KếT LUậN
Mô tả phân tích hiện trạng chính sách BHYT
tại 4 nớc đã đạt đợc mục tiêu bao phủ toàn dân
tại Châu Âu và Châu á, gồm Đức, Pháp, Nhật
Bản và Hàn Quốc cho thấy những điểm chung
sau đây:
Về diện bao phủ: Thực hiện bao phủ toàn
dân theo nguyên tắc tham gia bắt buộc cho tất cả
những ai có khả năng đóng góp; ngời thu nhập
thấp, ngời nghèo đợc hỗ trợ một phần lớn
hoặc toàn bộ mức phí BHYT.
Về lộ trình bao phủ: thực hiện bao phủ nhóm
công chức, viên chức và lao động hởng lơng
cùng thân nhân của họ trong giai đoạn đầu tiên;
từng bớc mở rộng diện bao phủ tới các nhóm
dân c còn lại thuộc khu vực lao động phi chính
thức (lao động tự do) ở khu vực nông thôn và
thành thị.
Về điều kiện đạt đợc diện bao phủ toàn dân:
Cả 4 nớc đều chỉ đạt đợc diện bao phủ BHYT
toàn dân khi họ đã trở thành quốc gia có nền
kinh tế phát triển, có chính sách hỗ trợ tài chính
mạnh mẽ cho ngời thu nhập thấp từ ngân sách
của Nhà nớc (ví dụ trờng hợp của Pháp, tới
năm 2000 mới đạt mục tiêu bao phủ toàn dân,
nhờ luật CMU).
Về nguồn tài chính của quỹ BHYT: gồm 3
nguồn tài chính cơ bản, đó là đóng góp của
ngời lao động, chủ sử dụng lao động và ngân
sách nhà nớc. Thuế tiêu thụ đặc biệt đối với
rợu bia, thuốc lá là nguồn đóng góp có quan
trọng cho quỹ BHYT (trừ trờng hợp của Nhật
Bản);
Về chính sách cùng chi trả: cả 4 quốc gia đều
thực hiện chính sách ngời bệnh BHYT đóng
góp một phần chi phí có giới hạn và miễn trừ
cùng chi trả cho một số nhóm đối tợng (ngời
thu nhập thấp, ngời mắc bệnh mãn tính
vv ). Số tiền cùng chi trả không vợt quá
một mức nhất định (nh quy định tại Nghị định
số 58/1998/NĐ-CP áp dụng trong giai đoạn
1998-2005 ở nớc ta trớc đây), nhằm giúp đỡ
ngời bệnh tiếp cận dịch vụ y tế khi có chi phí
lớn.
Về phơng thức chi trả: Phơng thức chi trả
theo phí dịch vụ đợc thay thế bằng phơng thức
thanh toán khác, trong đó có phơng thức thanh
toán theo nhóm chẩn đoán;
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 10 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tổng quan về chính sách BHYT ở một số nước trên thế giới (Phần II), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
III. NHậT BảN
Nhật Bản là nước ban hành và triển khai Luật
BHYT xã hội sớm nhất ở Châu á. Năm 1922,
Luật BHYT cho lao động trong các doanh nghiệp
được ban hành, nhưng tới năm 1927 luật này mới
được triển khai, do trận động đất khủng khiếp
Kanto năm 1923, san phẳng Tokyo, Yokohama
và các vùng lân cận.
Sau 3 lần sửa đổi luật (vào các năm 1934,
1938, 1958) và quyết định lịch sử cấp ngân sách
1 tỷ yên cho quỹ BHYT vào năm 1954, Nhật
Bản đã đạt được mục tiêu BHYT toàn dân vào
năm 1961. Cho tới nay, Luật BHYT tại Nhật Bản
đã qua nhiều lần sửa đổi, nhưng về bản chất, luật
này vẫn thể hiện đầy đủ các tính chất của mô
hình BHYT của Bismarck.
1. Diện bao phủ
Với mục đích BHYT toàn dân, tất cả công
dân Nhật đều là đối tượng tham gia BHYT bắt
buộc. Người lao động hưởng lương tham gia
BHYT bắt buộc tại các quỹ BHYT được tổ chức
tại các doanh nghiệp (BHYT doanh nghiệp).
