Thứ hai, bổ sung tình tiết tăng nặng định
khung “thu lợi bất chính lớn, rất lớn hoặc đặc
biệt lớn” vào tội chứa mại dâm, môi giới mại
dâm. Từ trước đến nay, khi xét xử những vụ
chứa mại dâm, môi giới mại dâm có dấu hiệu
“thu lợi bất chính lớn, rất lớn, đặc biệt lớn” các
Tòa án thường rất lúng túng vì không biết phải
áp dụng tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng,
rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng” hay
không áp dụng tình tiết tăng nặng nào (vì tình
tiết “thu lợi bất chính lớn, rất lớn, đặc biệt lớn”
không phải là tình tiết “gây hậu quả nghiêm
trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng”). Để không bỏ lọt các trường hợp phạm
tội nguy hiểm này, cần bổ sung tình tiết tăng
nặng định khung “thu lợi bất chính lớn, rất lớn
hoặc đặc biệt lớn” vào tội chứa mại dâm, môi
giới mại dâm theo như hướng dẫn tại tiểu mục
7. 3 mục 7 phần I Nghị quyết số 02/2003/NQHĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm
phán TANDTC: “a. Thu lợi bất chính từ năm
triệu đồng đến dưới mười lăm triệu đồng là
lớn; b. Thu lợi bất chính từ mười lăm triệu
đồng đến dưới bốn mươi lăm triệu đồng là rất
lớn; c. Thu lợi bất chính từ bốn mươi lăm triệu
đồng trở lên là đặc biệt lớn”
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 265 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tội chứa mại dâm, tội môi giới mại dâm: Lý luận và thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 22(183) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 4511
2010
THỰC TIễN PHÁP LUẬT
1. Lý luận về tội chứa mại dâm, tội môi giới
mại dâm
1.1. Khái niệm tội chứa mại dâm, môi giới
mại dâm
Từ trước tới nay, việc trừng trị tội chứa mại
dâm, môi giới mại dâm đã được Nhà nước ta
chú trọng, nhưng cho đến nay vẫn chưa có một
văn bản nào đưa ra khái niệm chính xác, thống
nhất về tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm.
Để xác định chính sách hình sự và yêu cầu của
công cuộc đấu tranh phòng, chống các tội phạm
này, việc tìm ra khái niệm tội chứa mại dâm,
môi giới mại dâm là rất cần thiết.
Tội phạm, theo quy định tại khoản 1 Điều 8
BLHS “là hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong BLHS, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm
chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá,
quốc phòng, an ninh xã hội, quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các
quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân,
xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa”. Căn cứ vào quy định
trên ta thấy, khái niệm tội phạm nói chung bao
gồm các dấu hiệu sau: 1) Hành vi nguy hiểm
cho xã hội; 2) Được quy định trong BLHS; 3)
Do người có đủ điều kiện chủ thể thực hiện; 4)
Có lỗi cố ý hoặc vô ý; 5) Xâm phạm độc lập,
chủ quyền, thống nhất, và toàn vẹn lãnh thổ Tổ
quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh
tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh xã hội,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự
do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác
của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác
Trong những năm qua, các quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS) Việt Nam về tội chứa mại dâm, môi giới
mại dâm đã góp phần quan trọng vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm này. Tuy nhiên, xuất phát
từ thực tiễn hiện nay, các quy định đó còn chưa thật cụ thể và đầy đủ. Nhận thức về tội phạm này có nơi, có lúc
còn chưa nhất quán. Trong một số trường hợp, các cơ quan bảo vệ pháp luật vẫn còn lúng túng, chưa có quan
điểm thống nhất hoặc mắc phải thiếu sót trong việc giải quyết các vụ án về tội chứa mại dâm, môi giới mại
dâm. Để thống nhất trong nhận thức và áp dụng đúng đắn các quy định của BLHS về tội chứa mại dâm, môi
giới mại dâm, trong bài viết này, chúng tôi tập trung nghiên cứu một cách khoa học, toàn diện, có hệ thống
các vấn đề lý luận và thực tiễn về tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm.
Đỗ ĐứC HỒNG HÀ *
TỘI CHứA MẠI DÂM, TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM:
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIễN
(*) TS, Ban Thư ký Bộ Tư pháp.
46 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 22(183) 112010
THỰC TIễN PHÁP LUẬT
của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 254 và
khoản 1 Điều 255 BLHS thì: 1) Tội chứa mại
dâm là hành vi chứa mại dâm; 2) Tội môi giới
mại dâm là hành vi dụ dỗ hoặc dẫn dắt người
mại dâm. Theo quy định tại Điều 3 Pháp lệnh
Phòng, chống mại dâm ngày 14/3/2003 (Pháp
lệnh PCMD) thì: “1) Tội chứa mại dâm là hành
vi sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho
mượn địa điểm, phương tiện để thực hiện việc
mua dâm, bán dâm. 2) Tội môi giới mại dâm
là hành vi dụ dỗ hoặc dẫn dắt của người làm
trung gian để các bên thực hiện việc mua dâm,
bán dâm”.
