Thứ ba, quy định chấm dứt hoạt động của
tổ chức hành nghề luật sư.
Theo quy định tại Điều 47 Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Luật sư, tổ chức
hành nghề luật sư chỉ chấm dứt hoạt động
trong 5 trường hợp, (1) tự chấm dứt hoạt
động; (2) bị thu hồi giấy đăng ký hoạt động;
(3) tất cả thành viên bị thu hồi chứng chỉ hành
nghề luật sư; (4) công ty bị hợp nhất, bị sát
nhập; (5) trưởng văn phòng luật sư, giám đốc
công ty luật TNHH một thành viên chết.
Trong đó, tổ chức hành nghề luật sư bị thu hồi
giấy đăng ký hoạt động khi thuộc các trường
hợp được quy định tại Điều 17 Nghị định
123/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 quy định
chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật
Luật sư. Tuy nhiên, trong quá trình thi hành,
có những trường hợp tổ chức hành nghề luật
sư mặc dù bị xử phạt hành chính nhiều lần vì
vi phạm trong quá trình hành nghề như thay
đổi trụ sở không thông báo, hợp đồng dịch vụ
pháp lý không tuân thủ đầy đủ quy định tại
Luật Luật sư, không mua bảo hiểm cho luật
sư, hoạt động không đúng phạm vi hoạt động
quy định trong Luật Luật sư hoặc bị xử phạt
hành chính nhiều lần do vi phạm pháp luật
khác. nhưng vẫn tồn tại, tiếp tục hoạt động
do không rơi vào các trường hợp bị thu hồi
giấy đăng ký hoạt động. Điều này khiến cho
việc xử phạt trở nên không hiệu quả, các tổ
chức hành nghề luật sư tiếp tục vi phạm.
Chính vì vậy, chúng tôi cho rằng cần mở rộng
các trường hợp thu hồi giấy đăng ký hoạt
động như đã bị xử phạt hành chính nhiều lần
vì vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tư pháp
hoặc lĩnh vực khác; hoạt động không đúng
phạm vi hoạt động Luật Luật sư đã quy định.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 231 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tổng quan pháp luật về luật sư - Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Soá chuyeân ñeà “Luaät sö vaø ñaïo ñöùc ngheà luaät sö”
11
TỔNG QUAN PHÁP LUẬT VỀ LUẬT SƯ - MỘT SỐ BẤT CẬP
VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
Tống Thị Thanh Thanh1
Tóm tắt: Pháp luật về luật sư là một hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh về luật sư
và hành nghề luật sư tại Việt Nam. Mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần, hệ thống pháp
luật luật sư ngày càng phát triển, góp phần phát triển đội ngũ luật sư cũng như nghề luật sư ở
Việt Nam. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng, thi hành, hệ thống pháp luật luật sư đã bộc lộ
những hạn chế, thiếu sót cần sửa đổi, bổ sung như tiêu chuẩn điều kiện về luật sư, nghĩa vụ bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, chấm dứt hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư.
Từ khóa: Pháp luật luật sư; tiêu chuẩn luật sư; bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ luật sư.
Nhận bài: 10/05/2018; Hoàn thành biên tập: 23/05/2018; Duyệt đăng: 26/07/2018.
Abstract: the law on lawyer profession is a system of legal documents regulating lawyer and
lawyer practicing in Vietnam.Though being amended, supplemented many times, the legal system
of lawyer profession is more and more developed, contributing to the development of lawyer
contingent as well as laywer profession in Vietnam.However, in the reality of application and
enforcement, limitations, shortcomings to be amended, supplemented have been found in the
legal system of lawyer profession such as standards, conditions of lawyer, compulsory
re-training, termination of lawyer practicing organizations.
Keywords: the law on lawyer profession, lawyer standards; retraining on lawyer profession.
Date of receipt: 10/05/2018; Date of revision: 23/05/2018; Date of approval: 26/07/2018.