Những người không phải là lao động hưởng
lương trong các doanh nghiệp bắt buộc phải
tham gia BHYT tại các quỹ BHYT trên địa bàn
cư trú (BHYT quốc gia). Thân nhân phụ thuộc
của người lao động được bảo hiểm tại các quỹ
TổNG QUAN Về CHíNH SáCH BHYT
ở MộT Số NƯớC TRÊN THế GIớI (Phần II)
1
TS. Trần Văn Tiến
BHYT doanh nghiệp và BHYT quốc gia. Riêng
người cao tuổi được tham gia một chương trình
BHYT riêng từ năm 1983. Tới năm 2000, một
chương trình BHYT chăm sóc dài hạn được
triển khai, nhằm đáp ứng nhu cầu chăm sóc
điều dưỡng tại nhà cho những người trên 65 tuổi
hoặc người từ 40 đến dưới 65 tuổi nhưng mắc
bệnh mãn tính.
2. Nguồn tài chính của quỹ BHYT
Tương tự như BHYT xã hội ở nhiều quốc gia
khác ở châu Âu, quỹ BHYT có nguồn tài chính
chủ yếu từ đóng góp theo tiền lương của người
lao động và chủ sử dụng lao động. Ngân sách
Nhà nước là nguồn tài chính quan trọng cho các
quỹ BHYT. Mức đóng góp ở từng nhóm quỹ
BHYT như sau:
- BHYT doanh nghiệp: Đối với các quỹ
BHYT do doanh nghiệp tổ chức, mức phí BHYT
là 8 % lương (năm 2003), người lao động đóng
một nửa và chủ sử dụng lao động đóng một nửa.
Một số doanh nghiệp có mức đóng góp (tự
nguyện) từ phía chủ sử dụng lao động cao hơn.
Người lao động trong các doanh nghiệp nhỏ
không tổ chức quỹ BHYT riêng, tham gia vào
1
Phó Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm Y tế - Bộ Y tế
54
Trong số 6/2010, Tạp chí Chính sách Y tế đã đăng phần I, bài viết nhan đề “Tổng quan về chính
sách BHYT ở một số nước trên thế giới”. Bài viết này chọn 4 nước tiêu biểu thành công trong việc
triển khai mô hình BHYT xã hội, gồm Cộng hòa Liên bang Đức và Cộng hòa Pháp ở Châu Âu và
Nhật Bản và Hàn Quốc ở Châu á. Số trước của tạp chí đã đăng phần I của bài viết, giới thiệu mô
hình BHYT tại hai nước Châu Âu. Trong số này, Tạp chí Chính sách Y tế xin giới thiệu với độc giả
phần cuối của bài viết.
Nhìn ra nước ngoài
quỹ BHYT Nhà nước, đóng mức phí 8,2%
lương. Các quỹ này được nhà nước tài trợ 13%
tổng thu. Mức phí BHYT của người tham gia
BHYT của các nghiệp đoàn là từ 8 9% lương.
- BHYT quốc gia (theo địa bàn dân cư): Do
người tham gia BHYT ở các quỹ BHYT theo địa
bàn dân cư là những người lao động tự do, nông
dân, người nghỉ hưu, không có chủ sử dụng lao
động nên được Nhà nước hỗ trợ 50% mức phí
BHYT. Mức phí bình quân tính theo hộ gia đình
là 150.000 yên/năm (Nhà nước đóng).
- BHYT cho người cao tuổi: Quỹ được thành
lập từ năm 1983, nhằm đảm bảo sự công bằng
trong chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, tham
gia BHYT tại các quỹ BHYT khác nhau. Người
từ 70 trở lên (nếu tàn tật từ 65 tuổi trở lên) được
quyền tham gia quỹ BHYT người cao tuổi.
3. Quyền lợi
Quyền lợi giữa các quỹ BHYT có khác nhau
ở mức cùng chi trả. Tham gia quỹ BHYT doanh
nghiệp, người đóng phí BHYT phải cùng chi trả
10% chi phí y tế. Thân nhân phụ thuộc cùng chi
trả ở mức cao hơn: 20% chi phí điều trị nội trú và
30% chi phí điều trị ngoại trú. Đối với người cao
tuổi, mức cùng chi trả là 500 yên/ngày, không
quá 2.000 yên/tháng đối với khám chữa bệnh
ngoại trú và 1.100 yên/ngày đối với chi phí điều
trị nội trú.