Dưới góc độ khoa học luật hình sự, hiện nay
ở Việt Nam còn có nhiều quan điểm khác nhau
về khái niệm tội chứa mại dâm, tội môi giới
mại dâm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, “1) Tội
chứa mại dâm là hành vi hành vi tạo điều kiện
vật chất hoặc tinh thần cho hoạt động mại dâm
được thực hiện; 2) Tội môi giới mại dâm là hành
vi làm trung gian bằng cách dụ dỗ hoặc dẫn dắt
cho hoạt động mại dâm giữa người mua dâm và
người bán dâm”1. Quan điểm thứ hai cho rằng,
“1) Tội chứa mại dâm là hành vi cho thuê chỗ,
cho mượn chỗ, bố trí chỗ, bố trí gái mại dâm,
tạo điều kiện cho người mua, bán dâm hoạt
động; 2) Tội môi giới mại dâm là hành vi dụ dỗ,
dẫn dắt, làm trung gian cho người mua dâm và
người bán dâm gặp nhau để mại dâm”2. Quan
điểm thứ ba cho rằng, “1) Tội chứa mại dâm
là hành vi cho thuê, cho mướn địa điểm hoặc
tạo các điều kiện vật chất khác cho hoạt động
mại dâm; bố trí người canh gác bảo vệ cho hoạt
động mại dâm; nhận gái mại dâm là người làm
thuê, là nhân viên để che mắt nhà chức trách và
cho hoạt động bán dâm; cho gái bán dâm hoạt
động ở nơi kinh doanh của mình để trục lợi; 2)
Tội môi giới mại dâm là hành vi dụ dỗ hoặc
dẫn dắt mại dâm”3. Tuy còn có nhiều quan điểm
khác nhau về khái niệm tội chứa mại dâm, môi
giới mại dâm, nhưng qua phân tích, chúng tôi
thấy các quan điểm trên có những điểm chung
đó là: 1) Về tội chứa mại dâm, đều là hành vi
tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho hoạt
động mại dâm; 2) Về tội môi giới mại dâm, đều
là hành vi dụ dỗ hoặc dẫn dắt mại dâm.
Trên cơ sở khái niệm tội phạm nói chung,
các quy định của BLHS, Pháp lệnh PCMD, các
quan điểm về khái niệm tội chứa mại dâm, môi
giới mại dâm, chúng tôi đưa ra khái niệm tội
chứa mại dâm, môi giới mại dâm như sau:
1) Tội chứa mại dâm là hành vi tạo điều kiện
vật chất hoặc tinh thần cho hoạt động mại dâm;
do người có năng lực trách nhiệm hình sự và từ
đủ 14 hoặc 16 tuổi trở lên cố ý thực hiện; xâm
phạm đến trật tự nơi công cộng.
2) Tội môi giới mại dâm là hành vi dụ dỗ
hoặc dẫn dắt của người làm trung gian để các
bên thực hiện việc mua dâm, bán dâm; do người
có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 14
hoặc 16 tuổi trở lên cố ý thực hiện; xâm phạm
đến trật tự nơi công cộng.
1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội chứa mại dâm,
môi giới mại dâm
1.2.1. Khách thể của tội chứa mại dâm, môi
giới mại dâm
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội
được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại.
Xuất phát từ khái niệm khách thể của tội phạm
nói chung, có thể xác định khách thể của tội chứa
mại dâm, môi giới mại dâm là trật tự công cộng.
Hành vi mại dâm tác động tiêu cực đến nếp sống
văn minh, huỷ hoại nhân cách con người, gây
thiệt hại về vật chất, tinh thần cho nhiều gia đình,
cá nhân, là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại
tội phạm và tệ nạn xã hội khác, làm lây truyền
nhiều bệnh xã hội nguy hiểm.
1.2.2. Mặt khách quan của tội chứa mại dâm,
môi giới mại dâm
Mặt khách quan của tội chứa mại dâm, môi
giới mại dâm là những biểu hiện của tội chứa
mại dâm, môi giới mại dâm ra thế giới khách
quan. Trong tổng thể đó, có thể xác định mặt
khách quan của tội chứa mại dâm, môi giới mại
dâm qua dấu hiệu quan trọng nhất - hành vi
(1) Võ Khánh Vinh chủ biên (2001), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 515-519.
(2) Lê Cảm chủ biên (2003), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 605-611.
(3) Lê Cảm chủ biên (2003), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 602-605.
Số 22(183) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 4711
2010
THỰC TIễN PHÁP LUẬT
khách quan của tội phạm.
Theo quy định tại Điều 3 Pháp lệnh PCMD
thì: “1) Hành vi chứa mại dâm là hành vi sử
dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho mượn
địa điểm, phương tiện để thực hiện việc mua
dâm, bán dâm. 2) Hành vi môi giới mại dâm
là hành vi dụ dỗ hoặc dẫn dắt của người làm
trung gian để các bên thực hiện việc mua dâm,
bán dâm”. Theo Công văn số 105/2003/KHXX
ngày 18/8/2003 của Tòa án nhân dân tối cao
(TANDTC) Về việc áp dụng Điều 254 BLHS
năm 1999 thì: “Cho thuê, cho mượn địa điểm,
phương tiện để hoạt động mại dâm” quy định
tại khoản 4 Điều 3 của Pháp lệnh PCMD là
hành vi của tổ chức, cá nhân có quyền quản lý,
chiếm hữu, sử dụng hoặc định đoạt tài sản mà
cho thuê, cho mượn để hoạt động mại dâm”.
