Phương pháp quy hoạch thực nghiệm trực
giao cấp II đã tìm được giá trị tối ưu của các yếu tố
công nghệ trong chế tạo thanh cốt composit
polymer: tỷ lệ chất đóng rắn 10,5 %, tốc độ kéo sợi
thủy tinh 0,46 m/ph, nhiệt độ đóng rắn 112,5 0C.
Các kết quả tối ưu này đã được sử dụng chế tạo
thực nghiệm các thanh cốt composit polymer có
ứng suất kéo khá cao là 553,1 N/mm2. Giá trị ứng
suất kéo này lớn hơn 1,5 lần thép CB240-T (CI)
cùng đường kính.
- Dây chuyền công nghệ chế tạo các thanh cốt
composit polymer nên được thiết kế, điều chỉnh
trong phạm vi các thông số công nghệ tối ưu nêu
trên. Từ đó có thể dần dần làm chủ công nghệ chế
tạo hệ thống dây chuyền thiết bị, cũng như làm chủ
công nghệ chế tạo vật liệu cốt composit polymer
trên cơ sở sử dụng các dây chuyền thiết bị hoàn
toàn nội địa hóa đó. Điều đó cũng cho phép mở ra
hướng nghiên cứu hoàn thiện công nghệ hơn nữa
để tăng khả năng ứng dụng của loại vật liệu mới
này trong các công trình thủy lợi, công trình biển, đê
kè, hầm ngầm, bến cảng,. và trong các công trình
xây dựng đặc thù khác
7 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 723 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tối ưu hóa các yếu tố công nghệ trong chế tạo vật liệu cốt composite polymer, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 3/2016 37
TỐI ƯU HÓA CÁC YẾU TỐ CÔNG NGHỆ TRONG
CHẾ TẠO VẬT LIỆU CỐT COMPOSITE POLYMER
ThS. BÙI THỊ THU PHƯƠNG
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
PGS.TS. NGUYỄN VÕ THÔNG
Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng
TS. NGUYỄN THẾ HÙNG
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Tóm tắt: Vật liệu cốt composite polymer có ưu
thế vượt trội là ứng suất kéo cao hơn thép truyền
thống đến 1,5-2 lần, nhẹ hơn đến 5 lần, do đó có
thể dùng cho các công trình có yêu cầu đặc biệt.
Mục tiêu nghiên cứu này là tối ưu hóa các yếu tố
công nghệ ảnh hưởng đến quá trình chế tạo vật
liệu. Từ đó từng bước làm chủ công nghệ lõi và làm
chủ hoàn toàn hệ thống dây chuyền sản xuất thép
cốt composite polymer tại Việt Nam.
1. Mở đầu
Vật liệu sợi thủy tinh trong công nghệ chế tạo
thanh cốt composite polymer được nghiên cứu lựa
chọn là sợi E-Glass Tỷ lệ sợi thủy tinh trong thành
phần cốt composite polymer trong trên thế giới phổ
biến ở mức 60-75%. Trong công nghệ này, các sợi
thủy tinh được nhúng thấm đẫm nhựa epoxy. Một
lượng chất đóng rắn được bổ sung vào mẻ liệu sao
cho thời gian đông cứng phù hợp với các giai đoạn
tiếp theo. Do đó, việc nghiên cứu tỷ lệ chất đóng rắn
trong quá trình chế tạo vô cùng quan trọng. Chất
lượng thanh cốt composite polymer còn phụ thuộc
vào tốc độ kéo sợi qua một buồng gia nhiệt dài. Tốc
độ chậm sẽ không đảm bảo năng suất. Ngược lại,
nếu tốc độ kéo nhanh thì quá trình đóng rắn chỉ xảy
ra trên lớp bề mặt. Nhiệt độ trong ống gia nhiệt
đóng vai trò quan trọng trong suốt quá trình đóng
rắn của thanh cốt composite polymer. Nếu gia nhiệt
quá cao sẽ dẫn đến cháy hoặc bay hơi keo epoxy
một cách cục bộ. Nếu gia nhiệt quá thấp thì thanh
thép composit sẽ mềm vì chưa kịp đóng rắn [1,2].
