TiO2 sử dụng làm phụ gia thiêu kết làm tăng đáng
kể khả năng thiêu kết của nhôm oxit ở nhiệt độ 1550oC
qua đó làm tăng đáng kể cơ tính của sản phẩm gốm xốp
Al2O3. Gốm xốp nhôm oxit chế tạo bằng phương pháp
luyện kim bột sử dụng ammoni bicacbonat NH4HCO3
và axit citric C6H8O7 làm chất tạo xốp có cấu trúc xốp
hỗn hợp (kín và hở) trong đó hàm lượng lỗ xốp hở
chiếm phần lớn. Lỗ xốp có hình dạng phức tạp và phân
bố đều trong toàn bộ thể tích mẫu, kích thước lỗ xốp
trung bình 190 m (khi sử dụng ammoni bicacbonat
NH4HCO3 làm chất tạo xốp. Độ xốp của vật liệu tăng
tỷ lệ thuận với hàm lượng chất tạo xốp sử dụng và đạt
tối đa 79,3%. Độ bền uốn và độ bền nén tỷ lệ nghịch
với độ xốp của mẫu. Kích thước hạt của chất tạo xốp
ban đầu tăng làm kích thước lỗ xốp tăng tuy nhiên hàm
lượng chất tạo xốp sử dụng bị hạn chế. Độ chịu lửa của
gốm xốp nhôm oxit 1770oC.
7 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 806 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tổng hợp vật liệu gốm nhôm oxit xốp bằng phương pháp luyện kim bột sử dụng phụ gia thiêu kết TiO2, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 124 (2018) 057-062
57
Tổng hợp vật liệu gốm nhôm oxit xốp bằng phương pháp luyện kim bột sử
dụng phụ gia thiêu kết TiO2
Synthesis of Highly Porous Alumina Via Powder Metallurgy Method using TiO2 as Sintering Additive
Lê Minh Hải*, Nguyễn Minh Đức, Đặng Quốc Khánh
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội – Số 1, Đại Cồ Việt, Hai Bà Trưng, Hà Nội
Đến Tòa soạn: 12-01-2017; chấp nhận đăng: 25-01-2018
Tóm tắt
Gốm xốp nhôm oxit được chế tạo bằng phương pháp luyện kim bột với nguyên liệu ban đầu bao gồm bột
Al2O3, chất kết dính PVA 5%, chất tạo xốp ammoni bicacbonat (NH4)HCO3 hoặc axit citric C6H8O7 và chất phụ
gia thiêu kết TiO2. Kết quả đo độ xốp, độ bền và ảnh cấu trúc tế vi (SEM) cho thấy chỉ với hàm lượng rất nhỏ
TiO2 (1%) có thể làm tăng đáng kể khả năng thiêu kết của nhôm oxit dẫn đến làm tăng độ bền của mẫu sau
thiêu kết. Hiện tượng này có thể giải thích là do sự hình thành pha liên oxit Al2TiO5 làm tăng khả năng khuếch
tán tại bề mặt tiếp xúc giữa các hạt bột. Gốm xốp nhôm oxit sau thiêu kết có cấu trúc xốp hỗn hợp trong đó lỗ
xốp hở chiếm phần lớn. Độ xốp của mẫu sau thiêu kết tỷ lệ thuận với hàm lượng chất tạo xốp. Độ bền của vật
liệu tỷ lệ nghịch với độ xốp. Kích thước lỗ xốp có thể khống chế thông qua kích thước hạt của chất tạo xốp
ban đầu, từ vài m đến vài mm. Kết quả đo độ chịu nhiệt cho thấy gốm xốp nhôm oxit tạo thành có thể chịu
được nhiệt độ 1770oC.
Từ khóa: nhôm oxit, oxit titan, vật liệu xốp, luyện kim bột
Abstract
The highly porous alumina was prepared via powder metallurgy route from alumina powder using ammoni
bicarbonate (NH4)HCO3 and citric acid as the pore-forming agents and titanium dioxide as the sintering
additive. The results shown that a small amount of TiO2 (1%) led to a remarkble enhancement of the bonding
between alumina particles due to the formation of new phase Al2TiO5 on the alumina particles surface.