1. Tổng quan pháp luật về luật sư
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công
đến trước năm 1987, mặc dù Hiến pháp đã ghi
nhận quyền bào chữa của bị cáo nhưng pháp
luật về luật sư chỉ được quy định chủ yếu dưới
dạng các sắc lệnh, thông tư: Sắc lệnh 46/SL
ngày 10/10/1945, Sắc lệnh 217/SL ngày
21/01/1946, Sắc lệnh 69/SL ngày 18/6/1949,
Thông tư 691/QLTPK ngày 31/10/1983... Hệ
thống pháp luật điều chỉnh về luật sư gần như
không phát triển, ngoài một số sắc lệnh được
ban hành trong thời gian từ 1946 đến 1949 quy
định về luật sư, văn phòng luật sư còn các văn
bản pháp luật ban hành sau này chủ yếu tập
trung điều chỉnh về quyền bào chữa của bị can,
bị cáo.
Đến năm 1980, khi Điều 133 Hiến pháp
năm 1980 quy định: “Tổ chức luật sư được
thành lập để giúp bị cáo và đương sự khác về
mặt pháp lý” đã tạo cơ sở pháp lý cho việc xây
dựng một văn bản pháp luật về tổ chức luật sư
ở Việt Nam. Cụ thể, Pháp lệnh Tổ chức luật sư
được thông qua ngày 18/12/1987, đây là văn
bản pháp luật tương đối hoàn chỉnh quy định
về tổ chức và hoạt động luật sư, đánh dấu một
bước phát triển quan trọng trong việc hình
thành đội ngũ luật sư ở Việt Nam. Tuy nhiên,
sau 04 năm thi hành, Ủy ban thường vụ Quốc
hội đã thông qua Pháp lệnh Luật sư thay thế
cho Pháp lệnh Tổ chức luật sư. Pháp lệnh mới
quy định về tổ chức luật sư và hành nghề luật
sư bao gồm: điều kiện hành nghề luật sư, hình
thức tổ chức hành nghề luật sư, thù lao luật sư,
quản lý hành nghề luật sư, khen thưởng, xử lý
vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo về tổ
chức luật sư và hành nghề luật sư. Việc ban
hành Pháp lệnh thay thế là bước tiến quan
trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện
1 Thạc sỹ, Trưởng bộ môn Luật sư và nghề luật sư, Học viện Tư pháp
NGHIEÂN CÖÙU - TRAO ÑOÅI
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
12
thể chế luật sư ở nước ta, đưa chế định luật sư
của nước ta xích gần với thông lệ quốc tế.
Đến năm 2006, trước yêu cầu của tình
hình mới, đặc biệt là quyết tâm của Việt Nam
trong việc sớm gia nhập WTO, thì việc ban
hành Luật Luật sư, một văn bản quy phạm
pháp luật có hiệu lực pháp lý cao, điều chỉnh
thống nhất về hành nghề luật sư của luật sư
Việt Nam và luật sư nước ngoài tại Việt Nam là
một yêu cầu cấp thiết. Tại kỳ họp thứ 9 Quốc
hội khóa XI đã thông qua Luật Luật sư. Luật
Luật sư năm 2006 gồm 9 chương, 94 điều và
có hiệu lực từ ngày 01/01/2007.
Sau khi Luật Luật sư năm 2006 có hiệu lực,
một loạt các văn bản hướng dẫn thi hành được
cơ quan chức năng ban hành như: Nghị định
số 28/2007/NĐ-CP ngày 26/2/2007 quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều luật
của Luật Luật sư; Nghị định số 131/2008/NĐ-
CP ngày 31/12/2008 hướng dẫn thi hành các
quy định của Luật Luật sư về tổ chức xã hội -
nghề nghiệp của luật sư; Nghị định 77/2008/NĐ-
CP ngày 16/07/2008 của Chính phủ về tư vấn
pháp luật; Thông tư 02/2007/TT-BTP của Bộ
Tư pháp ngày 25/4/2007 về việc hướng dẫn
một số quy định của Luật Luật sư; Thông tư
21/2010/TT-BTP ngày 01/12/2010 về Quy chế
tập sự hành nghề luật sư; Thông tư
17/2011/TT-BTP ngày 14/10/2011 của Bộ Tư
pháp về việc hướng dẫn một số quy định của
Luật Luật sư, Nghị định quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Luật
sư, Nghị định hướng dẫn và thi hành các quy
định của Luật Luật sư về tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của luật sư; Thông tư 02/2012/TT-BTC
ngày 05/01/2012 quy định chế độ thu, nộp,
quản lý và sử dụng lệ phí trong lĩnh vực hoạt
động hành nghề luật sư tại Việt NamCó thể
nói, trong 5 năm (từ 2007 đến 2012), hệ thống
pháp luật luật sư đã có sự phát triển vượt bậc,
pháp luật luật sư thực sự đã đi vào cuộc sống
và mang lại nhiều kết quả đem lại những thay
đổi rất lớn cho nghề luật sư ở Việt Nam. Tuy
nhiên, sự phát triển đột biến về số lượng luật sư
và tổ chức hành nghề luật sư đã bộc lộ nhiều
điểm bất cập, hạn chế, một số quy định của
Luật Luật sư và văn bản hướng dẫn đã không
còn phù hợp với thực tiễn. Một số quy định của
Luật Luật sư còn chưa phù hợp với các cam kết
của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức thương mại
thế giới, còn thiếu quy định thu hút luật sư
nước ngoài, tổ chức hành nghề luật sư nước
ngoài có kinh nghiệm, uy tín vào Việt Nam.