Theo quy định tại mục 1 phần II Nghị quyết
số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của
Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp
dụng một số quy định của BLHS năm 1999
thì: “Trong trường hợp chủ hoặc người quản
lý khách sạn, nhà trọ... gọi gái mại dâm đến
cho khách để họ mua bán dâm ngay tại khách
sạn, nhà trọ... thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu
hoặc quản lý của người gọi gái mại dâm thì
người đó chỉ phải chịu TNHS về “tội chứa mại
dâm”. Trong trường hợp chủ hoặc người quản
lý khách sạn, nhà trọ... vừa gọi gái mại dâm đến
cho khách để họ mua bán dâm ngay tại khách
sạn, nhà trọ... thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu
hoặc quản lý của người gọi gái mại dâm vừa
còn gọi gái mại dâm khác cho khách mua dâm
khác để họ thực hiện việc mua bán dâm tại nơi
khác thì người đó phải chịu TNHS về “tội chứa
mại dâm” và “tội môi giới mại dâm””.
1.2.3. Chủ thể của tội chứa mại dâm, môi giới
mại dâm
Theo quy định tại khoản 3 Điều 8, các Điều
12, 13, 254, 255 BLHS thì chủ thể của tội chứa
mại dâm, môi giới mại dâm không phải là chủ
thể đặc biệt, tức là bất cứ người nào có năng lực
trách nhiệm hình sự (TNHS) và đạt độ tuổi luật
định khi thực hiện tội phạm chứa mại dâm, môi
giới mại dâm - từ đủ 14 hoặc 16 tuổi trở lên (tùy
từng khung hình phạt).
Khoản 1 Điều 13 BLHS năm 1999 quy
định: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc
một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì
không phải chịu TNHS; đối với người này, phải
áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh”. Căn cứ
vào quy định trên, người thực hiện hành vi chứa
mại dâm, môi giới mại dâm được xác định là có
năng lực TNHS tại thời điểm họ thực hiện hành
vi phạm tội nếu ở thời điểm đó, họ nhận thức rõ
tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà
họ thực hiện, đồng thời, có khả năng điều khiển
được hành vi ấy phù hợp với đòi hỏi của xã hội
(nghĩa là họ không mắc bệnh tâm thần hoặc một
bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc
khả năng điều khiển hành vi của mình hoặc tuy
mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác nhưng
họ không mất khả năng nhận thức hoặc khả
năng điều khiển hành vi của mình).
1.2.4. Mặt chủ quan của tội chứa mại dâm, môi
giới mại dâm
Theo quy định tại Điều 254, 255 BLHS, thì
tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm được thực
hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Trong tội chứa mại
dâm, môi giới mại dâm, chủ thể có ý thức lựa
chọn xử sự gây thiệt hại cho xã hội trong khi có
đủ điều kiện không thực hiện hành vi đó. Người
chứa mại dâm, môi giới mại dâm nhận thức rõ
hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, bị
luật hình sự cấm, nhận thức rõ tính chất xâm
phạm đến trật tự công cộng nhưng vẫn tìm mọi
cách thực hiện. Mặt khác, tội chứa mại dâm,
môi giới mại dâm được xây dựng dưới dạng
cấu thành tội phạm hình thức - dấu hiệu hậu
quả không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu
thành cơ bản của tội phạm này. Vì vậy, việc các
chủ thể thực hiện hành vi chứa mại dâm, môi
giới mại dâm nhận thức rõ tính chất nguy hiểm
cho xã hội của hành vi mà vẫn quyết định thực
hiện hành vi đó đã có thể khẳng định thái độ
mong muốn hậu quả của chủ thể.
1.3. Các tình tiết tăng nặng định khung của
tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm
- Có tổ chức
Theo khoản 3 Điều 20 BLHS năm 1999 thì
48 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 22(183) 112010
THỰC TIễN PHÁP LUẬT
phạm tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm có
tổ chức là hình thức đồng phạm chứa mại dâm,
môi giới mại dâm có sự câu kết chặt chẽ giữa
những người cùng thực hiện tội phạm.
- Có tính chất chuyên nghiệp
Theo hướng dẫn tại điểm d mục 9 Nghị quyết
số 01/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm
phán TANDTC ngày 12/5/2006 hướng dẫn áp
dụng một số quy định của BLHS năm 1999 thì
trường hợp chứa mại dâm, môi giới mại dâm bị
coi là “có tính chất chuyên nghiệp” nếu chứa
mại dâm, môi giới mại dâm từ năm lần trở lên
và lấy tiền, hiện vật do chứa mại dâm, môi giới
mại dâm mà có làm nguồn sống chính.