Như vậy ba yếu tố công nghệ chính là tỷ lệ chất
đóng rắn, tốc độ kéo sợi thủy tinh và nhiệt độ đóng
rắn. Các yếu tố này có ảnh hưởng rất lớn đến chất
lượng của thanh cốt composite polymer. Chất lượng
thanh thép được thể hiện thông qua đặc tính cơ lý
nói chung của sản phẩm cuối cùng, đặc biệt là ứng
suất kéo. Như vậy chế độ công nghệ tối ưu sẽ là
chế độ cho phép thu được ứng suất kéo cao nhất,
tức là tổ hợp của ba yếu tố công nghệ (tỉ lệ đóng
rắn, tốc độ kéo và nhiệt độ đóng rắn) sao cho ứng
suất kéo đạt giá trị max. Chế độ công nghệ tối ưu
được nghiên cứu bằng mô hình quy hoạch thực
nghiệm ba yếu tố: tỷ lệ chất đóng rắn, tốc độ kéo
sợi thủy tinh và nhiệt độ đóng rắn trong ống gia
nhiệt trong tương quan của hàm mục tiêu là ứng
suất kéo của thanh cốt composite polymer.
2.Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
2.1 Vật liệu và thiết bị
Vật liệu
- Sợi thủy tinh E-Glass;
- Nhựa Epoxy;
- Chất đóng rắn.
Thiết bị
Hệ thống dây chuyền sản xuất thanh cốt
composite polymer tại Viện Khoa học Công nghệ
Xây dựng (Hệ thống dây chuyền là kết quả nghiên
cứu của đề tài cơ sở cấp Viện tại Viện Khoa học
Công nghệ Xây dựng nghiệm thu tháng 6-2014).
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG
38 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 3/2016
Hình 1. Hệ thống dây chuyền sản xuất thanh cốt composite polymer
2.2 Phương pháp nghiên cứu
a. Nghiên cứu lý thuyết
Theo yêu cầu của bài toán, các yếu tố đầu vào được chọn ảnh hưởng đến đặc tính cơ lý của vật liệu
gồm: tỷ lệ chất đóng rắn - 1X (%), tốc độ kéo sợi thủy tinh - 2X (m/ph), nhiệt độ đóng rắn - 3X (
oC). Hàm hồi
quy được chọn là ứng suất kéo của vật liệu.
Hình 2. Mô hình qui hoạch thực nghiệm chế tạo cốt composite polymer
Để mô tả quá trình thực nghiệm tương thích
bằng những mặt phi tuyến, chúng tôi tiến hành
qui hoạch thực nghiệm cấp II nhằm cung cấp tối
đa các thông tin để người nghiên cứu đạt được
kết quả tốt nhất nhanh nhất và tiết kiệm nhất.
Phương án qui hoạch thực nghiệm trực giao cấp
II được dùng để xác định giá trị tối ưu của hàm
mục tiêu. Hàm mục tiêu có dạng:
1 2 3Y X ,X ,X . Ứng suất kéo phải tiến đến giá
trị Max trong khi điều chỉnh các yếu tố công nghệ
X1, X2 và X3 [3]. Do đó dẫn đến việc giải bài toán
tối ưu: xác định cực trị của hàm mục tiêu:
1 2 3Y max max Y X ,X ,X
b.Nghiên cứu thực nghiệm
Sơ đồ công nghệ chế tạo cốt composite polymer
tổng quát
Chế tạo cốt composite polymer từ sợi thủy tinh
E-Glass và nhựa Epoxy bao gồm ba công đoạn
chính như hình 3:
1X - Chất đóng rắn(% )
2X - Tốc độ kéo sợi thủy tinh(m/p)
3X - Nhiệt độ đóng rắn (
o
C)
Dây chuyền công
nghệ chế tạo
thanh cốt
composite
polymer
Ứng suất kéo (N/mm2)
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 3/2016 39
Hình 3. Sơ đồ công nghệ tổng quát chế tạo thanh thép thủy tinh
Mô tả công nghệ:
Công nghệ chế tạo cốt composite polymer là
công nghệ kéo liên tục các bó sợi thủy tinh đã tẩm
epoxy qua một dây chuyền công nghệ chuyên dụng.
Trong thực nghiệm này, các mẫu thanh cốt
composit polymer có đường kính 10, được chế
tạo qua 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Hòa trộn nhựa epoxy với sợi
thủy tinh. Để chế tạo cốt composit polymer 10
cần 10 cuộn phôi sợi thủy tinh được phân phôi bằng
bánh xích và lô kéo sợi. Sợi thủy tinh được thấm
đẫm keo nhựa trong thùng chứa keo epoxy có pha
trộn chất đóng rắn với tỉ lệ có thể điều chỉnh được.
Giai đoạn 2: Định hình về kích thước. Để
định hình kích thước thanh thép đường kính 10,
thực nghiệm của chúng tôi sử dụng khuôn định hình
có dạng lỗ hình trụ đường kính từ 10. Khuôn định
hình dạng trụ có độ dài 50mm.