Consequently, the densification and the strength of the Al2O3-TiO2 sintered pellets were better than those of
Al2O3. The pore sizes determined through SEM observation have an average value of 190 m. The porosity
of the sintered samples increases with the concentration of the pore-forming agents and reaches the highest
value of 79.3 % corresponding to 80 vol.% ammonia bicarbonates used. The pore size could be controlled by
the particle size of the starting pore forming agents, from a few m to a few mm. The thermal resistance of the
porous alumina is higher than 1770oC.
Keywords: alumina, titanium dioxide, porous, powder metallurgy
1. Tổng quan*
Vật liệu cách nhiệt đóng vai trò rất quan trọng
trong thiết bị luyện kim. Cách nhiệt tốt không những
giúp đảm bảo điều kiện làm việc yêu cầu của thiết bị,
giảm thiểu tiêu hao năng lượng mà còn bảo vệ môi
trường xung quanh nguồn nhiệt [1]. Các vật liệu gốm
nói chung có tính ổn định nhiệt cao và độ dẫn nhiệt
thấp. Đây là các đặc tính rất quan trọng để ứng dụng
vật liệu gốm làm vật liệu cách nhiệt. Ngoài ra, nhờ đặc
tính bền hóa học, vật liệu gốm còn có thể sử dụng trong
các môi trường hóa học khác nhau.
Khả năng cách nhiệt của vật liệu không chỉ phụ
thuộc tính chất của vật liệu sử dụng mà còn phụ thuộc
rất lớn vào cấu trúc của vật liệu. So với vật liệu đặc, độ
dẫn nhiệt của vật liệu gốm còn thấp hơn ở cấu trúc xốp
* Địa chỉ liên hệ: Tel.: (+84) 912.098.484
Email: hai.leminh@hust.edu.vn
[2]. Trong đó, độ xốp (tỷ lệ phần trăm về thể tích xốp),
hình dáng, kích thước và cấu trúc xốp ảnh hưởng đáng
kể đến tính dẫn nhiệt của vật liệu [3]. Độ xốp cao sẽ
làm tăng khả năng cách nhiệt của vật liệu. Tuy nhiên,
nếu độ xốp quá cao sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến độ bền
của vật liệu.
Nhôm oxit là loại gốm kỹ thuật được sử dụng
rộng rãi do giá thành rẻ, có độ bền nhiệt cao, bền hóa
học và độ dẫn điện thấp. Trên thế giới, nhôm oxit xốp
được chế tạo bằng 3 kỹ thuật chính bao gồm kỹ thuật
thay thế/bản sao (replica), kỹ thuật mẫu cháy và kỹ
thuật tạo xốp trực tiếp [4]. Trong các kỹ thuật này, kỹ
thuật mẫu cháy có ưu điểm là độ xốp và kích thước lỗ
xốp có thể đễ dàng khống chế theo hàm lượng và kích
thước của chất tạo xốp ban đầu.
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 124 (2018) 057-062
58
Trong nhóm các phương pháp sử dụng kỹ thuật
mẫu cháy, phương pháp luyện kim bột được sử dụng
phổ biến do quy trình, nguyên công đơn giản, tổn hao
nguyên vật liệu ít, nhiệt độ thấp hơn so với các phương
pháp khác (ví dụ như phương pháp đúc) và thân thiện
với môi trường. Trong qui trình chế tạo vật liệu xốp
bằng phương pháp luyện kim bột, thông thường chất
tạo xốp được trộn với bột nguyên liệu ban đầu. Hỗn
hợp này sau đó được ép tạo hình và thiêu kết để tạo vật
liệu khối. Trong quá trình thiêu kết, chất tạo xốp bị
phân hủy hoặc bay hơi tạo thành vật liệu gốm xốp.
Hiện nay trên thế giới đã có các tài liệu khoa học công
bố về việc chế tạo vật liệu nhôm oxit xốp bằng phương
pháp luyện kim bột không sử dụng hoặc sử dụng các
chất tạo xốp khác nhau như hạt sáp nến, NaCl, hạt nhựa
PMMA, PVC, tinh bột [5]. Khi không sử dụng chất
tạo xốp, nhôm oxit xốp nhận được thường có độ xốp
thấp (<30%) dẫn đến độ truyền nhiệt của vật liệu giảm
không đáng kể [6].
