Tổng quan về tình hình đề kháng kháng sinh của H. Pylori trên thế giới

Số liệu tổng hợp trong tổng quan này cho thấy sự đề kháng metronidazole đã gia tăng có ý nghĩa từ châu Âu đến châu Mỹ. Cụ thể, tỉ lệ kháng tính chung ờ châu Âu là 17%, vẫn luôn dưới <40% ở tất cả các nước, trong khi tỉ lệ này cao rõ rệt ở châu Á lẫn châu Mỹ. So với số liệu của các nghiên cứu được công bố trước đây, tỉ lệ kháng tiên phát với metronidazole vẫn ổn định ở các nước châu Âu. Do đó, theo hướng dẫn điều trị hiện hành, nên ưu tiên dùng metronidazole hơn là amoxicillin trong điều trị đầu tay ở châu Âu, nhưng không nên ưu tiên sử dụng ở bệnh nhân châu Á. Một nghiên cứu ở Ý cho thấy kháng metronidazole tiên phát hiện diện ở 22,9% bệnh nhân người Ý và ở 50% bệnh nhân nhập cư, gợi ý bệnh nhân người nước ngoài có lẽ nên được điều trị bằng một liệu pháp đầu tay khác (Zullo A và cs, 2007). Tương tự như clarithromycin, số liệu phân tích ở đây cho thấy tỉ lệ kháng metronidazole ở bệnh nhân nữ cao hơn một cách có ý nghĩa. Vì vậy, dưới góc độ lâm sàng, bệnh nhân nữ có xác suất thành công thấp hơn khi được điều trị bằng một phối hợp clarithromycinmetronidazole, thế nhưng giả thiết này cần được kiểm định bằng một nghiên cứu tiền cứu riêng biệt. Tỉ lệ kháng levofloxacin xem ra đang tăng trên thế giới. Điều này có thể làm giảm hiệu quả của việc tiệt trừ H. pylori với các phác đồ điều trị chứa levofloxacin. Do đó, kháng sinh này nên để dành cho liệu pháp hàng thứ hai như đề xuất trong các tài liệu hướng dẫn hiện nay của Ý (Caselli M và cs, 2007), Hoa Kỳ (Chey WD & Wong BC , 2007) và châu Á (Fock KM và cs, 2009). Trừ châu Phi (43,%), tỉ lệ kháng tetracyclin vẫn rất thấp (<3%) ở tất cả các nước, không thấy sự gia tăng thực sự so với số liệu của những nghiên cứu được công bố trước năm 2000. Đáng tiếc là những phác đồ có chứa tetracyclin đòi hỏi phải sử dụng muối bismuth, vốn không còn lưu hành ở một số nước châu Âu vì những tác dụng phụ tiềm năng. Sau cùng, dữ liệu về kháng amoxicillin tiên phát còn nhiều mâu thuẫn. Thật vậy, sự đề kháng này hầu như không thấy ở một vài nước nhưng lại cao đến 85% ở Cameroon. Khó có thể lý giải được sự cách biệt này, và có thể có một vai trò nào đó của tính phức tạp của cơ chế đề kháng amoxicillin (đột biến gen pbp, thay đổi tính thấm màng tế bào, bơm tống xuất, v.v ).