- Cưỡng bức mại dâm
Cưỡng bức mại dâm là trường hợp ép buộc
người khác phải bán dâm trái với ý muốn của họ.
- Phạm tội nhiều lần
Theo hướng dẫn tại mục 4 Nghị quyết số
01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội
đồng thẩm phán TANDTC nói trên thì: “Chỉ
áp dụng tình tiết “phạm tội nhiều lần” đối với
người chứa mại dâm khi thuộc một trong các
trường hợp sau đây: a) Chứa mại dâm (không
phân biệt tại một địa điểm hay tại các địa điểm
khác nhau) một đôi hoặc nhiều đôi mua bán
dâm khác nhau từ hai lần trở lên trong các
khoảng thời gian khác nhau (không phân biệt
thời gian dài hay ngắn); b) Chứa mại dâm hai
đôi mua bán dâm trở lên độc lập với nhau trong
cùng một khoảng thời gian; c) Chứa mại dâm
một người mua bán dâm với hai người trở lên
trong các khoảng thời gian khác nhau.
Không coi là phạm tội nhiều lần trong các
trường hợp sau đây: a) Chứa mại dâm một đôi
mua bán dâm trong một khoảng thời gian liên
tục; b) Chứa mại dâm nhiều người (một nhóm)
cùng đến mua bán dâm, nhưng chỉ một người
trong số họ hoặc một số người trong số họ hoặc
tất cả họ cùng nhau thoả thuận đứng ra giao
dịch với người chứa mại dâm để trả tiền thuê
địa điểm, phương tiện một lần và việc mua bán
dâm diễn ra trong cùng một khoảng thời gian”.
(Môi giới mại dâm nhiều lần cũng được hiểu
tương tự như trên).
- Gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm
trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng
Gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng
hoặc đặc biệt nghiêm trọng trong tội chứa mại
dâm, môi giới mại dâm là trường hợp chứa
mại dâm, môi giới mại dâm làm mất trật tự xã
hội; làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm; làm ảnh
hưởng xấu đến uy tín của cán bộ, công chức
hoặc uy tín của các cơ quan, tổ chức; làm xói
mòn đạo đức truyền thống; làm ảnh hưởng đến
tính mạng, sức khỏe của con người...
- Tái phạm nguy hiểm
Theo quy định tại khoản 2 Điều 49 BLHS
thì người phạm tội chứa mại dâm, môi giới mại
dâm bị coi là tái phạm nguy hiểm nếu: 1) Đã bị
kết án về tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm
(theo khoản 2, 3, 4 Điều 254; khoản 2, 3, 4 Điều
255), chưa được xoá án tích mà lại phạm tội
chứa mại dâm, môi giới mại dâm (theo khoản
2, 3, 4 Điều 254; khoản 2, 3, 4 Điều 255); 2) Đã
tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm
tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm. Sở dĩ như
vậy, là vì tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm
có trường hợp là tội phạm nghiêm trọng (khoản
1 Điều 254; khoản 1 Điều 255), có trường hợp
là tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng (khoản 2, 3, 4 Điều 254; khoản 2, 3, 4
Điều 255).
- Đối với nhiều người
Chứa mại dâm, môi giới mại dâm đối với
nhiều người là chứa mại dâm, môi giới mại
dâm từ hai người bán hoặc hai người mua dâm
trở lên, cùng thời điểm hoặc khác thời điểm,
nhưng chưa lần nào bị xét xử, cũng chưa lần
nào hết thời hiệu truy cứu TNHS.
- Đối với trẻ em hoặc người chưa thành niên
Chứa mại dâm, môi giới mại dâm đối với trẻ
em là trường hợp chứa mại dâm, môi giới mại
dâm người từ đủ 13 nhưng chưa đủ 16 tuổi. Nếu
chứa mại dâm, môi giới mại dâm người dưới 13
tuổi thì có thể bị xử phạt về tội hiếp dâm trẻ em
theo quy định tại khoản 4 Điều 112 BLHS.
Chứa mại dâm, môi giới mại dâm đối với
người chưa thành niên là trường hợp chứa mại
dâm, môi giới mại dâm người từ đủ 16 nhưng
chưa đủ 18 tuổi. Nếu chứa mại dâm, môi giới
mại dâm người từ đủ 18 tuổi trở lên thì không
Số 22(183) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 4911
2010
THỰC TIễN PHÁP LUẬT
bị áp dụng tình tiết tăng nặng định khung này.