Trước yêu cầu thực tiễn của hoạt động luật
sư và đê ̉tiếp tục thể chế hóa quan điểm chỉ đạo
của Bộ Chính trị tại Nghị quyết số 48-NQ/TW
ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến
lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020, tạo
cơ sở pháp lý vững chắc nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động luật sư, đáp ứng tốt
hơn yêu cầu ngày càng cao của công cuộc cải
cách pháp luật, cải cách tư pháp và hội nhập
kinh tế quốc tế, Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Luật sư đã được Quốc hội nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa
XIII, kỳ họp thứ tư thông qua ngày 20/11/2012
và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2013.
2. Một số bất cập, hạn chế của pháp luật
về luật sư hiện nay và kiến nghị hoàn thiện
Sau hơn 5 năm thi hành Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Luật sư và các văn
bản hướng dẫn thi hành, bên cạnh những điểm
thành công, pháp luật luật sư cũng đã bộc lộ
những hạn chế, bất cập cần tiếp tục sửa đổi, bổ
sung cho phù hợp với điều kiện, tình hình phát
triển của kinh tế, xã hội hiện nay.
Thứ nhất, quy định về điều kiện, tiêu
chuẩn trở thành luật sư; cấp lại chứng chỉ hành
nghề luật sư.
Theo quy định của pháp luật luật sư, công
dân Việt Nam có tiêu chuẩn trung thành với Tổ
quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có
phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật,
Soá chuyeân ñeà “Luaät sö vaø ñaïo ñöùc ngheà luaät sö”
13
đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian
tập sự hành nghề luật sư, có sức khỏe bảo đảm
hành nghề thì có thể trở thành luật sư. Trong
một số trường hợp đặc biệt như công chức,
viên chức... bị buộc thôi việc, người bị thu hồi
chứng chỉ hành nghề luật sư, ngoài việc có đủ
tiêu chuẩn trên thì sau 3 năm kể từ ngày bị
buộc thôi việc, bị thu hồi chứng chỉ hành nghề
mới có thể trở thành luật sư. Ngoài ra, những
người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở
giáo dục bắt buộc cũng không thể trở thành
luật sư.
Tuy nhiên, khi áp dụng quy định về tiêu
chuẩn luật sư, có nhiều ý kiến cho rằng, quy
định quá chung chung, không rõ ràng khiến
việc áp dụng vừa dễ vừa khó. Trên thực tế, một
số cá nhân mặc dù có tiền sự, đã bị xử phạt
hành chính trong lĩnh vực tư pháp, trật tự an
toàn xã hội... vẫn có thể trở thành luật sư. Bởi
vì theo quy định tại khoản 1 Điều 17 Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư thì
hồ sơ cấp chứng chỉ hành nghề luật sư chỉ cần
đơn đề nghị, phiếu lý lịch tư pháp, giấy chứng
nhận sức khỏe, bản sao bằng cử nhân luật hoặc
bản sao bằng thạc sỹ luật, bản sao giấy chứng
nhận kết quả tập sự hành nghề luật sư. Vì vậy,
chỉ cần phiếu lý lịch tư pháp xác định không
có tiền án có nghĩa người đó đã tuân thủ Hiến
pháp, pháp luật và đồng nghĩa cũng có phẩm
chất đạo đức tốt. Ngoài ra, chính khoản 1 Điều
17 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Luật sư quy định có bản sao bằng thạc sỹ luật
cũng dẫn đến có ý kiến có bằng cử nhân luật
hoặc bằng thạc sỹ luật đều được. Để tránh có
sự hiểu không đúng và tạo sự thống nhất, đề
nghị bỏ quy định bản sao bằng thạc sỹ luật
trong quy định khoản 1 Điều 17 Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Luật sư.