Như ta biết, nhiệt độ thiêu kết của nhôm oxit cao
lên đến 1700oC [7]. Để tăng khả năng thiêu kết nhôm
oxit khối ở nhiệt độ thấp hơn (1500oC), có thể sử dụng
các phương pháp thiêu kết tiên tiến (thiêu kết xung
plasma [8], thiêu kết bằng sóng điện từ [9]), hoặc dùng
một số chất phụ gia có thể tạo ra các pha liên oxit hoặc
dung dịch rắn trong quá trình thiêu kết nhôm oxit như
các loại oxit kim loại khác nhau bao gồm CuO2, TiO2,
MgO và Cr2O3 [7,10]. Các công bố trên cho thấy chất
phụ gia chỉ với hàm lượng rất nhỏ (<0.5%) không
những tăng tính khả thiêu của nhôm oxit ở nhiệt độ
thấp hơn mà còn làm tăng đáng kể độ bền của vật liệu
gốm tạo thành. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công
bố về việc ứng dụng phụ gia thiêu kết để tổng hợp gốm
xốp nhôm oxit bằng phương pháp luyện kim bột. Như
đã đề cập ở trên, khi độ xốp càng tăng thì độ bền của
vật liệu càng giảm. Vì vậy, việc sử dụng phụ gia thiêu
kết trong qui trình chế tạo gốm xốp nhôm oxit nhằm
mục đích đảm bảo vật liệu vừa có độ xốp cao vừa có
độ bền cao.
Bài báo trình bày nghiên cứu chế tạo gốm xốp
nhôm oxit bằng phương pháp luyện kim bột với
nguyên liệu ban đầu bao gồm bột Al2O3, chất kết dính
Polyvinyl alcohol (PVA) 5%, chất tạo xốp ammoni
bicacbonat (NH4)HCO3 và chất phụ gia thiêu kết TiO2.
2. Qui trình thực nghiệm
Bột Al2O3, xuất xứ Trung Quốc, có độ sạch
99,5% , hạt bột có dạng phiến với kích thước hạt
trung bình 8 µm. Phụ gia thiêu kết sử dụng là bột TiO2,
xuất xứ Liên Xô, có độ sạch 99,9 % với kích thước
hạt trung bình 3 µm. Chất kết dính sử dụng là dung
dịch polyvinyl alcohol (PVA) hàm lượng 5% khối
lượng. Bột muối ammoni bicacbonat (NH4HCO3) và
axit citric C6H8O7 được sử dụng làm chất tạo xốp. Đây
là hợp chất hóa học có khả năng bay hơi hoàn toàn ở
nhiệt độ thấp 150oC. Các bột ban đầu được cân phối
liệu theo các tỷ lệ thành phần định trước bằng cân phân
tích điện tử với độ chính xác 0.001g. Để đánh giá ảnh
hưởng của phụ gia thiêu kết, mẫu không sử dụng phụ
gia thiêu kết được chế tạo với cùng một quy trình thực
ngiệm. Bột sau khi phối liệu được trộn đồng đều hóa
trong máy trộn tang trống với tỷ lệ bi:bột là 4:1 trong
thời gian 3h. Hỗn hợp bột sau khi trộn đồng đều hóa
được tạo hình bằng phương pháp ép đồng trục một
chiều trên máy ép thủy lực (Liên Xô) sử dụng khuôn
hợp kim cứng dạng hình trụ đường kính 20 mm với lực
ép lần lượt là 100, 200 và 300 MPa. Viên mẫu sau khi
ép được đưa vào lò điện trở Linn - HT1300 (Đức) để
nung bay chất tạo xốp ở nhiệt độ 200oC trong 2h.
Trong công đoạn này, chất tạo xốp muối ammoni
bicacbonat và axit citric bị bay hơi hoàn toàn theo phản
ứng (1) và (2).
NH4HCO3 → NH3 + CO2 + H2O (1)
C6H8O7 → CO2 + H2O (2)
Các mẫu sau khi nung bay chất tạo xốp được
chuyển sang lò điện trở Linn - HT1600 (Đức) để thiêu
kết ở nhiệt độ 1550oC trong 4h. Tốc độ nâng nhiệt 5oC/
phút và môi trường thiêu kết là khí argon.