Giai đoạn 3: Hóa cứng nhanh trong ống gia
nhiệt. Công nghệ composit có sử dụng epoxy
thường được đóng rắn chậm. Có nghĩa là màng
epoxy sẽ được đóng rắn ở nhiệt độ thường (25-
35C) và kéo dài vài ngày. Việc đóng rắn chậm
thường áp dụng với các loại bình bể kích thước lớn,
vì không thể chế tạo các buồng gia nhiệt lớn. Tuy
nhiên, thanh cốt composite polymer là một vật có
kích thước nhỏ theo mặt cắt ngang. Vì vậy có thể
kéo nó qua một ống gia nhiệt nhỏ, nhưng đủ dài.
Như thế ta có thể tiến hành hóa cứng nhanh epoxy.
Chế độ hóa cứng được điều chỉnh bởi nhiệt độ của
ống gia nhiệt và thời gian mà thanh cốt thủy tinh còn
mềm dẻo được di chuyển trong lòng ống gia nhiệt.
Tốc độ kéo bó sợi trong ống gia nhiệt quyết định
thời gian hóa cứng.
3. Thực nghiệm
3.1 Các thông số kỹ thuật cơ bản của quá trình
thực nghiệm
Mục tiêu thực nghiệm này là xác định tỷ lệ chất
đóng rắn trong thùng chứa keo epoxy, tốc độ kéo
sợi thủy tinh đi qua thùng chứa keo và nhiệt độ
đóng rắn trong ống gia nhiệt [4]. Các thông số thí
nghiệm như bảng 1.
Bảng 1. Thông số kỹ thuật cơ bản trong thực nghiệm
TT Thông số kỹ thuật Giá trị
1 Tỷ lệ trộn sợi thủy tinh, nhựa epoxy 65/35
3 Quan hệ số bó sợi và đường kính thanh composit sợi thủy tinh 10 bó sợi
4 Đường kính lỗ hình trụ 10
5 Chiều dài ống gia nhiệt 12000 mm
6 Phương pháp gia nhiệt Tự động
7 Tốc độ di chuyển của thanh composit trong ống gia nhiệt 1 m/ph
8 Công suất mô tơ 1,1 kW
3.2 Mô hình hóa bài toán theo quy hoạch trực
giao cấp II
Để xây dựng mô tả toán học cho quá trình chế
tạo vật liệu cốt composit polymer từ các nghiên cứu
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG
40 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 3/2016
lý thuyết, các thí nghiệm thăm dò và kết quả quy
hoạch thực nghiệm trực giao cấp I chúng tôi tiếp tục
tiến hành qui hoạch thực nghiệm trực giao cấp II.
Với số lượng yếu tố công nghệ k=3, thì số thí
nghiệm ở phương án trực giao toàn phần là 2k=8,
số thí nghiệm thực hiện tại tâm n0=3, số thí nghiệm
thực hiện ở điểm sao (*) trên trục tọa độ 2k=6. Như
vậy tổng số thí nghiệm phải làm trong phương án
trục giao cấp II là N=2k+2k+n0=17. Điểm sao là điểm
cách tâm thực một khoảng bằng gọi là cánh tay
đòn và được tính theo công thức:
2 k 2 k 1N.2 2 (1)
Từ đó tính được: 2 1,831 1,35
Để ma trận thực nghiệm có thể trực giao ta đổi
biến Xj
2 thành các biến phụ Xj
’ được tính theo công
thức:
k 2
2 2
j j j
2 2
X X X 0,686
N
(2)
Các mức yếu tố (mức cơ sở, mức trên, mức
dưới, mức (*) được thể hiện ở bảng 2.
Bảng 2. Mức các yếu tố thí nghiệm trực giao cấp II
Các mức
Các yếu tố ảnh hưởng
Tỷ lệ chất đóng rắn X1 (
%)
Tốc độ kéo
sợi thủy tinh
X2 (m/ph)
Nhiệt độ đóng rắn
X3 (oC)
Mức trên (+1) 12 1,2 150
Mức cơ sở (0) 10 1 125
Mức dưới (-1) 8 0,8 100
Khoảng biến thiên 2 0,2 25
Alpha (cánh tay đòn) +/- 1,35 +/- 1,35 +/- 1,35
Khi đó phương trình hồi quy cấp II có dạng:
0 1 1 2 2 3 3 12 1 2 23 2 3 13 1 3
2 2 2
11 1 22 2 33 3
Y b b X b X b X +b X X +b X X +b X X +
b X b X b X
(3)
Sau khi mã hóa các biến và tiến hành thí nghiệm, kết quả thực nghiệm như bảng 3.