Bên cạnh đó, pháp luật luật sư cho phép
các công chức, viên chức nhà nước bị buộc
thôi việc có thể trở thành luật sư sau 3 năm
khiến cho xã hội nhìn nhận về nghề luật sư
chưa đúng khi mà nghề luật sư còn đang non
trẻ, đang cố gắng tạo dựng uy tín, ảnh hưởng
trong xã hội. Nếu một công chức hoạt động
trong ngành tư pháp như thẩm phán, kiểm sát
viên, điều tra viên, chấp hành viên... bị buộc
thôi việc vì hành vi nhũng nhiễu, nhận hối lộ,
bức cung, nhục hình hay vì không đủ năng
lực chuyên môn... mà lại trở thành luật sư thì
chất lượng, đạo đức của nghề luật sư sẽ ra
sao. Ngoài ra, chính Luật cán bộ, công chức
và Luật viên chức cũng quy định không chấp
nhận trường hợp bị buộc thôi việc được tuyển
dụng trở lại. Phải chăng luật sư là một nghề
tự do, nghề bổ trợ tư pháp nên tiêu chuẩn
cũng cần phải thấp hơn, dễ hơn so với công
chức, viên chức nhà nước, người tiến hành
tố tụng.
Về cấp lại chứng chỉ hành nghề luật sư,
điểm a khoản 3 Điều 19 Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều Luật Luật sư cho phép cấp lại
chứng chỉ hành nghề luật sư đối với người bị
xử lý kỷ luật bằng hình thức xóa tên khỏi danh
sách luật sư của Đoàn luật sư sau thời hạn 3
năm là không hợp lý. Việc xóa tên khỏi danh
sách Đoàn luật sư là hình thức kỷ luật nghiêm
khắc nhất, áp dụng trong những trường hợp
luật sư sai phạm làm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến nghề luật sư. Vậy mà sau 3 năm không cần
phải thay đổi hay khắc phục gì họ có quyền
quay lại hành nghề, điều này, khiến cho tình
trạng luật sư vi phạm pháp luật luật sư, đạo đức
và ứng xử nghề luật sư ngày càng tăng, tính răn
đe, phòng ngừa của chế tài trong pháp luật luật
sư còn thấp.
Tiêu chuẩn luật sư cũng là một trong các
căn cứ để xem xét không cấp, thu hồi hoặc cấp
lại chứng chỉ hành nghề luật sư chính vì vậy
cần thiết phải có quy định hướng dẫn cụ thể về
các tiêu chuẩn luật sư để việc áp dụng được
thống nhất, minh bạch cũng như đảm bảo đầu
vào đội ngũ luật sư không chỉ đảm bảo về
chuyên môn mà còn đảm bảo cả về phẩm chất
đạo đức.
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
14
Thứ hai, quy định về nghĩa vụ tham gia bồi
dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của luật sư.