Tỷ trọng, độ xốp của mẫu sau thiêu kết được xác
định bằng phương pháp cân thủy tĩnh theo tiêu chuẩn
TCVN 6530-1:1999 tại Trung tâm kiểm định Vật liệu
xây dựng (VILAS 003). Cấu trúc xốp, hình dáng và
kích thước lỗ xốp được tiến hành kiểm tra bằng máy
hiển vi điện tử quét JOEL (Viện AIST – Trường
ĐHBKHN). Độ bền nén và độ bền uốn của mẫu gốm
xốp được xác định bằng máy đo MTS (PTN Công nghệ
Vật liệu Kim loại – Viện KHKTVL – Trường
ĐHBKHN) theo tiêu chuẩn đo JIS-R 1608-2003 và
JIS-R 1664-2004 của Nhật.
3. Kết quả và thảo luận
Ảnh hiển vi điện tử quét (SEM) của các mẫu gốm
nhôm oxit thiêu kết ở nhiệt độ 1550oC trong 4h không
sử dụng phụ gia thiêu kết và có sử dụng phụ gia thiêu
kết Al2O3-1,0%TiO2 và phổ tán xạ năng lượng tia X
tương ứng được trình bày ở hình 1. Kết quả ảnh chụp
SEM các mẫu cho ta thấy đối với mẫu không sử dụng
phụ gia thiêu kết (hình 1a) các hạt bột liên kết rời rạc
và không có liên kết ở biên giới các hạt bột. Khi các
phụ gia thiêu kết được sử dụng, 1,0% TiO2 (hình 1b)
ta thấy có sự liên kết rõ ràng tại biên giới các hạt bột.
Kết quả này cho thấy sự hiệu quả khi sử dụng TiO2 làm
phụ gia thiêu kết Al2O3. Sự tăng khả năng thiêu kết khi
sử dụng TiO2 được giải thích thông qua việc hình thành
các pha trung gian trên bề mặt các hạt bột thông qua
các phản ứng pha rắn trong quá trình thiêu kết. Giản
đồ pha của Al2O3 và TiO2 cho thấy các oxit này có khả
năng thành pha Al2TiO5 trong quá trình thiêu kết. Việc
hình thành pha liên oxit này dẫn đến làm tăng khả năng
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 124 (2018) 057-062
59
liên kết tại biên giới các hạt bột nhôm oxit. Kết quả
chụp phổ tán xạ năng lượng tia X (EDS) (hình 1c) thực
hiện tại vùng biên giới hạt (đánh dấu vuông trên các
ảnh SEM) đã cho thấy sự có mặt của các nguyên tố Ti
khi sử dụng phụ gia thiêu kết TiO2. Bên cạnh đó, việc
hình thành pha Al2TiO5 còn được chứng minh thông
qua sự thay đổi màu sắc của các mẫu sau khi thiêu kết.
Mẫu không sử dụng phụ gia thiêu kết có màu trắng
trong khi đó mẫu Al2O3-1,0% TiO2 có màu xanh đậm
tương ứng với màu của pha Al2TiO5 đã được chứng
minh trong các công bố trước đây [11].
Hình 1. Ảnh hiển vi điện tử quét của các mẫu gốm
nhôm oxit thiêu kết ở nhiệt độ 1500oC trong 4h (a)
không sử dụng phụ gia thiêu kết và có sử dụng phụ gia
thiêu kết (b) TiO2, (c) phổ tán xạ năng lượng tia X
tương ứng.
Kết quả đo độ xốp và độ bền của các mẫu gốm
nhôm oxit sau thiêu kết cho thấy sự có mặt của phụ gia
thiêu kết TiO2 làm giảm độ xốp và làm tăng đáng kể
độ bền uốn và độ bền nén so với mẫu không sử dụng
phụ gia thiêu kết. Độ xốp của mẫu giảm từ 393 xuống
còn 29 2%, độ bền nén tăng từ 66,2 lên đến 368,5
MPa và độ bền uốn tăng từ 45,2 lên đến 128,3 MPa.