Thành viên quỹ BHYT quốc gia (quỹ BHYT
theo địa bàn dân cư cho người lao động tự do)
cùng chi trả ở mức cao hơn. Mức cùng chi trả
chung là 30% chi phí khám chữa bệnh. Người
nghỉ hưu trả ở mức thấp hơn: 20% chi phí nội trú,
nhưng vẫn phải trả 30% chi phí khám chữa bệnh
ngoại trú. Tuy nhiên, đối với mọi đối tượng, quỹ
BHYT chi trả 100% chi phí y tế, nếu số tiền cùng
chi trả vượt ngưỡng 64.000 yên/tháng (Số liệu
năm 2004, ngưỡng thay đổi theo từng năm).
Ngưỡng này thấp hơn đối với người có thu nhập
thấp và người đã phải chi trả vượt ngưỡng 3
tháng liên tục.
4. Phương thức thanh toán
Các quỹ BHYT thanh toán chi phí KCB cho
các cơ sở y tế theo phương pháp trả phí dịch vụ.
Bảng giá dịch vụ do chính phủ quyết định, dựa
theo đề nghị của Hội đồng BHYT quốc gia.
Bảng giá này được điều chỉnh 2 năm một lần.
Hàng tháng, các cơ sở y tế gửi bảng thống kê
dịch vụ KCB đã thực hiện tới văn phòng khu vực
của hai cơ quan giám định trung ương: chi phí
của bệnh nhân tham gia chương trình BHYT
doanh nghiệp được gửi tới văn phòng khu vực
của Quỹ thanh toán chi phí BHYT xã hội (Social
Insurance Medical Fee Payment Fund Shiharai
Kikin); chi phí của bệnh nhân là thành viên của
các quỹ BHYT quốc gia (bảo hiểm y tế theo địa
bàn dân cư) được gửi tới văn phòng của Liên
hiệp BHYT quốc gia (National Health Insurance
Federation Kokuho Rengokai). Hai cơ quan này
có khoảng 8.000 bác sĩ làm công tác giám định
chi phí và giám định dịch vụ KCB, tập trung
giám định những trường hợp có chi phí cao. Hai
cơ quan giám định trung ương thay mặt các quỹ
BHYT chi trả chi phí cho cơ sở y tế, gửi hóa đơn
thanh toán cho các quỹ BHYT và nhận lại số tiền
từ các quỹ đó.
Phương thức thanh toán theo nhóm chẩn
đoán theo mô hình của Nhật (gọi tắt là DPC
“Diagnosis Procedure Combination”) được bắt
đầu thí điểm tại các bệnh viện thuộc các trường
Đại học Y từ năm 2003, mức chi trả được tính
dựa trên mức độ nặng của bệnh và dự báo chi phí
điều trị của chẩn đoán đó.
5. Tổ chức hệ thống
Nhật Bản có thể được coi là quốc gia có số
lượng quỹ BHYT xã hội nhiều nhất trên thế giới.
2 nhóm quỹ BHYT lớn nhất của Nhật Bản là (số
lượng quỹ tính tại thời điểm năm 2003):
- Quỹ BHYT quốc gia (National Health
Insurance) cho đối tượng lao động tự do và dân
cư trên từng địa bàn hành chính: gồm 3.235 quỹ
theo địa giới hành chính và 166 quỹ của các hội.
55
Chính sách - Số 7/2011 Y tế
Tạp chí
Nhìn ra nước ngoài
Số người tham gia quỹ BHYT quốc gia chiếm
61,5% dân số.
- Quỹ BHYT doanh nghiệp (Employers
Health Insurance funds), gồm 1.722 quỹ của
hội nghề nghiệp, 1 quỹ chính phủ trung ương và
79 quỹ tương ái. Số người tham gia chiếm
38,5% dân số.
Bộ chủ quản BHYT xã hội là Bộ Y tế, Lao
động và Phúc lợi.