pdf5 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 13 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tổng quan về tình hình đề kháng kháng sinh của H. Pylori trên thế giới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TỔNG QUAN TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH ĐỀ KHÁNG KHÁNG SINH CỦA H. PYLORI TRÊN THẾ GIỚI Giới thiệu Sự đề kháng kháng sinh của H. pylori là yếu tố chính anh hưởng đến hiệu quả của các phác đồ điều trị hiện dùng. Tỉ lệ lưu hành của vi khuẩn kháng thuốc thay đổi tùy theo từng vùng địa lý khác nhau, và tương quan với sự sử dụng kháng sinh trong dân số chung. Ví dụ sự tiêu thụ clarithromycin và tỉ lệ đề kháng kháng sinh này tăng tương tự nhau (gấp 4 lần) ở Nhật Bản trong khoảng thời gian từ 1993 đến 2000 (Perez Aldana Lvà cs, 2002). Trái lại, sự sử dụng macrolide thận trọng ở các nước Bắc Âu trong những thập niên qua kết hợp với một tỉ lệ H. pylori kháng clarithromycin thấp hơn so với các nước Nam Âu, nơi mà clarithromycin được sử dụng rộng rãi (Debets-Ossenkopp YJ và cs, 1999; Cabrita J và cs, 2000; Pilotto A và cs, 2000). Tài liệu hướng dẫn châu Âu hiện nay về điều trị H. pylori gợi ý rằng trị liệu đầu tay phải được điều chỉnh cho thích hợp với sự đề kháng clarithromycin và metronidazole. Thật vậy, một liệu pháp ba thuốc kéo dài 14 ngày được khuyên dùng ở những nơi mà tỉ lệ kháng clarithromycin >15-20%, ưu tiên kết hợp với amoxicillin nếu tỉ lệ kháng metronidazole tiên phát >40% (Malfertheiner P và cs, 2007). Trên cơ sở này, việc theo dõi tỉ lệ đề kháng kháng sinh tỏ ra có ý nghĩa đối với việc điều trị nhiễm H. pylori trong thực hành lâm sàng. Dưới đây là một tổng hợp dữ liệu về tình hình đề kháng của H. pylori với nhiều kháng sinh khác nhau ở những nước khác nhau. Phương pháp Tìm kiếm y văn Sử dụng máy tính tìm kiếm dữ liệu trong PubMed tất cả những bài báo tiếng Anh được công bố từ tháng 1/2006 đến tháng 12/2009, bằng cách dùng các từ khóa ‘Helicobacter pylori resistance’, ‘antibiotic’, ‘clarithromycin’, ‘metronidazole’, ‘amoxicillin’, ‘levofloxacin’, ‘ciprofloxacin’, ‘quinolones’, ‘tetracycline’, ‘rifabutin’, và ‘rifampicin’. Các toán tử Boole (NOT, AND, OR) cũng được dùng để thu hẹp hoặc mở rộng việc tìm kiếm. Chỉ xét những nghiên cứu có liên quan đến sự đề kháng kháng sinh tiên phát, không xét các dữ liệu đề kháng thứ phát sau điều trị. Toàn văn bài báo của tất cả các nghiên cứu được sao lục và tìm trong danh mục tài liệu tham khảo những nghiên cứu có liên quan có thể bị bỏ sót. Nếu có hơn một bài báo của cùng một tác giả hoặc nhóm tác giả thì chỉ xét bài viết mới nhất, bao gồm cỡ mẫu toàn bộ, để dưa vào phân tích gộp này. Dữ liệu ở các bài tóm lược không được xem xét. Trích xuất số liệu Hai nghiên cứu viên đảm nhiện việc trích xuất số liệu từ những nghiên cứu hội đủ các tiêu chí tuyển chọn. Số liệu được trích xuất gồm có (1) số bệnh nhân được thu nhận, (2) số trường hợp có vi khuẩn đề kháng với một hoặc nhiều kháng sinh khác nhau, (3) số trường hợp có đề kháng kháng sinh chia theo độ tuổi (18 tuổi, bệnh nhân