Để hướng dẫn cụ thể về nghĩa vụ tham gia
bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của luật sư,
Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư 10/2014/TT-
BTP ngày 07/04/2014 (Thông tư 10/2014/TT
– BTP). Tuy nhiên, sau gần 04 năm thi hành,
nhận thấy việc tham gia bồi dưỡng chuyên
môn, nghiệp vụ của luật sư được thực hiện
chưa nghiêm, tình trạng luật sư không tham
gia, tham gia không đủ thời gian còn tồn tại;
việc miễn, giảm còn tùy tiện; việc xử lý vi
phạm chưa nhiều... Một trong những nguyên
nhân của thực trạng trên, đó là quy định pháp
luật chưa phù hợp, khó áp dụng. Cụ thể:
Mặc dù pháp luật cho phép các tổ chức hành
nghề luật sư tổ chức các lớp bồi dưỡng, tuy
nhiên, việc tổ chức phải có ý kiến thống nhất
của Liên đoàn Luật sư Việt Nam về nội dung
chương trình, tài liệu, kế hoạch và Bộ Tư pháp
cho ý kiến, xem xét khi bồi dưỡng về kỹ năng
hành nghề luật sư chuyên sâu, quản trị tổ chức
hành nghề, đạo đức và ứng xử luật sư. Quy định
trên là chưa hợp lý vì thành viên các ban chuyên
môn của Liên đoàn là kiêm nhiệm và không
hoạt động thường xuyên. Ngoài ra, khoảng cách
địa lý là rào cản đối với tổ chức hành nghề luật
sư ở các địa phương. Chính vì vậy, chúng tôi
cho rằng để khuyến khích, thu hút các tổ chức,
cơ sở tham gia bồi dưỡng chuyên môn nghiệp
vụ cho luật sư nên quy định Đoàn luật sư có
trách nhiệm thẩm định chương trình đối với các
tổ chức hành nghề do Đoàn luật sư quản lý và
báo cáo Sở Tư pháp. Hoạt động bồi dưỡng kỹ
năng chuyên sâu... không cần có ý kiến, xem xét
của Bộ Tư pháp. Đoàn luật sư và Liên đoàn luật
sư Việt Nam, hàng năm có trách nhiệm tổng
hợp, báo cáo và chịu trách nhiệm về nội dung
chương trình bồi dưỡng trước cơ quan quản lý
Nhà nước cùng cấp.
Hiện nay, theo quy định của Thông tư
10/2014/TT-BTP, hàng năm các luật sư có
nghĩa vụ tham gia bồi dưỡng chuyên môn,
nghiệp vụ với thời lượng 16h làm việc. Việc tổ
chức các lớp bồi dưỡng hiện nay chủ yếu do
các Đoàn luật sư tổ chức, tuy nhiên, năng lực
quản lý, tổ chức của các Đoàn luật sư còn hạn
chế, không đồng đều dẫn đến có tình trạng
Đoàn luật sư không tổ chức đủ lớp bồi dưỡng
để thành viên tham gia. Chính vì vậy, chúng tôi
cho rằng, thời lượng 16h/1 năm nên cân nhắc
theo hướng giảm xuống còn 8h/1 năm, tạo điều
kiện để luật sư hoàn thành nghĩa vụ của mình.
Về hình thức thực hiện nghĩa vụ tham gia
bồi dưỡng được quy định tại Điều 10 Thông tư
10/2014/TT-BTP chủ yếu tập trung vào tham gia
lớp bồi dưỡng và tham gia giảng dạy cho các
lớp bồi dưỡng, đào tạo nghề nghiệp luật sư hoặc
tham gia khóa đào tạo nghề luật sư ở nước
ngoài. Chúng tôi cho rằng, cần phải mở rộng
hình thức thực hiện nghĩa vụ, khuyến khích các
luật sư nâng cao trình độ như tham gia, viết bài,
trình bày ý kiến tham luận tại các hội thảo khoa
học của các tổ chức, cơ sở đào tạo về nghề luật
sư, của cơ quan nhà nước... Tham gia viết các
bài báo, các công trình nghiên cứu khoa học liên
quan đến kỹ năng hành nghề, pháp luật, đạo đức
và ứng xử luật sư..
Về tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ bồi dưỡng
(Điều 9 Thông tư 10/2014/TT-BTP): Đối với
trường hợp bị bệnh đang điều trị dài ngày tại cơ
sở y tế, đang tham gia các chương trình đào tạo
ở nước ngoài đề nghị không quy định thời hạn
là 1 năm mà nên quy định đến khi khỏi bệnh
hoặc kết thúc khóa học thì phù hợp hơn.
Thứ ba, quy định chấm dứt hoạt động của
tổ chức hành nghề luật sư.