IV. HàN QUốC
Hàn Quốc được coi là quốc gia đạt được diện
bao phủ BHYT toàn dân với tốc độ nhanh nhất:
quốc gia này chỉ cần 12 năm để đạt được mục
tiêu 100% có BHYT. Luật BHYT đầu tiên được
ban hành từ năm 1963, quy định thực hiện
BHYT xã hội theo cơ chế tự nguyện tham gia.
Với cơ chế tự nguyện, trong nhiều năm thực
hiện Luật BHYT, số người đóng BHYT rất ít ỏi.
Tháng 7 năm 1977, Luật BHYT sửa đổi được
ban hành, quy định mọi doanh nghiệp có từ 500
lao động trở lên bắt buộc phải tham gia BHYT.
Năm 1979, Luật giảm số lao động tối thiểu
xuống 300. Tới năm 1988, diện bao phủ BHYT
bắt buộc mở rộng tới lao động tự do ở nông thôn
nông dân và năm 1989, 12 năm sau khi Luật
BHYT bắt buộc được ban hành, lao động tự do ở
các đô thị đã trở thành đối tượng tham gia bắt
buộc, đưa diện bao phủ BHYT bắt buộc ở Hàn
Quốc tới mục tiêu bao phủ toàn dân.
1. Diện bao phủ
Toàn bộ người dân Hàn Quốc là đối tượng
tham gia BHYT bắt buộc. Năm 2006, số người
tham gia BHYT bắt buộc là 47,4 triệu người,
chiếm 96,3% dân số, trong đó có 28,5 triệu
người làm công ă n lương và thân nhân của họ và
18,9 triệu lao động tự do. Tỷ lệ 3,7% dân số còn
lại thuộc diện người nghèo, được chế độ khám
2
chữa bệnh miễn phí theo Luật hỗ trợ y tế, ban
hành năm 1977. Từ năm 2004, người mắc bệnh
mãn tính, bệnh hiểm nghèo và trẻ em, thanh
niên dưới 18 tuổi cũng được hưởng chế độ khám
chữa bệnh miễn phí theo quy định của Luật hỗ
trợ y tế. Nguồn tài chính cho quỹ Hỗ trợ y tế
được lấy từ ngân sách nhà nước và một phần từ
quỹ BHYT trong những năm gần đây.
Để giải quyết khó khăn về tài chính cho
chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, từ năm 2008
Chính phủ Hàn Quốc cho triển khai chương
trình Bảo hiểm chăm sóc dài hạn (Long-term
Care Insurance Programm). 3,8% dân số Hàn
Quốc đang tham gia chương trình bảo hiểm này.
Người từ 65 tuổi trở lên, mắc các bệnh hiểm
nghèo có quyền được tham gia chương trình
BHYT này, với mức phí do người tham gia đóng,
tiền cùng chi trả của chính phủ (20% chi phí) và
cùng chi trả của người bệnh (15-20% chi phí).
2. Nguồn Tài chính BHYT
Nguồn tài chính cho quỹ BHYT Hàn Quốc
bao gồm tiền đóng phí BHYT, hỗ trợ của ngân
sách nhà nước và thuế thuốc lá. Mức phí BHYT
của người làm công ăn lương thay đổi hàng
năm, năm 2008 là 5,08% lương, trong đó người
lao động và chủ sử dụng lao động mỗi bên đóng
một nửa. Mức phí BHYT của đối tượng không
hưởng lương được tính dựa trên thu nhập, trong
đó các yếu tố tuổi, giới, thu nhập khai báo, tài
sản sở hữu được dùng để tính toán thu nhập. Cư
dân vùng nông thôn xa xôi, hải đảo được giảm
bớt mức phí BHYT.
Theo quy định hiện hành, ngân sách nhà
nước cấp cho quỹ BHYT hàng năm một khoản
tiền bằng 14% kế hoạch thu BHYT. Nguồn từ
thuế thuốc lá bổ sung cho quỹ BHYT hàng năm
khoảng 6% tổng thu.
3. Quyền lợi
Người tham gia BHYT tại Hàn Quốc được
hưởng quyền lợi khi khám chữa bệnh nội trú,
2
Nguồn: Số liệu thống kê của Tổng cục BHYT Hàn Quốc
(Korea National Health Insurance Corporation).
