn
việc điều trị nghiện tại cộng đồng. Chương
trình TMT, vì vậy, sẽ giúp làm giảm gánh
nặng cho hệ thống tư pháp hình sự, các toà
án, các trại giam, trại tạm giam hiện nay.
Chương trình cũng giúp huy động, vận động
sự tham gia của các cấp, các ngành, các
nguồn lực xã hội vào công tác điều trị
nghiện ma túy.
Trước mắt, chúng ta có thể triển khai thí
điểm chương trình TMT tại một số địa
phương với các giải pháp cụ thể như sau:
- Tạo hành lang pháp lý cho việc thí điểm
mô hình Tòa điều trị nghiện ma túy. Cần phân
biệt TMT theo mô hình của Hoa Kỳ với Toà
xét đưa người đi cai nghiện bắt buộc theo
Luật Xử lý vi phạm hành chính. Bản chất hai
mô hình là hoàn toàn khác biệt. TMT áp dụng
với người nghiện ma tuý có hành vi phạm
pháp luật hình sự không nghiêm trọng như
tàng trữ, buôn bán lẻ ma tuý, trộm cắp...
những tội hình sự này được xác định là có
liên quan hoặc hậu quả của nghiện ma tuý.
Người nghiện đăng ký tham gia các chương
trình điều trị theo TMT sẽ không bị truy tố về
hình sự, không bị ghi án hình sự... Toà cai
nghiện ma tuý có thể áp dụng cả với những
người thuộc diện bị đi cai nghiện bắt buộc
theo Luật Xử lý vi phạm hành chính nhưng
tình nguyện tham gia điều trị nghiện tại cộng
đồng theo chương trình TMT.
- Xây dựng mô hình Toà điều trị nghiện
ma tuý tại Việt Nam. Bên cạnh việc tính toán
đầu tư nhân sự và kinh phí cho triển khai mô
hình, cần xây dựng cơ chế phối hợp giữa các
đơn vị, nhân sự tham gia chương trình.
Ngoài ra, một thành phần không thể thiếu
của chương trình TMT chính là các chương
trình điều trị nghiện tại cộng đồng. Cần đa
dạng hoá loại hình điều trị nghiện tại cộng
64
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 09(313) T5/2016
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
(Xem tiÕp trang 57)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- toa_ma_tuy_tai_hoa_ky_va_nhung_khuyen_nghi_ap_dung_tai_viet.pdf