trưởng thành), giới tính, và bệnh lý dạ dày-tá tràng, được cung cấp trực tiếp hoặc qua tính toán, (4) phương pháp được dùng để đánh giá kháng thuốc, và (5) khu vực địa lý. Cả hai nghiên cứu viên đều chấp thuận phương pháp trích xuất số liệu này và đi đến một sự nhất trí chung cuộc đối với ba nghiên cứu có sự lý giải số liệu không khớp nhau. Phân tích thống kê Phân tích thống kê bằng test χ2 và test chính xác Fisher, tùy trường hợp. Tính tỉ số odd (OR) và khoảng tin cậy (KTC) 95%. Sự khác biệt được xem là có ý nghĩa ở mức xác suất 5%. Các phân tích được thực hiện với chương trình Statsoft 7.1 for Windows XP. Kết quả Tỉ lệ kháng thuốc nói chung Tổng cộng có 31 nghiên cứu hội đủ các tiêu chí thu nhận, báo cáo số liệu của bệnh nhân được thu nhận từ năm 1993 đến 2009. Cụ thể, có 17 nghiên cứu ở châu Âu, 10 ở châu Á, 2 ở châu Phi và 2 ở châu Mỹ. Tỉ lệ đề kháng kháng sinh tính chung của H. pylori là 17,2% (16,5-17,9%) với clari- thromycin, 26,7% (25,2-28,1%) với metronida- zole, 11,2% (9,6-12,7%) với amoxycillin, 16,2% (14,4-18,0%) với levofloxacin, 5,9% (4,7-7,1%) với tetracyclin, 1,4 (0,8-1,9%) với rifabutin, và 9,6% (8,5-10,7%) với ≥2 kháng sinh. Bảng 1 và 2 trình bày tỉ lệ đề kháng với kháng sinh ở các lục địa và các nước khác nhau. TỔNG QUAN Bảng 1. Tỉ lệ đề kháng kháng sinh ở những khu vực khác nhau trên thế giới Khu vực Amoxycillin Clarithromycin Metronidazole Tetracyclin Levofloxacin Đa kháng Châu Mỹ 8/352 (2,2%) 118/402 (29,3%) 177/401 (44,1%) 11/393 (2,7%) KSL 53/352 (15,0%) Châu Phi 113/172 (65,6%) KSL 159/172 (92,4%) 58/132 (43,9%) 0/40 (0,0%) KSL Châu Á 60/517 (11,6%) 1544/8139 (18,9%) 192/517 ( 37,1%) 11/456 (2,4%) 106/908 (11,6%) 21/252 (8,3%) Châu Âu 3/599 (0,5%) 352/3156 (11,1%) 420/2459 (17,0%) 14/599 (2,1%) 148/614 (24,1%) 204/2272 (8,9%) Tính chung 184/1640 (11,2%) 2014/11697 (17,2%) 948/3549 (26,7%) 94/1580 (5,9%) 254/1562 (16,2%) 278/2876 (9,6%) KSL = không có số liệu Kháng clarithromycin tiên phát Như trình bày trong Bảng 1, kháng clarithromycin tiên phát được phát hiện ở 2.014 (17,2%, KTC 95%: 16,5-17,9) trên tổng số 11.697 trường hợp. Xu hướng gia tăng được nhận thấy ở châu Âu (352/3.156, 11,1%; KTC 95%: 10,0- 12,2), châu Á (1.544/8.139, 18,9%; KTC 95%: 18,1-19,8) và châu Mỹ (118/402, 29,3%; KTC 95%: 24,9-33,8), sự khác biệt tỏ ra có ý nghĩa thống kê (p<0,001) giữa ba khu vực địa lý. Trong số các nước châu Âu, tỉ lệ đề kháng cao nhất được báo cáo ở Tây Ban Nha (49/101, 49,2%, KTC 95%: 38,7-58,2), thấp nhất ở Thụy Điển (5/333, 1,5%, KTC 95%: 0,1-2,8) và Hà Lan (11/1223, 0,8%, KTC 95%: 0,3-1,4). Ở các nước châu Á, tỉ lệ kháng clarithromycin cao được phát hiện tại Nhật Bản (25/61, 40,7%, KTC 95%: 28,5-53,3), tỉ lệ thấp nhất là ở Malaysia (4/187, 2,1%, KTC 95%: 0,06-4,2). Tính chung, kháng clarithromycin hiện diện ở 790 trên 3.851 bệnh nhân nữ và ở 964 trên 6.185 bệnh nhân nam (20,5% so với 15,5%, p<0,001; OR: 1,4, KTC 95%: 1,2-1,5), và ở 386 trên 1.490 bệnh nhân khó tiêu cơ năng (không loét) và ở 408 trên 2,240 bệnh nhân loét dạ dày-tá tràng (25,9% so với 18,2%, p<0,001; OR: 1,6, KTC 95%: 1,3- 1,8). Các trị số tương tự được phát hiện ở bệnh nhân trẻ (36 trên 174) so với bệnh nhân trưởng thành (2.031 trên 11.794) (20,6% so với 17,2%, p>0,05). Tính theo phương pháp đánh giá được sử dụng, kháng clarithromycin được phát hiện ở 208 trên 943 trường hợp được đánh giá bằng phương pháp PCR và ở 1.729 trên 10.377 trường hợp được khảo sát bằng phương pháp nuôi cấy (E-test, pha loãng thạch, khuếch tán đĩa). Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê (22,0% so với 16,6%, p<0,001; OR: 1,4, KTC 95%: 1,2-1,6). Kháng metronidazole tiên phát Kháng metronidazole tiên phát được phát hiện ở 948 trên 3.549 bệnh nhân (26,7%; KTC 95%: 25,2- 28,1), tỉ lệ theo thứ tự giảm dần là châu Phi (159/172, 92,4%; KTC 95%: 88,4-96,3), châu Mỹ (177/401, 44,1%, KTC 95%: 39,2-49,0), châu Á (192/517, 37,1%; KTC 95%: 32,9-41,3), rồi đến châu Âu (420/2.459, 17,0%; KTC 95%: 15,5-18,5). Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê (p<0,5) giữa 4 khu vực địa lý. Như trình bày trong Bảng 3, tỉ lệ kháng metronidazole thấp nhất ở châu Âu được nhận thấy tại Thụy Điển (48/333, 14,4%; KTC 95%: 10,6- 18,1) và Hà Lan (162/1.123, 14,4%; KTC 95%: 12,3-16,4), tỉ lệ cao nhất được phát hiện tại Đan Mạch (23/81, 28,3%, KTC 95%: 18,5-38,2). Ở châu Á, tỉ lệ kháng metronidazole cao tại Hàn Quốc (56/113, 49,6%; KTC 95%: 40,3-58,7) và thấp tại Nhật Bản (9/61, 14,7%; KTC 95%: 5,8-23,6). Tính chung, kháng metronidazole hiện diện ở 416 trên 1.321 bệnh nhân nữ và ở 276 trên 1.302 bệnh nhân nam (31,4% so với 21,1%, p<0,001; OR: 1,7, KTC 95%: 1,4-2,0). Kháng thuốc được phát hiện ở 61 trên 169 bệnh nhân loét dạ dày-tá tràng và ở 59 trên 453 bệnh nhân khó tiêu không loét (36,0% so với 13,0%, p<0,01, OR: 3,7, KTC 95%: 2,4-5,7). Kháng amoxicillin tiên phát Kháng amoxicillin được phát hiện ở 184 trên 1.640 bệnh nhân được xét nghiệm (11,2%; KTC 95%: 9,6-12,7). Ở châu Âu, số liệu khả dụng từ hai nghiên cứu thu nhận 599 bệnh nhân cho thấy tỉ lệ kháng <1% (3/599, 0,5%, KTC 95%: 0,06-1,06). Trái lại, hai nghiên cứu ở châu Phí báo cáo những số liệu đối nghịch nhau. Thật vậy, một nghiên cứu ở Senegal thu nhận 40 bệnh nhân không thấy kháng amoxicillin, trong khi tỉ lệ kháng cao được báo cáo trong một nghiên cứu ở Cameroon (113/132, 85,6%; TỔNG QUAN Bảng 2. Tỉ lệ đề kháng kháng sinh ở những nước khác nhau Năm Bệnh nhân AMO (%) CLA (%) MTZ (%) TET (%) LEV (%) RIF (%) Đa kháng (%) Châu Âu Bulgaria 2004-08 266 1,1 15,4 24 4,9 4,9 Đan Mạch 2001-03 81 11 28 Ireland 2005-06 45 8,8 20 2,2 Ý 2003-06 146 37,6 Ý 2001 156 24,3 Ý 2004-06 255 11,0 20 10,6 10,5 Ý 2003 300 12,5 23,9 4,3 Đức 2003-06 1585 1,4 Đức 2006-07 1118 15,1 Tây Ban Nha 2002-06 101 49,2 32,8 Thụy Điển 2002 333 0 1,5 14,4 0,3 0,6 Hà Lan 1997-02 1123 1 14,4 Thổ Nhĩ Kỳ 2002-03 87 27,5 Thổ Nhĩ Kỳ 2003-04 110 48,2 Thổ Nhĩ Kỳ 2005-06 92 40,5 Thổ Nhĩ Kỳ 2006-07 61 16,4 Vương quốc Anh 2008 255 7,5 6,6 Châu Á Trung Quốc 2000 41 32 Nhật Bản 1996-08 3521 20,6 Nhật Bản 2001-04 507 14,9 Nhật Bản 2002-05 3707 22,7 Nhật Bản 2002-07 61 (TE) 0 40,7 