56
ngoại trú, khám sức khỏe định kỳ, được bồi
hoàn chi phí khi số tiền cùng trả cho các dịch vụ
y tế vượt ngưỡng tối đa, được chi trả cho các
dụng cụ hỗ trợ khi bị tàn tật và gia đình được trả
tiền mai táng phí. Tuy vậy, khá nhiều chi phí
điều trị nằm ngoài chế độ chi trả của BHYT.
Theo quy định hiện hành, người bệnh BHYT
cùng chi trả một tỷ lệ chi phí, tùy thuộc vào
tuyến kỹ thuật. Trong khi ở khu vực nội trú, mức
cùng chi trả là 20% chi phí, thì khu vực ngoại
trú, người bệnh BHYT trả 30% chi phí thuốc,
30% chi phí điều trị ở phòng khám tuyến thấp
nhất, 40% chi phí ở phòng khám bệnh viện
tuyến đầu, 50% chi phí ở bệnh viện tuyến 2 và
chi phí khám bệnh + 50% chi phí điều trị ở tuyến
cuối cùng.
Nếu số tiền cùng chi trả vượt quá 3 triệu won
(2.400 USD) trong vòng 6 tháng liên tục thì mọi
chi phí y tế tiếp theo sẽ được quỹ BHYT thanh
toán 100%, người bệnh không phải cùng chi trả
nữa.
Với quy định về cùng chi trả như trên, vào
năm 2002, bình quân người bệnh BHYT tại Hàn
Quốc phải tự trả 45,1% chi phí điều trị nội trú,
43,1% chi phí ngoại trú và 27% chi phí tiền
thuốc ngoại trú.
Trong các nước đã triển khai thành công bao
phủ BHYT toàn dân thì Hàn Quốc là nước có
mức độ cùng chi trả cao nhất. Đánh giá chung về
chiến lược tiến tới mục tiêu bao phủ toàn dân
của Hàn Quốc, có thể nói Hàn Quốc đã lựa chọn
phương á n mức phí thấp, quyền lợi giới hạn (do
mức cùng chi trả cao) để bao phủ toàn dân với
chi phí thấp. Tuy vậy, với đặc điểm của mô hình
Hàn Quốc, mục tiêu quan trọng nhất của BHYT
là bảo vệ người dân, đặc biệt ở nhóm dễ thương
tổn không tránh khỏi bị hạn chế.
Để khắc phục nhược điểm trên, Luật BHYT
Hàn Quốc đã được sửa đổi, mở rộng quyền lợi,
giảm bớt tỷ lệ cùng chi trả. Một số quyền lợi mới
được mở rộng là chi trả chụp cắt lớp (CT-Scan)
từ năm 1996, cộng hưởng từ (MRI) từ 2005, chi
phí nong mạch vành đặt stent từ 2002, tiền ăn
nội trú từ 2006. Số ngày được hưởng chế độ
BHYT trong điều trị nội trú tăng từ 180 ngày lên
365 ngày (từ năm 2000). Một số bệnh nặng, chi
phí lớn được đưa vào danh mục chi trả của
BHYT (ung thư, bệnh tim); dự kiến số bệnh
nặng được thanh toán sẽ tăng lên thành 10 vào
năm 2009. Mức cùng trả cho những bệnh này
giảm xuống còn 10%. Quy định mới cũng cho
phép quỹ BHYT bồi hoàn cho người bệnh 50%
chi phí cùng trả, nếu trong thời gian 1 tháng, số
tiền cùng trả vượt quá 1,2 triệu won (khoảng
1.200 USD).
5. Phương thức thanh toán
BHYT Hàn Quốc đã sử dụng phương thức chi
trả theo phí dịch vụ trong một thời gian dài.
Phương thức này đã đẩy chi phí y tế tăng nhanh,
tạo điều kiện lạm dụng dịch vụ y tế, chỉ định các
kỹ thuật không phù hợp. Theo số liệu thống kê
của OECD, năm 2003, tỷ lệ mổ lấy thai tại Hàn
Quốc là 43%, cao gấp đôi so với các nước phát
triển trong khối OECD khác (Ví dụ, tỷ lệ này ở
Australia trong cùng năm là 21,2%, Bỉ là 15,3%,
Phần Lan là 15,6%).