Ảnh hiển vi điện tử quét (SEM) của mẫu gốm xốp
nhôm oxit với phụ gia thiêu kết 1,0% TiO2 và 50% thể
tích chất tạo xốp (NH4)HCO3 được trình bày trên hình
2a. Kết quả cho thấy các lỗ xốp có hình dạng phức tạp,
phân bố đồng đều và có kích thước trung bình 190 m.
Hình dạng và kích thước lỗ xốp hoàn toàn khác biệt so
với hình dạng (cầu) và kích thước của chất tạo xốp sử
dụng (120 m). Hiện tượng này có thể giải thích do
các hiện tượng xảy ra trong quá chế tạo như sự tích tụ
của các hạt chất tạo xốp trong quá trình trộn, lực đẩy
do tăng áp suất trong quá trình bay hơi chất tạo xốp
hoặc do sự co ngót của mẫu trong quá trình thiêu kết.
Khi tăng hàm lượng chất tạo xốp từ 50 lên 80 % thể
tích (Hình 2b), ta thấy mật độ lỗ xốp tăng lên và các lỗ
xốp liên thông với nhau.
Hình 2. Ảnh hiển vi điện tử quét (SEM) của mẫu gốm
xốp nhôm oxit sau thiêu kết với phụ gia thiêu kết 1%
TiO2 và hàm lượng chất tạo xốp (NH4)HCO3 (a) 50%
và (b) 80% thể tích
(a)
(b)
(c)
(a)
(b)
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 124 (2018) 057-062
60
Hình 3a trình bày ảnh hưởng của hàm lượng chất
tạo xốp (NH4)HCO3 đến độ xốp thực, hàm lượng xốp
kín và xốp hở của mẫu gốm xốp nhôm oxit sử dụng
1,0% TiO2 làm phụ gia thiêu kết. Kết quả cho thấy các
mẫu gốm xốp đều có cấu trúc xốp hỗn hợp (bao gồm
cả lỗ xốp kín và lỗ xốp hở) và lỗ xốp hở chiếm phần
lớn. Hàm lượng chất tạo xốp tỷ lệ thuận với độ xốp của
mẫu. Khi tăng hàm lượng chất tạo xốp từ 0 đến 80%
thể tích, độ xốp thực của mẫu tăng từ 28,9% lên đến
79,3%. Độ bền của gốm xốp tỷ lệ nghịch với độ xốp
của mẫu. Khi độ xốp của mẫu tăng 29,8% lên đến
78,3% tương ứng với hàm lượng chất tạo xốp sử dụng
từ 0 đến 80 vol.% thì độ bền nén của mẫu giảm từ 368,5
xuống còn 1,4 MPa và độ bền uốn của mẫu giảm từ
128,8 xuống còn 29,0 MPa (Hình 3b).
Hình 3. Ảnh hưởng của hàm lượng chất tạo xốp
(NH4)HCO3 đến (a) độ xốp và (b) độ bền của mẫu gốm
xốp với phụ gia thiêu kết 1,0% TiO2
Bên cạnh ammoni bicacbonat (NH4)HCO3, axit
citric C6H8O7 cũng được sử dụng làm chất tạo xốp với
mục đích khảo sát ảnh hưởng của kích thước chất tạo
xốp đến cấu trúc và hình thái lỗ xốp tạo thành trong vật
liệu do kích thước hạt trung bình của axit citric C6H8O7
sử dụng là 1000 m, gấp gần 10 lần so với kích thước
hạt trung bình của ammoni bicacbonat (NH4)HCO3 là
120 m. Hình 4 trình bày ảnh hiển vi điện tử quét
(SEM) của các mẫu gốm xốp nhôm oxit với phụ gia
thiêu kết 1,0% TiO2 hàm lượng chất tạo xốp axit citric
C6H8O7 30 vol.%. Kết quả cho ta thấy cũng giống như
khi sử dụng chất tạo xốp là ammoni bicacbonat
(NH4)HCO3, lỗ xốp có hình dạng phức tạp. Tuy nhiên,
khi sử dụng axit citric C6H8O7 làm chất tạo xốp thì kích
thước lỗ xốp phân bố không đồng đều từ 100 lên tới
1000 m. Kết quả đo độ xốp và đo độ bền cho thấy
mẫu có giá trị độ xốp thực và độ bền nén tương đương
với các mẫu tương ứng sử dụng ammoni bicacbonat
làm chất tạo xốp ở cùng một hàm lượng chất tạo xốp
là 30 vol.%. Tuy nhiên, khi tăng hàm lượng chất tạo
xốp axit citric C6H8O7 lên lớn hơn 30% thể tích, các
mẫu bị phá hủy hoàn toàn sau quá trình nung bay chất
tạo xốp. Hiện tượng này có thể giải thích là do kích
thước hạt của chất tạo xốp lớn dẫn đến sự thay đổi áp
suất lớn trong thể tích của mẫu trong quá trình nung
bay chất tạo xốp gây nên phá hủy mẫu trong quá trình
nung.