Theo quy định tại Điều 47 Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Luật sư, tổ chức
hành nghề luật sư chỉ chấm dứt hoạt động
trong 5 trường hợp, (1) tự chấm dứt hoạt
động; (2) bị thu hồi giấy đăng ký hoạt động;
(3) tất cả thành viên bị thu hồi chứng chỉ hành
nghề luật sư; (4) công ty bị hợp nhất, bị sát
nhập; (5) trưởng văn phòng luật sư, giám đốc
công ty luật TNHH một thành viên chết.
Soá chuyeân ñeà “Luaät sö vaø ñaïo ñöùc ngheà luaät sö”
15
Trong đó, tổ chức hành nghề luật sư bị thu hồi
giấy đăng ký hoạt động khi thuộc các trường
hợp được quy định tại Điều 17 Nghị định
123/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 quy định
chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật
Luật sư. Tuy nhiên, trong quá trình thi hành,
có những trường hợp tổ chức hành nghề luật
sư mặc dù bị xử phạt hành chính nhiều lần vì
vi phạm trong quá trình hành nghề như thay
đổi trụ sở không thông báo, hợp đồng dịch vụ
pháp lý không tuân thủ đầy đủ quy định tại
Luật Luật sư, không mua bảo hiểm cho luật
sư, hoạt động không đúng phạm vi hoạt động
quy định trong Luật Luật sư hoặc bị xử phạt
hành chính nhiều lần do vi phạm pháp luật
khác... nhưng vẫn tồn tại, tiếp tục hoạt động
do không rơi vào các trường hợp bị thu hồi
giấy đăng ký hoạt động. Điều này khiến cho
việc xử phạt trở nên không hiệu quả, các tổ
chức hành nghề luật sư tiếp tục vi phạm.
Chính vì vậy, chúng tôi cho rằng cần mở rộng
các trường hợp thu hồi giấy đăng ký hoạt
động như đã bị xử phạt hành chính nhiều lần
vì vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tư pháp
hoặc lĩnh vực khác; hoạt động không đúng
phạm vi hoạt động Luật Luật sư đã quy định...
Thứ tư, một số quy định khác
Ngoài những vấn đề nêu trên, trong quá
trình thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Luật sư, chúng tôi nhận thấy,
một số quy định cần quy định, hướng dẫn cụ
thể như một số quy định về các hành vi bị
nghiêm cấm (Điều 9); bí mật thông tin (Điều
25); trường hợp bất khả kháng (khoản 3 Điều
24)... Ngoài ra, Điều 27 cần sửa đổi, bổ sung
phù hợp với các quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015.
Trên đây là một số ý kiến nghiên cứu, trao
đổi nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về
luật sư nói riêng và nghề luật sư nói chung./.
Hệ thống thông tin điện tử, hiện nay Học
viện đã xây dựng cổng thông tin điện tử, giúp
học viên có thể tra cứu văn bản pháp luật, tài
liệu, hồ sơ tình huống, giáo trình điện tử phục
vụ cho quá trình nghiên cứu, trao đổi và học
tập. Tuy nhiên hệ thống này cần thiết phải được
nâng cấp đường truyền để giúp cho người học
dễ dàng truy cập thông tin phục vụ cho nhu cầu
học tập, nghiên cứu.
Phần mềm quản lý đào tạo, đây là phương
tiện quản lý đào tạo tiên tiến và cần thiết khi
Học viện triển khai đào tạo theo hệ thống tín
chỉ. Hiện nay, Học viện Tư pháp mới chỉ đang
trong giai đoạn xây dựng hệ thống phần mềm
thông minh này. Thời gian tới, Học viện Tư
pháp cần đẩy mạnh việc xây dựng, tiến tới
chạy thử và áp dụng phần mềm quản lý đào
tạo. Việc áp dụng phần mềm vào hoạt động đào
tạo sẽ rất hữu ích, đảm bảo tính chính xác cho
các công tác phụ trợ liên quan đến hoạt động
giảng dạy.
Tất cả các giải pháp trên cần được thực
hiện một cách đồng bộ để thực hiện mục tiêu
nâng cao chất lượng đào tạo luật sư đáp ứng
yêu cầu chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020./.
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO NGHỀ LUẬT SƯ
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP
(Tiếp theo trang 10)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tong_quan_phap_luat_ve_luat_su_mot_so_bat_cap_va_kien_nghi_h.pdf