Chính phủ Hàn Quốc đang cố gắng triển
khai các phương thức thanh toán khác thay thế
phương pháp thanh toán theo phí dịch vụ.
6. Tổ chức hệ thống
Trước năm 1998, hệ thống BHYT tại Hàn
Quốc được tổ chức theo mô hình đa quỹ, gồm
nhiều quỹ độc lập với nhau, có nhiều nét tương
đồng với hệ thống tổ chức BHYT của Nhật Bản.
Trước 1998, Hàn Quốc cũng có 3 hệ thống quỹ
BHYT: quỹ BHYT cho các doanh nghiệp (gồm
145 quỹ vào thời điểm 1997, bao phủ 35% dân
số); 1 quỹ BHYT cho giáo viên các trường công
và trường tư (bao phủ 11% dân số) và 227 quỹ
BHYT khu vực cho người lao động tự do (bao
phủ 51% dân số).
Năm 1998, Hàn Quốc thực hiện cuộc cải
57
Chính sách - Số 7/2011 Y tế
Tạp chí
cách tổ chức BHYT lần thứ nhất, với việc hợp
nhất 227 quỹ BHYT khu vực cho lao động tự do
thành một quỹ BHYT chung, gọi là BHYT Quốc
gia.
Năm 2000, 139 quỹ BHYT của các doanh
nghiệp được sáp nhập vào quỹ BHYT Quốc gia.
Các quỹ BHYT cho công chức, giáo viên vẫn
hoạt động độc lập.
Cuối cùng, năm 2003, tất cả các quỹ BHYT
hợp nhất với nhau, thành 1 quỹ, gọi tên là “Cục
BHYT quốc gia” (National Health Insurance
Corporation). Cục BHYT quốc gia độc lập với
quỹ hưu trí và quỹ Bảo hiểm thất nghiệp, là một
tổ chức dịch vụ công phi chính phủ (non-
governmental public body), chịu sự quản lý của
Bộ Y tế và phúc lợi xã hội.
Song song với Cục BHYT quốc gia, còn có
Cục giám định BHYT quốc gia (HIRA Health
Insurance Review Agency) là tổ chức độc lập,
có chức năng giám định chi phí KCB BHYT
trước khi Cục BHYT quốc gia thanh toán cho hệ
thống cung ứng dịch vụ y tế.
Như vậy, từ một hệ thống tổ chức BHYT theo
mô hình đa quỹ, hệ thống BHYT Hàn Quốc đã
chuyển đổi sang mô hình đơn quỹ. Điểm khác
biệt duy nhất của BHYT tại Hàn Quốc so với các
quốc gia khác là sự tồn tại của tổ chức Giám
định BHYT độc lập (HIRA), trên cơ sở tồn tại
lịch sử của tổ chức giám định BHYT trung ương
có từ giai đoạn còn mô hình đa quỹ trước đây.
KếT LUậN
Mô tả phân tích hiện trạng chính sách BHYT
tại 4 nước đã đạt được mục tiêu bao phủ toàn dân
tại Châu Âu và Châu á, gồm Đức, Pháp, Nhật
Bản và Hàn Quốc cho thấy những điểm chung
sau đây:
Về diện bao phủ: Thực hiện bao phủ toàn
dân theo nguyên tắc tham gia bắt buộc cho tất cả
những ai có khả năng đóng góp; người thu nhập
thấp, người nghèo được hỗ trợ một phần lớn
hoặc toàn bộ mức phí BHYT.
Về lộ trình bao phủ: thực hiện bao phủ nhóm
công chức, viên chức và lao động hưởng lương
cùng thân nhân của họ trong giai đoạn đầu tiên;
từng bước mở rộng diện bao phủ tới các nhóm
dân cư còn lại thuộc khu vực lao động phi chính
thức (lao động tự do) ở khu vực nông thôn và
thành thị.