Hình 4. Ảnh hiển vi điện tử quét (SEM) của mẫu gốm
xốp nhôm oxit sau thiêu kết với phụ gia thiêu kết 1,0%
TiO2, hàm lượng chất tạo xốp C6H8O7 50%
Lực ép là một thông số công nghệ quan trọng
trong qui trình chế tạo vật liệu bằng phương pháp luyện
kim bột vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến tính chất của sản
phẩm. Ảnh hưởng của lực ép đến tính chất của gốm
xốp nhôm oxit được khảo sát trước hết với các mẫu
không sử dụng chất tạo xốp và tiếp theo với các mẫu
có sử dụng chất tạo xốp ammoni bicacbonat
(NH4)HCO3 với các hàm lượng khác nhau.
Hình 5a, 5b và 5c trình bày ảnh hưởng của lực ép
đến độ xốp thực, độ bền nén và độ bền uốn của các
mẫu gốm xốp nhôm oxit không sử dụng phụ gia thiêu
kết, có sử dụng phụ gia thiêu kết 1,0% TiO2. Kết quả
nhận được cho thấy xu hướng thay đổi giống nhau của
độ xốp thực, độ bền nén và độ bền uốn khi tăng lực ép
từ 100 đến 300 MPa đối với tất cả các mẫu khảo sát.
0
20
40
60
80
100
0 30 50 60 70 80
Đ
ộ
x
ố
p
(
%
)
Hàm lượng CTX (NH4)HCO3 ( vol.%)
Độ xốp
Độ xốp hở
Độ xốp kín
0
50
100
150
200
250
300
350
400
0 30 50 60 70 80
Đ
ộ
b
ền
(
M
P
a
)
Hàm lượng CTX (NH4)HCO3 ( vol.%)
Độ bền nén
Độ bền uốn
(a)
(a)
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 124 (2018) 057-062
61
Hình 5. Ảnh hưởng của lực ép đến (a) độ xốp thực, (b)
độ bền nén và (c) độ bền uốn của mẫu gốm xốp nhôm
oxit thiêu kết ở nhiệt độ 1550oC trong 4h không sử
dụng và có sử dụng phụ gia thiêu kết 1,0% TiO2.
Khi tăng lực ép từ 100 lên 200 MPa, độ xốp của
các mẫu đều giảm đáng kể, ví dụ như mẫu không sử
dụng phụ gia thiêu kết độ xốp giảm từ 45,0% xuống
còn 38,4%. Độ bền nén và độ bền uốn của các mẫu đều
tăng đáng kể khi tăng lực ép từ 100 lên 200 MPa. Hiện
tượng này có thể giải thích là do tăng lực ép từ 100 lên
200 MPa các hạt bột có xu hướng sắp xếp lại và điền
đầy các khe hở lớn giữa các hạt bột. Điều đó làm giảm
đáng kể độ xốp và làm tăng độ bền của mẫu.
Hình 6: Ảnh hưởng của lực ép đến (a) độ xốp thực, (b)
độ bền nén và (c) độ bền uốn của mẫu gốm xốp thiêu
kết ở nhiệt độ 1550oC trong 4h sử dụng phụ gia thiêu
kết 1,0% TiO2 với hàm lượng chất tạo xốp (NH4)HCO3
khác nhau 30 và 50% thể tích.