14,8 Hong Kong 2004-05 191 2,6 8,9 Hàn Quốc 2003-05 113 8,8 12,4 49,6 8,8 12,3 Malaysia 2005-07 120 2,1 Đài Loan 1998-07 210 1 9,5 27,6 0,5 11,9 Đài Loan 2004-05 133 36,1 13,5 51,9 0 Bắc Mỹ Alaska 1999-03 352 2,2 31 44 0 15 Nam Mỹ Chilê 2005-06 50 20 44,9 26,8 Châu Phi Senegal 1999-00 40 0 90 0 Cameroon 2006 132 85,6 44,7 93,2 43,9 AMO - amoxycillin; CLA - clarithromycin; MTZ - metronidazol; TE - trẻ em; TET - tetracyclin; LEV - levofloxacin; RIF - rifabutin KTC 95%: 76,9-91,5). Tương tự, tỉ lệ kháng amoxicillin thay đổi khá lớn trong những nước châu Á, dao động từ 0% trên 61 bệnh nhân tại Nhật Bản, 8,8% (10/113; KTC 95%: 3,6-14,0) tại Hàn Quốc, và 36,1% (48/133; KTC 95%: 27,9-44,2) tại Đài Loan, mặc dù một nghiên cứu khác được thực hiện ở Đài Loan tìm thấy một tỉ lệ kháng rất thấp là 0,9% (2/210, KTC 95%: 0,3-2,2). Một nghiên cứu đơn độc thu nhận 352 bệnh nhân phát hiện thấy tỉ lệ kháng amoxicillin là 2,2% (8/352, KTC 95%: 0,7- 3,8) tại Alaska. Kháng amoxicillin tương tự nhau được phát hiện ở bệnh nhân nam và nữ, theo thứ tự, hiện diện ở 4 trên 497 trường hợp (0,8%) và ở 7 trên 454 trường hợp (1,5%) (p>0,05). Kháng levofloxacin tiên phát Kháng levofloxacin được tìm thấy ở 254 trên 1.562 trường hợp (16,2%, KTC 95%: 14,4-18,0). Tỉ lệ kháng ở châu Âu (148/614, 24,1%, KTC 95%: 20,7-27,4) cao hơn so với châu Á (106/908, 11,6%; KTC 95%: 9,5-13,7%), và không thấy kháng trên 40 bệnh nhân châu Phi được xét nghiệm. Ở châu Á, những trị số khác nhau được phát hiện ở những nước TỔNG QUAN Bảng 3. Tỉ lệ đa kháng ở những nước khác nhau CLA+MTZ (%) CLA+LEV (%) MTZ+LEV (%) CLA+MTZ+ LEV (%) CLA+MTZ+ RIF (%) CLA+LEV+ RIF (%) CLA+LEV+ RIF+MTZ (%) Alaska 15 Bulgaria 4,9 4,9 Đức 13,4 0,9 0,08 0,7 Hong Kong 5,2 3,7 Ireland 2,2 Ý 4,3 Ý 3,5 1,6 4,9 0,8 Nhật Bản 6,6 Thụy Điển 0,6 CLA - clarithromycin; MTZ - metronidazol; LEV - levofloxacin; RIF - rifabutin khác nhau, tỉ lệ kháng là 14,9% (76/507; KTC 95%: 11,8-18,0) tại Nhật Bản, 11,9% (25/210, KTC 95%: 7,5-16,2) tại Đài Loan, và 2,6% (5/191, KTC 95%: 0,3%-4,8%) tại Hong Kong. Trong một nghiên cứu duy nhất ở Ý gồm 246 bệnh nhân, tỉ lệ kháng levo- floxacin ở bệnh nhân lớn tuổi (>45 tuổi) cao hơn so với bệnh nhân còn trẻ (28,4% so với 14,4%, p<0,05, OR: 1,8, KTC 95%: 1,2-3,9) (Zullo A và cs, 2007). Kháng tetracyclin tiên phát Kháng tetracyclin được phát hiện ở 94 trên 1580 bệnh nhân được xét nghiệm (5,9%; KTC 95%: 4,7- 7,1). Tỉ lệ kháng nói chung không khác nhau giữa châu Âu (14/599, 2,1%; KTC 95%: 1,1-3,5), châu Á (11/456, 2,4%; KTC 95%: 1,0-3,) và châu Mỹ (11/393, 2,7%, KTC 95%: 1,1-4,4), trong khi tỉ lệ kháng cao hơn rõ rệt ở châu Phi (58/132, 43,9%; KTC 95%: 35,4-52,4). Cụ thể, không thấy kháng thuốc ở 352 bệnh nhân tại Alaska, và rất thấp tại Thụy Điển (1/333, 0,3%; KTC 95%: 0-2) và tại Đài Loan (1/343; 0,2%; KTC 95%: 0-2). Trái lại, tỉ lệ kháng cao được tìm thấy tại Hàn Quốc (10/113, 8,8%; KTC 95%: 3,6-14,0), Chilê (11/41, 26,8%; KTC 95%: 13,2-40,3) và Cameroon (58/132, 43,9%; KTC 95%: 35,4-52,4). Kháng tetracyclin hiện diện tương tự nhau ở nam