Về điều kiện đạt được diện bao phủ toàn dân:
Cả 4 nước đều chỉ đạt được diện bao phủ BHYT
toàn dân khi họ đã trở thành quốc gia có nền
kinh tế phát triển, có chính sách hỗ trợ tài chính
mạnh mẽ cho người thu nhập thấp từ ngân sách
của Nhà nước (ví dụ trường hợp của Pháp, tới
năm 2000 mới đạt mục tiêu bao phủ toàn dân,
nhờ luật CMU).
Về nguồn tài chính của quỹ BHYT: gồm 3
nguồn tài chính cơ bản, đó là đóng góp của
người lao động, chủ sử dụng lao động và ngân
sách nhà nước. Thuế tiêu thụ đặc biệt đối với
rượu bia, thuốc lá là nguồn đóng góp có quan
trọng cho quỹ BHYT (trừ trường hợp của Nhật
Bản);
Về chính sách cùng chi trả: cả 4 quốc gia đều
thực hiện chính sách người bệnh BHYT đóng
góp một phần chi phí có giới hạn và miễn trừ
cùng chi trả cho một số nhóm đối tượng (người
thu nhập thấp, người mắc bệnh mãn tính
vv). Số tiền cùng chi trả không vượt quá
một mức nhất định (như quy định tại Nghị định
số 58/1998/NĐ-CP áp dụng trong giai đoạn
1998-2005 ở nước ta trước đây), nhằm giúp đỡ
người bệnh tiếp cận dịch vụ y tế khi có chi phí
lớn.
Về phương thức chi trả: Phương thức chi trả
theo phí dịch vụ được thay thế bằng phương thức
thanh toán khác, trong đó có phương thức thanh
toán theo nhóm chẩn đoán;
Về tổ chức hệ thống BHYT: các nước bắt đầu
tổ chức hệ thống từ mô hình đa quỹ, tiến dần tới
mô hình đơn quỹ khi năng lực quản lý hệ thống
được nâng cao, đủ khả năng quản lý điều hành
58
Nhìn ra nước ngoài
TàI LIệU THAM KHảO CHíNH
1. World Health Organization - European Observatory on Health Systems and Policies Series,
2005. Social health insurance system in Western Europe.
2. WHO, 2005. Social health insurance: Selected case studies from Asia and the Pacific.
3. The Commonwealth Fund, 2008. Description of health care system: Denmark, France,
Germany, the Netherlands, Sweden and the United Kingdom.
4. Berstelmann Stifftung, 2004. International Reform Monitor: Social Policy, Labour Market
Policy and Industrial Relations.
5. Simone Sandier, Valerie Paris, Dominique Polton. Health care system in transition: France.
Copenhagen, WHO Regional Office for Europe on behalf of the European. Observatory on
Health Systems and Policies, 2004.
6. Stephanie Stock, Marcus Redaelli, and Karl Wilhelm Lauterbach, 2005: The Influence Of The
Labor Market On German Health Care Reforms, Health Affairs 25, no. 4 (2006): 11431152.
7. Tetsuo Fukawa. Public health insurance in Japan. World Bank, 2002.
8. Masanori Ito, 2004. Health insurance systems in Japan: neurosurgeon's view. Neurol Med Chir
(Tokyo), 44, 617-628, 2004
59
Chính sách - Số 7/2011 Y tế
Tạp chí
một hệ thống lớn, đơn nhất. ở giai đoạn còn mô
hình đa quỹ, các nước đều có những cơ chế đảm
bảo sự san sẻ rủi ro giữa các quỹ với nhau.
Bốn nước kinh tế phát triển nói trên đã lựa
chọn cơ chế tài chính y tế dựa trên BHYT xã hội
để thực hiện mục tiêu công bằng trong chăm sóc
sức khỏe. Tất cả các nước đã đạt được bao phủ
BHYT toàn dân đều là nước phát triển, nhưng
không phải nước phát triển nào cũng lựa chọn cơ
chế tài chính y tế dựa trên BHYT. Mặt khác, cho
đến nay chưa có nước đang phát triển nào đạt
được bao phủ BHYT toàn dân. Đây chính là một
trong những điểm cần xem xét kỹ lưỡng trong
quá trình xây dựng và hoàn thiện chính sách tài
chính y tế ở nước ta.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
tong_quan_ve_chinh_sach_bhyt_o_mot_so_nuoc_tren_the_gioi_pha.pdf