Tiểu mục 2 mục 11 phần II Công văn
số 81/2002/TANDTC ngày 10/6/2002 của
TANDTC Về việc giải đáp các vấn đề nghiệp
vụ hướng dẫn như sau: “a-Nếu xác định được
tháng cụ thể, nhưng không xác định được ngày
nào trong tháng đó thì lấy ngày mồng một của
tháng đó làm ngày sinh của người bị hại để xem
xét TNHS đối với bị can, bị cáo; b-Nếu xác
định được quý cụ thể của năm, nhưng không
xác định được ngày, tháng nào trong quý đó
thì lấy ngày mồng một của tháng đầu của quý
đó làm ngày sinh của người bị hại để xem xét
TNHS đối với bị can, bị cáo; c-Nếu xác định
được cụ thể nửa đầu năm hay nửa cuối năm,
nhưng không xác định được ngày, tháng nào
của nửa đầu năm hay nửa cuối năm thì lấy ngày
mồng một tháng giêng hoặc ngày mồng một
tháng bảy tương ứng của năm đó làm ngày sinh
của người bị hại để xem xét TNHS đối với bị
can, bị cáo; d-Nếu không xác định được nửa
năm nào, quý nào, tháng nào trong năm, thì lấy
ngày mồng một tháng giêng của năm đó làm
ngày sinh của người bị hại để xem xét TNHS
đối với bị can, bị cáo”.
1.4. Hình phạt đối với tội chứa mại dâm, môi
giới mại dâm
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm
khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc
hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội.
Mục đích của hình phạt không chỉ nhằm trừng
trị người phạm tội mà còn nhằm giáo dục, cải
tạo người phạm tội trở thành người có ích cho
xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy
tắc của cuộc sống. Xem xét cụ thể các hình phạt
mà BLHS quy định đối với tội chứa mại dâm,
môi giới mại dâm ta thấy, các hình phạt, mức
phạt được xác định rất cụ thể, bao gồm cả hình
phạt chính và hình phạt bổ sung.
- Các hình phạt chính
BLHS quy định hai loại hình phạt chính áp
dụng đối với người phạm tội chứa mại dâm,
đó là tù có thời hạn “từ một năm đến hai mươi
năm” và tù chung thân; một loại hình phạt
chính áp dụng đối với người phạm tội môi giới
mại dâm, đó là tù có thời hạn “từ sáu tháng đến
hai mươi năm”.
- Các hình phạt bổ sung
BLHS năm 1999 quy định ba loại hình phạt
bổ sung áp dụng đối với người phạm tội chứa
mại dâm tại khoản 5 Điều 254 là “phạt tiền từ
năm triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch
thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản
chế từ một năm đến năm năm”; một loại hình
phạt bổ sung áp dụng đối với người phạm tội
môi giới mại dâm tại khoản 5 Điều 255 là “phạt
tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng”.
2. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tội chứa
mại dâm, môi giới mại dâm
2.1. Thực tiễn định tội danh đối với tội chứa
mại dâm, môi giới mại dâm
Trong những năm qua, nhiều vụ án chứa mại
dâm, môi giới mại dâm lớn đã bị phát hiện, xử
lý nhanh chóng, kịp thời, nghiêm minh, đáp ứng
được một phần yêu cầu đấu tranh phòng, chống
các tội phạm này. Tuy nhiên, bên cạnh những
kết quả đã đạt được, vẫn còn một số trường hợp
bỏ lọt tội phạm chứa mại dâm, môi giới mại
dâm hoặc định sai tội danh. Vụ án sau đây là
một minh chứng cho nhận định này (Hộp 1).
2.2. Thực tiễn định khung và quyết định hình
phạt đối với tội chứa mại dâm, môi giới mại
dâm
Trong những năm gần đây, khi xét xử các
bị cáo về tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm,
nhiều Tòa án đã áp dụng đúng khung và mức
hình phạt, góp phần đạt được mục đích phòng
ngừa riêng và phòng ngừa chung của hình phạt.
Tuy nhiên, cũng có không ít vụ Tòa án xử phạt
quá nặng hoặc quá nhẹ, do áp dụng không đúng
tình tiết tăng nặng định khung và tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ TNHS. Vụ án sau đây là một ví
dụ (Hộp 2).
3. Phương hướng hoàn thiện các quy định
của BLHS về tội chứa mại dâm, môi giới mại
dâm
Thứ nhất, bổ sung tội “Bán dâm”, “Tổ chức
hoạt động mại dâm”, “Cưỡng bức bán dâm” và
“Bảo kê mại dâm”. Theo quy định tại Điều 3
Pháp lệnh PCMD thì: “Bán dâm là hành vi giao
50 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 22(183) 112010
THỰC TIễN PHÁP LUẬT
cấu của một người với người khác để được trả
tiền hoặc lợi ích vật chất khác. Tổ chức hoạt
động mại dâm là hành vi bố trí, sắp xếp để thực
hiện việc mua dâm, bán dâm. Cưỡng bức bán
dâm là hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực
hoặc dùng thủ đoạn buộc người khác phải thực
hiện việc bán dâm. Bảo kê mại dâm là hành vi
lợi dụng chức vụ, quyền hạn, uy tín hoặc dùng
vũ lực, đe doạ dùng vũ lực để bảo vệ, duy trì
hoạt động mại dâm”5. Các hành vi này hiện nay
hoặc là chỉ bị xử lý hành chính (như hành vi bán
dâm) hoặc là bị xử lý hình sự về cùng tội chứa
mại dâm, môi giới mại dâm. Theo chúng tôi,
việc không xử lý hình sự người bán dâm, nhất
là những đối tượng bán dâm chuyên nghiệp và
đã bị xử lý hành chính mà còn vi phạm rõ ràng
là bỏ lọt tội phạm, không ngăn chặn được tệ
nạn mại dâm. Vì vậy, đã đến lúc cần trừng trị cả
người bán dâm nếu họ “đã bị xử lý hành chính
về hành vi này mà còn vi phạm”.