Bảng 3. Ma trận thực nghiệm trực giao cấp II
N Biến mã Biến phụ
Ứng suất kéo
đo được
(N/mm2)
X1 X2 X3 X12-0,686 X22-0,686 X32-0,686 Y
2k
1 1 1 1 0,314 0,314 0,314 545
2 1 1 -1 0,314 0,314 0,314 564
3 1 -1 1 0,314 0,314 0,314 541
4 1 -1 -1 0,314 0,314 0,314 530
5 -1 1 1 0,314 0,314 0,314 541
6 -1 1 -1 0,314 0,314 0,314 531
7 -1 -1 1 0,314 0,314 0,314 539
8 -1 -1 -1 0,314 0,314 0,314 558
2k
9 -1,35 0 0 1,1365 -0,686 -0,686 561
10 1,35 0 0 1,1365 -0,686 -0,686 554
11 0 -1,35 0 -0,686 1,1365 -0,686 535
12 0 1,35 0 -0,686 1,1365 -0,686 552
13 0 0 -1,35 -0,686 -0,686 1,1365 524
14 0 0 1,35 -0,686 -0,686 1,1365 549
no
15 0 0 0 -0,686 -0,686 -0,686 544
16 0 0 0 -0,686 -0,686 -0,686 546
17 0 0 0 -0,686 -0,686 -0,686 545
Các số liệu được xử lý bằng phần mềm MS
Excel và phần mềm mô phỏng SciLab nhằm phân
tích các hệ số của phương trình hồi quy cấp II, bề
mặt đáp ứng và tối ưu hóa hàm hồi quy. Kiểm tra sự
có nghĩa của các hệ theo chuẩn Student và sự
tương thích của các phương trình hồi quy so với
thực nghiệm theo tiêu chuẩn Fisher [5,6]. Kết quả
chúng tôi thu được hàm hồi quy như sau:
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 3/2016 41
1 2 3 1 2
2 2 2
1 2 3
Y 544,64 1,4X 1,06X 3,69X 3,7X X
4,59X 0,92X 3,69X
(4)
Ứng suất kéo của thanh cốt composit polymer
được mô tả bởi phương trình (4). Phương trình này
thể hiện sự ảnh hưởng của các yếu tố công nghệ
lên ứng suất kéo của vật liệu.
4. Kết quả và thảo luận
Để tìm được các giá trị tối ưu của các yếu tố
công nghệ cần xét lần lượt mức độ ảnh hưởng của
tương tác cặp đôi giữa hai yếu tố lên hàm hồi quy.
Ảnh hưởng của tương tác cặp đôi giữa các yếu tố
(khi yếu tố còn lại giữ ở mức trung tâm) lên ứng
suất kéo thể hiện trên bề mặt đáp ứng như hình 4.
Bề mặt đáp ứng của hàm hồi quy cho thấy giá trị
cao nhất nằm ở vùng màu đỏ đậm nhất tại vị trí uốn
cong của bề mặt.
- Phương trình (4) cho thấy yếu tố X1 - % chất
đóng rắn có tác động lớn nhất đến hàm hồi quy, hay
tỉ lệ chất đóng rắn ảnh hưởng lớn đến ứng suất kéo
của thanh cốt composit polymer. Hai yếu tố còn lại
ảnh hưởng ít hơn, do đó dẫn đến xuất hiện tối ưu
của giá trị hàm hồi quy tại giá trị X2=-0,576, X3=-0,5
(hình 4a, 4b) tương ứng với giá trị thực tốc độ kéo
sợi thủy tinh là 0,46 m/ph và nhiệt độ gia nhiệt đạt
112,5 0C. Như vậy dễ dàng tìm được giá trị tối ưu
của yếu tố X2 - Tốc độ kéo sợi thủy tinh và X3 - Nhiệt
độ đóng rắn.
a) b)
c) d)
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG
42 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 3/2016
e) f)
Hình 4. Bề mặt đáp ứng của hàm hồi quy
- Hình 4c,d,e,f cho thấy khi nhiệt độ tăng trong
vùng khảo sát từ -1 đến 1 và hai yếu tố còn lại ở
mức tối ưu thì giá trị hàm hồi quy có xu hướng tăng
chậm. Để tìm giá trị tối ưu cho yếu tố công nghệ còn
lại chúng tôi tiếp tục thực nghiệm thay đổi tỉ lệ chất
đóng rắn với bước nhảy 0,5% tính từ tâm khảo sát.