và nữ, được phát hiện ở 7 trên 552 (1,2%) bệnh nhân nam và ở 7 trên 532 (1.3%) bệnh nhân nữ (p>0,05). Kháng rifabutin tiên phát Kháng rifabutin chỉ được khảo sát trong hai nghiên cứu (Chisholm SA và cs, 2007; Glocker E và cs, 2007), cho thấy sự hiện diện của một chủng kháng thuốc ở 22 trên 1585 bệnh nhân tại Đức (1,4%; KTC 95%: 0,8-1,9), và ở 17 trên 255 bệnh nhân tại Anh (6,6%; KTC 95%: 3.6-9,7). Kháng tiên phát với nhiều kháng sinh Tính chung, sự đề kháng nhiều kháng sinh được tìm thấy ở 278 trên 2876 bệnh nhân được xét nghiệm (9,6%, KTC 95%: 8,5-10,7). Các chủng đa kháng được phát hiện ở 21 trên 252 bệnh nhân châu Á (8,3%, KTC 95%: 4,9-11,7), ở 53 trên 352 bệnh nhân châu Mỹ (15,0%, KTC 95%: 11,3-18,7) và ở 204 trên 2272 bệnh nhân châu Âu (8,9%, KTC 95%: 7.8-10,1). Các trị số thấp của kháng kép clarithromycin/metronidazole được nhận thấy tại Thụy Điển (0,6%) và Ireland (2,2%), trong khi tỉ lệ đa kháng yếu được nhận thấy tại Đức (15,1%). Bảng 3 trình bày tỉ lệ đa kháng ở các lục địa và các nước khác nhau. Bàn luận Trong hai thập niên qua, sự sử dụng rộng rãi một số kháng sinh (ví dụ clarithromycin trong nhiễm khuẩn hô hấp hoặc levofloxacin trong nhiễm khuẩn niệu) trong dân số chung đã làm tăng sự xuất hiện của H. pylori kháng thuốc tiên phát ở nhiều nước khác nhau. Sự đề kháng tiên phát của H. pylori với các kháng sinh hiện được dùng trong các phác đồ điều trị đã ảnh hưởng đến kết cục điều trị. Cụ thể, sự hiện diện của đề kháng clarithromycin hoặc metronidazole làm giảm có ý nghĩa tỉ lệ thành công của liệu pháp đầu tay chống H. pylori (Megraud F, 2004). Dựa trên những quan sát này, hướng dẫn điều trị hiện nay của châu Âu đề nghị kéo dài liệu pháp ba thuốc chuẩn lên 14 ngày ở những nơi có tỉ lệ kháng tiên phát với clarithromycin >15-20%, ưu tiên kết hợp với amoxicillin nếu tỉ lệ kháng tiên phát với metronidazole >40% (Malfertheiner P và cs, 2007). Do đó, việc biết được tỉ lệ kháng thuốc thực tế với những kháng sinh được dùng nhiều nhất để tiệt trừ H. pylori có vai trò then chốt đối với thực hành lâm sàng. Nghiên cứu này đã điểm tổng kết một cách có hệ thống những dữ liệu gần đây về đề kháng kháng sinh tiên phát. Phát hiện có ý nghĩa đầu tiên là sự đề kháng của H. pylori đối với TỔNG QUAN clarithromycin – kháng sinh mạnh nhất khả dụng hiện nay để điều trị loại nhiễm khuẩn này – đang gia tăng trên khắp thế giới. Dữ liệu cập nhật cho thấy tỉ lệ kháng tiên phát với clarithromycin cao đến 48,2-49,2% (6 nghiên cứu có trị số >20%) ở một số nước châu Âu, trong khi trị số cao nhất được tìm thấy trước đây trong năm 2000 là 22-23,4% (với 2 nghiên cứu có trị số >20%) (Megraud F, 2004). Tỉ lệ kháng clarithromycin cũng cao hơn một cách có ý nghĩa khi đánh giá bằng phương pháp PCR so với phương pháp nuôi cấy, dẫn đến một số điểm chưa chắc chắn để áp dụng thông tin trong lâm sàng. Tuy nhiên, gần đây người ta đã nhận thấy rằng khi kiểu hình đề kháng clarithromycin được di truyền do một đột biến điểm chuyên biệt – gọi là A2143G – tỉ lệ tiệt trừ vi khuẩn cực kỳ thấp (De Francesco V và cs, 