Việc xử lý hình sự các hành vi “tổ chức hoạt
động mại dâm”, “cưỡng bức bán dâm” và “bảo
kê mại dâm” về cùng tội “Chứa mại dâm, môi
giới mại dâm” là chưa đúng với quy định về
đồng phạm, không phù hợp với tính nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội, không thể hiện
được nguyên tắc phân hóa TNHS. Vì vậy, để
khắc phục hạn chế này, cần bổ sung các tội “Tổ
chức hoạt động mại dâm”, “Cưỡng bức bán
dâm” và “Bảo kê mại dâm” vào BLHS. Hơn
nữa, về thực tiễn, thời gian qua, các cơ quan bảo
vệ pháp luật đã khám phá, đưa ra truy tố, xét xử
nhiều vụ án trong đó các bị cáo đầu vụ thường
là những “tú bà” có tên tuổi trong giới ăn chơi.
(5) Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm ngày 14 tháng 3 năm 2003.
Đinh Thị Hải Yến có quen biết với Phùng Thị Sến từ năm 2000 do Yến thường sang Trung
Quốc mua vải của Sến. Cuối tháng 02/2003, Sến nhờ Yến tìm người giúp việc tại quán cắt
tóc của Sến ở cửa khẩu Thiên Bảo, và nếu khách có nhu cầu thì bán dâm. Yến nhận lời giúp
và đã rủ Hoàng Thị Hương sang làm nghề cắt tóc, bán dâm tại quán của Sến, Hương đồng ý.
Sến cũng nói với Yến và Hương nếu tìm được phụ nữ Việt Nam trẻ đẹp khoảng 16 đến 17 tuổi
đưa đến nhà Sến, Sến sẽ trả 1.000.000 đồng một người. Tối ngày 01/3/2003, Yến và Hương
đã rủ cháu Phàn Thị Duyên và Phàn Thị Vân là hàng xóm của Hương nói là đi làm thuê ở
thị xã Hà Giang, tiền công mỗi ngày được 15.000 đồng, nên Vân và Duyên đồng ý đi. Vân và
Duyên cùng được đưa sang Trung Quốc qua đường rừng, đến nhà Sến. Sến đã trả cho Yến
1.500.000 đồng và trả cho Hương 1.000.000 đồng, nhưng mới ứng trước cho Hương 500.000
đồng để mua quần áo, còn lại Sến giữ hộ. Sau đó, Sến đã tổ chức cho Duyên và Vân hành nghề
mại dâm, còn Hương làm phục vụ tại nhà Sến. Đến ngày 0142003, Sến đồng ý cho Hương và
Duyên trở về Việt Nam. Khi về đến Việt Nam, Duyên đã tố cáo hành vi mua bán phụ nữ của
Sến, Yến và Hương. Phàn Thị Vân ở lại tiếp tục bán dâm đến ngày 06/7/2003 cũng trở về Việt
Nam. Tại bản án hình sự sơ thẩm số 105/HSST ngày 21/11/2003, Toà án nhân dân tỉnh Hà
Giang áp dụng các điểm a và d khoản 2 Điều 119; các điểm đ và g khoản 2 Điều 120; điểm p
khoản 1 Điều 46 đối với Đinh Thị Hải Yến và Hoàng Thị Hương và Điều 50 BLHS, xử phạt:
Phùng Thị Sến sáu năm tù về tội mua bán phụ nữ, mười hai năm tù về tội mua bán trẻ em, tổng
hợp hình phạt chung cho cả hai tội là mười tám năm tù; Đinh Thị Hải Yến sáu năm tù về tội
mua bán phụ nữ, mười một năm tù về tội mua bán trẻ em, tổng hợp hình phạt chung cho cả
hai tội là mười bảy năm tù; Hoàng Thị Hương năm năm tù về tội mua bán phụ nữ, mười năm
tù về tội mua bán trẻ em, tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội là mười lăm năm tù. Trong
vụ án này, mặc dù Phùng Thị Sến có hành vi chứa mại dâm, môi giới mại dâm nhưng các cơ
quan tiến hành tố tụng đã bỏ lọt tội phạm này.
(Hộp 1)
Số 22(183) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 5111
2010
THỰC TIễN PHÁP LUẬT
Những bị cáo này thường lập ra các đường dây
“gái gọi” với quy mô lớn, thủ đoạn tinh vi, xảo
quyệt gồm ba nhóm người như sau:
Nhóm đầu tiên gồm những gái mại dâm,
thường là những cô gái ở các vùng quê được
các “tú bà” nuôi trong các cửa hàng, quán ka-
ra-ô-kê, hiệu làm đầu trá hình... Tham gia vào
đội ngũ này có cả những cô gái sống và làm
việc trên địa bàn, thậm chí có cả người mẫu,
ca sĩ. Khi có khách mua dâm, “tú bà” sẽ điều
gái mại dâm (có sẵn trong nhà mình hoặc điện
thoại theo danh sách đã đăng ký) đến khách sạn
hoặc địa điểm theo yêu cầu của khách mua dâm
để thực hiện việc bán dâm.