0
20
40
60
80
100
100 200 300
Đ
ộ
x
ố
p
(
%
)
Lực ép (MPa)
Al2O3
A2O3 - 1,0%TiO2
0
50
100
150
200
250
100 200 300
Đ
ộ
b
ền
n
én
(
M
P
a
)
Lực ép (MPa)
Al2O3
A2O3 - 1,0%TiO2
0
200
400
600
800
100 200 300
Đ
ộ
b
ền
n
én
(
M
P
a
)
Lực ép (MPa)
Al2O3
A2O3 - 1,0%TiO2
0
20
40
60
80
100
100 200 300
Đ
ộ
x
ố
p
(
%
)
Lực ép (MPa)
30 vol.% (NH4)HCO3
50 vol.% (NH4)HCO3
0
20
40
60
80
100
120
140
100 200 300
Đ
ộ
b
ền
n
én
(
M
P
a
)
Lực ép (MPa)
30 vol.% (NH4)HCO3
50 vol.% (NH4)HCO3
0
20
40
60
80
100
120
140
100 200 300
Đ
ộ
b
ền
u
ố
n
(
M
P
a
)
Lực ép (MPa)
30 vol.% (NH4)HCO3
50 vol.% (NH4)HCO3
(a)
(b)
(c)
(a)
(b)
(c)
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 124 (2018) 057-062
62
Khi tăng lực ép từ 200 lên 300 MPa thì độ xốp
giảm không đáng kể nhưng độ bền nén và độ bền uốn
đều tăng đáng kể, ví dụ như mẫu Al2O3-1,0% TiO2, độ
xốp thực của mẫu chỉ giảm từ 38,8 xuống 37,7% nhưng
độ bền của mẫu tăng từ 82,0 lên đến 112,9 MPa. Hiện
tượng này có thể giải thích là ở giai đoạn khi tăng lực
ép từ 200 lên 300 MPa gần như sự sắp xếp lại của các
hạt bột rất nhỏ nên không có sự thay đổi mạnh về giá
trị độ xốp giống như ở giai đoạn trước. Tuy nhiên, lực
ép tăng trong giai đoạn này làm tăng mật độ và khả
năng tiếp xúc giữa các hạt bột làm cho quá trình
khuếch tán tạo liên kết diễn ra thuận lợi hơn trong quá
trình thiêu kết, qua đó làm tăng đáng kể độ bền của
mẫu.
Hình 6a, 6b và 6c trình bày ảnh hưởng của lực ép
đến độ xốp thực, độ bền nén và độ bền uốn của các
mẫu gốm xốp nhôm oxit sử dụng phụ gia thiêu kết
1,0% TiO2 với các hàm lượng chất tạo xốp ammoni
bicacbonat (NH4)HCO3 khác nhau 30 và 50% thể tích.
Kết quả cho thấy ảnh hưởng của lực ép đến độ xốp và
độ bền của mẫu có xu hướng tương tự như đối với các
mẫu không sử dụng chất tạo xốp thảo luận ở phần trên
đó là: Khi tăng lực ép từ 100 lên 200 MPa, độ xốp thực
của các mẫu giảm đáng kể, độ bền nén và độ bền uốn
của mẫu đều tăng mạnh. Khi tăng lực ép từ 200 lên 300
MPa, độ xốp của các mẫu giảm nhẹ nhưng độ bền nén
và độ bền uốn tăng đáng kể.
Độ chịu nhiệt của các mẫu gốm xốp được xác
định bằng phương pháp côn mẫu thử theo TCVN
6530-1:1999. Các mẫu tiến hành đo bao gồm các mẫu
gốm xốp nhôm oxit thiêu kết ở nhiệt độ 1550oC trong
4h không sử dụng và có sử dụng phụ gia thiêu 1,0%
TiO2, và các mẫu có sử dụng chất tạo xốp với hàm
lượng ammoni bicacbonat (NH4)HCO3 50 vol.%. Kết
quả đo cho thấy khi nhiệt độ của thiết bị đo đạt giá trị
tới hạn ở 1770oC góc nghiêng của côn thử không thay
đổi đối với tất cả các mẫu đo, điều đó chứng minh khả
năng bền nhiệt của các mẫu gốm xốp nhôm oxit là
1770oC.