2010). Đáng lưu ý là tỉ lệ kháng clarithromycin tiên phát ở nữ cao hơn rõ rệt so với nam, và ở bệnh nhân khó tiêu cơ năng cao hơn so với bệnh nhân loét dạ dày-tá tràng. Cần lưu ý đến những quan sát này trong việc điều chỉnh liệu pháp đầu tay cho phù hợp trong thực hành lâm sàng. Số liệu tổng hợp trong tổng quan này cho thấy sự đề kháng metronidazole đã gia tăng có ý nghĩa từ châu Âu đến châu Mỹ. Cụ thể, tỉ lệ kháng tính chung ờ châu Âu là 17%, vẫn luôn dưới <40% ở tất cả các nước, trong khi tỉ lệ này cao rõ rệt ở châu Á lẫn châu Mỹ. So với số liệu của các nghiên cứu được công bố trước đây, tỉ lệ kháng tiên phát với metronidazole vẫn ổn định ở các nước châu Âu. Do đó, theo hướng dẫn điều trị hiện hành, nên ưu tiên dùng metronidazole hơn là amoxicillin trong điều trị đầu tay ở châu Âu, nhưng không nên ưu tiên sử dụng ở bệnh nhân châu Á. Một nghiên cứu ở Ý cho thấy kháng metronidazole tiên phát hiện diện ở 22,9% bệnh nhân người Ý và ở 50% bệnh nhân nhập cư, gợi ý bệnh nhân người nước ngoài có lẽ nên được điều trị bằng một liệu pháp đầu tay khác (Zullo A và cs, 2007). Tương tự như clarithro- mycin, số liệu phân tích ở đây cho thấy tỉ lệ kháng metronidazole ở bệnh nhân nữ cao hơn một cách có ý nghĩa. Vì vậy, dưới góc độ lâm sàng, bệnh nhân nữ có xác suất thành công thấp hơn khi được điều trị bằng một phối hợp clarithromycin- metronidazole, thế nhưng giả thiết này cần được kiểm định bằng một nghiên cứu tiền cứu riêng biệt. Tỉ lệ kháng levofloxacin xem ra đang tăng trên thế giới. Điều này có thể làm giảm hiệu quả của việc tiệt trừ H. pylori với các phác đồ điều trị chứa levofloxacin. Do đó, kháng sinh này nên để dành cho liệu pháp hàng thứ hai như đề xuất trong các tài liệu hướng dẫn hiện nay của Ý (Caselli M và cs, 2007), Hoa Kỳ (Chey WD & Wong BC , 2007) và châu Á (Fock KM và cs, 2009). Trừ châu Phi (43,%), tỉ lệ kháng tetracyclin vẫn rất thấp (<3%) ở tất cả các nước, không thấy sự gia tăng thực sự so với số liệu của những nghiên cứu được công bố trước năm 2000. Đáng tiếc là những phác đồ có chứa tetracyclin đòi hỏi phải sử dụng muối bismuth, vốn không còn lưu hành ở một số nước châu Âu vì những tác dụng phụ tiềm năng. Sau cùng, dữ liệu về kháng amoxicillin tiên phát còn nhiều mâu thuẫn. Thật vậy, sự đề kháng này hầu như không thấy ở một vài nước nhưng lại cao đến 85% ở Cameroon. Khó có thể lý giải được sự cách biệt này, và có thể có một vai trò nào đó của tính phức tạp của cơ chế đề kháng amoxicillin (đột biến gen pbp, thay đổi tính thấm màng tế bào, bơm tống xuất, v.v). Kết luận Tỉ lệ H. pylori đề kháng với những loại kháng sinh khác nhau đang gia tăng. Những dữ liệu được trình bày ở đây làm nổi bật nhu cầu giám sát thường xuyên liên tục đối với H. pylori, để có thể điều chỉnh phác đồ điều trị một cách thích hợp trong thực hành lâm sàng. BS Nguyễn Triển dịch theo Vincenzo De Francesco và cs. J Gastrointestin Liver Dis 2010; 19 (4): 409-414

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftong_quan_ve_tinh_hinh_de_khang_khang_sinh_cua_h_pylori_tren.pdf
Tài liệu liên quan