Nhóm thứ hai gồm những người làm nhiệm
vụ tiếp thị, tìm khách mua dâm, thường là những
nhân viên khách sạn, nhà hàng hoặc hướng dẫn
viên du lịch. Khi có khách cần mua dâm thì báo
cho “tú bà” biết về thời gian, địa điểm và yêu
cầu của khách đối với đối tượng bán dâm.
Nhóm thứ ba là những tên làm nhiệm vụ bảo
kê, đưa đón, quản lý, bảo vệ gái mại dâm theo
sự điều hành của “tú bà”. Những tên này còn
làm cả nhiệm vụ giám sát, khống chế, không để
các cô gái bỏ trốn hoặc sẵn sàng dùng vũ lực,
đe doạ vùng vũ lực buộc các cô gái phải bán
(Hộp 2)
Nguyễn Văn Thái và Trịnh Thị Hiên do quen biết với Nguyễn Thị Mai Hương và biết Hương
có cửa hàng bán giải khát và ka-ra-ô-kê, ngày 03/3/1999, Hiên đến nhà Hương thuê hai phòng
tại tầng 4 với giá 600.000 đồng/1 phòng, còn quầy bar ở tầng 1 và phòng hát ka-ra-ô-kê ở
tầng 2 thì Hiên thoả thuận để Hiên tạm thời quản lý “nếu làm ăn được sẽ nói chuyện sau”.
Để đối phó với Công an, Hiên lập hệ thống báo động từ bếp lên tầng 4. Hiên và Thái đã tuyển
chọn gái bán dâm và Hương đi đăng ký tạm trú cho ăn ở tại nhà. Hàng ngày, người đứng quầy
bar giới thiệu khách có nhu cầu mua dâm cho Hiên, Thái hoặc khách thoả thuận trực tiếp với
Hiên, Thái với giá 60.000 đồng/1 lượt “tàu nhanh” và 200.000 đồng/1 lượt qua đêm. Khoảng
11 giờ ngày 22/3/1999, khi có khách đang mua dâm thì bị bắt. Vì hành vi trên, tại Bản án hình
sự sơ thẩm số 1996/HSST ngày 24, 27/12/1999, Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã áp
dụng điểm b khoản 3 Điều 202, khoản 3 Điều 218, riêng Thái áp dụng thêm khoản 2 Điều 218
BLHS xử phạt: Nguyễn Văn Thái mười sáu năm tù, Trịnh Thị Hiên mười lăm năm tù đều về tội
“Chứa mại dâm”. Phạt tiền mỗi bị cáo Thái, Hiên 3.000.000 đồng. Áp dụng điểm b khoản 2
Điều 202, khoản 3 Điều 218 BLHS xử phạt Nguyễn Thị Mai Hương bảy năm tù về tội “Chứa
mại dâm”. Phạt tiền bị cáo 2.000.000 đồng. Ngày 07/01/2000, Nguyễn Thị Mai Hương kháng
cáo xin xem xét lại bản án sơ thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm nhận xét: hành vi của bị cáo Nguyễn
Thị Mai Hương phạm vào Điều 254 khoản 2 có mức hình phạt từ năm năm đến mười lăm năm
tù. Hơn nữa, tại phiên toà, bị cáo thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải, sau khi xét xử sơ thẩm
đã nộp phạt 2.000.000 đồng, vai trò của bị cáo trong vụ án có mức độ, hiện tại gia đình gặp
khó khăn, Hội đồng xét xử thấy cần xem xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo. Vì bị cáo có
nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 BLHS nên cho bị cáo hưởng dưới mức khởi điểm
của khoản 2 Điều 254. Từ những nhận xét trên, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà
Nội quyết định áp dụng Điều 254 khoản 2 điểm c; Điều 46 khoản 1 điểm b, p; Điều 47 BLHS
1999, giảm hình phạt cho bị cáo Nguyễn Thị Mai Hương từ bảy năm xuống còn bốn năm tù
về tội “Chứa mại dâm”6. Qua vụ án này cho thấy, do không đánh giá đúng các tình tiết của
vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt quá nặng, không tương xứng với tính nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội.
(6) Bản án hình sự phúc thẩm số 1318/HSPT ngày 10 tháng 7 năm 2000 của Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội.
52 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 22(183) 112010
THỰC TIễN PHÁP LUẬT
dâm theo chỉ đạo của “tú bà”.