4. Kết luận
TiO2 sử dụng làm phụ gia thiêu kết làm tăng đáng
kể khả năng thiêu kết của nhôm oxit ở nhiệt độ 1550oC
qua đó làm tăng đáng kể cơ tính của sản phẩm gốm xốp
Al2O3. Gốm xốp nhôm oxit chế tạo bằng phương pháp
luyện kim bột sử dụng ammoni bicacbonat NH4HCO3
và axit citric C6H8O7 làm chất tạo xốp có cấu trúc xốp
hỗn hợp (kín và hở) trong đó hàm lượng lỗ xốp hở
chiếm phần lớn. Lỗ xốp có hình dạng phức tạp và phân
bố đều trong toàn bộ thể tích mẫu, kích thước lỗ xốp
trung bình 190 m (khi sử dụng ammoni bicacbonat
NH4HCO3 làm chất tạo xốp. Độ xốp của vật liệu tăng
tỷ lệ thuận với hàm lượng chất tạo xốp sử dụng và đạt
tối đa 79,3%. Độ bền uốn và độ bền nén tỷ lệ nghịch
với độ xốp của mẫu. Kích thước hạt của chất tạo xốp
ban đầu tăng làm kích thước lỗ xốp tăng tuy nhiên hàm
lượng chất tạo xốp sử dụng bị hạn chế. Độ chịu lửa của
gốm xốp nhôm oxit 1770oC.
Lời cảm ơn
Các tác giả chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của TS.
Đỗ Minh Đức trong việc xác định độ bền của các mẫu
đo. Nghiên cứu sử dụng kinh phí của đề tài cấp trường
Đại học Bách Khoa Hà Nội T2016-PC-151.
Refrences
[1] E.C. Hammel, O.L.-R. Ighodaro, O.I. Okoli,
Processing and properties of advanced porous
ceramics: An application based review, Ceram. Int. 40
(2014) 15351–15370.
[2] I.Y. Guzman, Certain Principles of Formation of
Porous Ceramic Structures. Properties and
Applications (A Review), Glass Ceram. 60 (2003)
280–283.
[3] D. Li, M. Li, Porous Y2SiO5 Ceramic with Low
Thermal Conductivity, J. Mater. Sci. Technol. 28
(2012) 799–802.
[4] A.R. Studart, U.T. Gonzenbach, E. Tervoort, L.J.
Gauckler, Processing Routes to Macroporous
Ceramics: A Review, J. Am. Ceram. Soc. 89 (2006)
1771–1789.
[5] E. Chevalier, D. Chulia, C. Pouget, M. Viana,
Fabrication of porous substrates: a review of processes
using pore forming agents in the biomaterial field, J.
Pharm. Sci. 97 (2008) 1135–1154.
[6] T. Ohji, M. Fukushima, Macro-porous ceramics:
processing and properties, Int. Mater. Rev. 57 (2012)
115–131.
[7] L.A. Xue, I.-W. Chen, Low-Temperature Sintering of
Alumina with Liquid-Forming Additives, J. Am.
Ceram. Soc. 74 (1991) 2011–2013.
[8] Z. Shen, M. Johnsson, Z. Zhao, M. Nygren, Spark
Plasma Sintering of Alumina, J. Am. Ceram. Soc. 85
(2002) 1921–1927.
[9] S.-T. Oh, K. Tajima, M. Ando, T. Ohji, Fabrication of
porous Al2O3 by microwave sintering and its
properties, Mater. Lett. 48 (2001) 215–218.
[10] [I.B. Cutler, C. Bradshaw, C.J. Christensen, E.P. Hyatt,
Sintering of Alumina at Temperatures of 1400°C and
Below, J. Am. Ceram. Soc. 40 (1957) 134–139.
[11] J.J. Kanga, B.S.Xub, H.D. Wang, C.B. Wanga,
Influence of Spraying Parameters on the
Microstructure and Properties of Plasma-sprayed
Al2O3/40%TiO2 Coating, Physics Procedia Volume
50 (2013) 169–176.
[12] A. Azarniya , A. Azarniya, H. R. Hosseinia, Abdolreza
Simchib, Mechanical and thermal properties of highly
porous Al2TiO5–Mullite ceramics, Ceramics
International, Volume 42, Issue 2, Part B (2016) 3548–
3555
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 124 (2018) 057-062
63
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 010_17_014_ol_3326_2095462.pdf