Giá trị thực nghiệm ứng suất kéo được thể hiện như
hình 5.
Hình 5. Mối quan hệ giữa tỉ lệ chất đóng rắn và ứng suất kéo của vật liệu khi tốc độ kéo
sợi thủy tinh và nhiệt độ đóng rắn ở mức tối ưu
Kết quả thu được trên hình 5 cho thấy với
10,5% chất đóng rắn (tức biến mã X1 = 0,25) thì
ứng suất kéo đạt giá trị cao nhất đạt 553,1 N/mm2.
Để kiểm tra tính phù hợp của các thông số tối ưu
tìm được theo phương trình hồi qui và từ thực
nghiệm, thay các giá trị tối ưu của yếu tố đầu vào X1
= 0,25, X2 = -0,576, X3 vào phương trình hồi qui (4),
ta được: Y 545,97 N/mm2. Kết quả thu được
trong thực tế giá trị ứng suất kéo 553,1 N/mm2 sai
lệch với lý thuyết tối ưu (545,97) khoảng 1,3%. Độ
sai lệch giữa lý thuyết và thực tế là tương đối phù
hợp.
Kết quả nghiên cứu bằng kính hiển vi điện tử
quét bề mặt (SEM) các mẫu thanh cốt composit
polymer ở các chế độ công nghệ tối ưu cho thấy
các sợi thủy tinh phân bố và hòa quyện với lớp keo
epoxy đồng đều như được trình bày trên hình 6.
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 3/2016 43
Hình 6. Ảnh kính hiển vi điện tử quét (SEM) của thanh cốt composit polymer ở điều kiện tối ưu
với tỷ lệ chất đóng rắn 10,5 %, tốc độ kéo sợi thủy tinh 0,46 m/ph, nhiệt độ đóng rắn 112,5 0C
5. Kết luận
- Phương pháp quy hoạch thực nghiệm trực
giao cấp II đã tìm được giá trị tối ưu của các yếu tố
công nghệ trong chế tạo thanh cốt composit
polymer: tỷ lệ chất đóng rắn 10,5 %, tốc độ kéo sợi
thủy tinh 0,46 m/ph, nhiệt độ đóng rắn 112,5 0C.
Các kết quả tối ưu này đã được sử dụng chế tạo
thực nghiệm các thanh cốt composit polymer có
ứng suất kéo khá cao là 553,1 N/mm2. Giá trị ứng
suất kéo này lớn hơn 1,5 lần thép CB240-T (CI)
cùng đường kính.
- Dây chuyền công nghệ chế tạo các thanh cốt
composit polymer nên được thiết kế, điều chỉnh
trong phạm vi các thông số công nghệ tối ưu nêu
trên. Từ đó có thể dần dần làm chủ công nghệ chế
tạo hệ thống dây chuyền thiết bị, cũng như làm chủ
công nghệ chế tạo vật liệu cốt composit polymer
trên cơ sở sử dụng các dây chuyền thiết bị hoàn
toàn nội địa hóa đó. Điều đó cũng cho phép mở ra
hướng nghiên cứu hoàn thiện công nghệ hơn nữa
để tăng khả năng ứng dụng của loại vật liệu mới
này trong các công trình thủy lợi, công trình biển, đê
kè, hầm ngầm, bến cảng,... và trong các công trình
xây dựng đặc thù khác.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Hoàng Xuân Lượng (2003), Cơ học vật liệu
composite, Nhà Xuất bản Học viện Kỹ thuật Quân
sự, Hà Nội.
[2]. Nguyễn Huy Tùng (2010), Hóa lý polymer,
Trung tâm nghiên cứu Vật liệu Polymer, Đại học
Bách khoa Hà Nội.
[3]. Nguyễn Minh Tuyển (2005), Quy hoạch thực
nghiệm, Nhà Xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.
[4] Nguyễn Trâm (2012), Hội nghị Khoa học Vật liệu,
kết cấu và công nghệ xây dựng, “Về vật liệu xây
dựng mới - chất dẻo cốt sợi Composite FRP”,
Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội, tr 212-215.
[5]. Nguyễn Doãn Ý (2009), Xử lý số liệu thực
nghiệm trong kỹ thuật, Nhà Xuất bản Khoa học
và Kỹ Thuật.
[6]. Montgomery, Douglas C., Design and Analysis
of Experiments (4th edition), New York John
Wiley & Sons.
Ngày nhận bài:15/8/2016.
Ngày nhận bài sửa lần cuối:10/10/2016.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1481701378thuphuong_8541.pdf