Phân tích hành vi của “tú bà” và đồng
bọn trong những vụ án trên thấy rằng, hành
vi này không đủ dấu hiệu cấu thành tội chứa
mại dâm, môi giới mại dâm vì chúng rất tinh
vi, không bao giờ sử dụng nhà ở, cửa hàng
của mình hoặc thuê, mượn địa điểm, phương
tiện để thực hiện việc mua dâm, bán dâm. Địa
điểm mại dâm thường là nơi ở của khách hoặc
do gái mại dâm đến khách sạn tự thuê. Hành vi
của chúng cũng không đơn thuần chỉ là dụ dỗ,
dẫn dắt làm trung gian để kẻ mua, người bán
gặp nhau thực hiện việc mua dâm, bán dâm mà
là tổ chức hoạt động mại dâm với đường dây
khép kín, từ việc chăn nuôi sẵn đội ngũ gái mại
dâm đến việc bố trí, sắp xếp cho họ bán dâm.
Trường hợp cần thiết chúng còn chỉ đạo bọn
đàn em sử dụng cả vũ lực, đe doạ dùng vũ lực
hoặc thủ đoạn khác buộc các cô gái phải bán
dâm theo yêu cầu của khách. Theo Pháp lệnh
PCMD, hành vi của “tú bà” và đồng bọn trong
trường hợp này là hành vi tổ chức hoạt động
mại dâm (có tính chất, mức độ nguy hiểm cho
xã hội cao hơn nhiều so với hành vi môi giới
mại dâm). Do BLHS hiện hành không quy định
tội “Tổ chức hoạt động mại dâm”, “Cưỡng
bức bán dâm” và “Bảo kê mại dâm” thành tội
độc lập nên hành vi của “tú bà” và đồng bọn
chỉ có thể bị truy cứu TNHS về tội “Môi giới
mại dâm” với tình tiết định khung tăng nặng là
“có tổ chức”. Việc truy cứu TNHS về tội môi
giới mại dâm trong trường hợp này rõ ràng là
chưa phản ánh đúng các tình tiết khách quan
của hành vi phạm tội, chưa đánh giá hết tính
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,
dẫn đến cá thể hoá hình phạt không nghiêm,
làm giảm hiệu quả đấu tranh phòng, chống các
tội phạm này7.
Để phù hợp với sự thay đổi trên, cần bỏ tình
tiết tăng nặng định khung “cưỡng bức mại dâm”
tại điểm b, khoản 2 Điều 254 BLHS (vì tình tiết
“cưỡng bức mại dâm” đã được quy định là tình
tiết định tội).
Thứ hai, bổ sung tình tiết tăng nặng định
khung “thu lợi bất chính lớn, rất lớn hoặc đặc
biệt lớn” vào tội chứa mại dâm, môi giới mại
dâm. Từ trước đến nay, khi xét xử những vụ
chứa mại dâm, môi giới mại dâm có dấu hiệu
“thu lợi bất chính lớn, rất lớn, đặc biệt lớn” các
Tòa án thường rất lúng túng vì không biết phải
áp dụng tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng,
rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng” hay
không áp dụng tình tiết tăng nặng nào (vì tình
tiết “thu lợi bất chính lớn, rất lớn, đặc biệt lớn”
không phải là tình tiết “gây hậu quả nghiêm
trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng”). Để không bỏ lọt các trường hợp phạm
tội nguy hiểm này, cần bổ sung tình tiết tăng
nặng định khung “thu lợi bất chính lớn, rất lớn
hoặc đặc biệt lớn” vào tội chứa mại dâm, môi
giới mại dâm theo như hướng dẫn tại tiểu mục
7. 3 mục 7 phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-
HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm
phán TANDTC: “a. Thu lợi bất chính từ năm
triệu đồng đến dưới mười lăm triệu đồng là
lớn; b. Thu lợi bất chính từ mười lăm triệu
đồng đến dưới bốn mươi lăm triệu đồng là rất
lớn; c. Thu lợi bất chính từ bốn mươi lăm triệu
đồng trở lên là đặc biệt lớn”.
Kết luận
Mại dâm là tệ nạn xã hội trái với đạo đức,
thuần phong mỹ tục của dân tộc, ảnh hướng
xấu đến sức khoẻ, giống nòi, đời sống vật chất
và văn hoá của nhân dân, trật tự an toàn xã
hội; để lại hậu quả nghiêm trọng cho các thế
hệ sau. Vì vậy, mọi hình thức thể hiện của tệ
nạn này phải được ngăn ngừa, những người vi
phạm phải bị nghiêm trị.
Một trong những biện pháp đấu tranh
phòng, chống có hiệu quả loại tội phạm này là
hoàn thiện quy định của BLHS về tội chứa mại
dâm, môi giới mại dâm, cả về tình tiết định
tội và các tình tiết tăng nặng định khung theo
hướng như đã nêu trên. Những kiến nghị sửa
đổi, bổ sung này sẽ tạo ra cơ sở pháp lý vững
chắc để trừng trị và xử lý nghiêm những hành
vi phạm tội nguy hiểm này.
(7) Nguyễn Văn Trượng (2007), “Thực tiễn áp dụng các quy định của BLHS về tội phạm liên quan đến mại dâm và những vấn đề cần
hoàn thiện”, Tạp chí TAND, (số 24), tr. 29-32.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- toi_chua_mai_dam_toi_moi_gioi_mai_dam_ly_luan_va_thuc_tien.pdf