Một là, nên tách trách nhiệm BTTH
của người thi công thành một điều luật
riêng với những quy định riêng thể hiện
bản chất của trách nhiệm là trách nhiệm
BTTH do hành vi trái pháp luật gây ra;
điều kiện làm phát sinh trách nhiệm là có
lỗi của người thi công; nội dung của trách
nhiệm có thể là trách nhiệm độc lập của
người thi công nếu thiệt hại xảy ra hoàn
toàn do lỗi của người thi công, hoặc có thể
là trách nhiệm liên đới trong trường hợp
chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được
giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình
xây dựng hoặc người thứ ba cũng có lỗi
khiến thiệt hại xảy ra.
Hai là, xác định rõ tiêu chí để một
chủ thể phải chịu trách nhiệm BTTH theo
hướng: Trong trường hợp nhà cửa, công
trình xây dựng gây thiệt hại thì người
chiếm hữu nhà cửa, công trình xây dựng
chịu trách nhiệm BTTH; người chiếm hữu
sẽ được loại trừ trách nhiệm nếu chứng
minh được là mình không có lỗi, khi đó
chủ sở hữu sẽ chịu trách nhiệm bồi thường
(kể cả khi chủ sở hữu chứng minh được là
mình không có lỗi). Quy định này rất chặt
chẽ, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội
của nước ta.
Ba là, bổ sung khoản 2 Điều 584
trường hợp được loại trừ trách nhiệm
BTTH là “thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi
của người thứ ba”. Theo đó, Khoản 2 Điều
584 quy định như sau: “Người gây thiệt hại
không phải chịu trách nhiệm BTTH trong
trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện
bất khả kháng, hoàn toàn do lỗi của bên bị
thiệt hại hoặc hoàn toàn do lỗi của người
thứ ba, trừ trường hợp có thỏa thuận khác
hoặc luật có quy định khác”
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 208 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra - Dưới góc nhìn so sánh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Bài viết nghiên cứu quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra trong pháp luật dân sự ở các
quốc gia Anh, Pháp, Đức và Bộ Tham khảo chung về bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng (DCFR). Trên cơ sở đó, bài viết phân tích những
hạn chế trong Điều 605 Bộ luật Dân sự năm 2015 về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra, từ đó đưa
ra những kiến nghị hoàn thiện quy định về trách nhiệm này.
Vũ Thị Lan Hương*
Abstract:
This article provides detailed reviews of the applicable provisions
of the compensation for damages caused by houses and other
construction works or buildings in the civil laws of England, France,
German and the Draft Common Frame of Reference (DCFR). Based
on that, this article also analyzes the limitations in provisions of the
compensation for damages caused by houses and other construction
works or buildings in Article 605 of Civil Code of 2015, and provides
reference suggestions to improve this provision.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Luật Dân sự, bồi thường
thiệt hại, nhà cửa, công trình xây
dựng.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 16/07/2017
Biên tập: 28/07/2017
Duyệt bài: 02/08/2017
Article Infomation:
Keywords: Civil law; compensation
for damage; houses and other
construction works or buildings
Article History:
Received: 16 Jul. 2017
Edited: 28 Jul. 2017
Appproved: 02 Aug. 2017
* ThS, GV Khoa Luật, Đại học Lao động - Xã hội.
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NHÀ CỬA,
CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG KHÁC GÂY RA - DƯỚI GÓC NHÌN SO SÁNH
Ngay từ thời La Mã cổ đại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH) do nhà cửa, công trình
xây dựng khác gây ra đã được các học giả
La Mã đề cập đến thông qua quy định về
tố quyền cautio damni infecti (tố quyền
để bảo vệ sự thiệt hại viễn ảnh1). Theo đó,
1 Xem Vũ Văn Mẫu, Việt Nam Dân luật lược khảo (Quyển II – Nghĩa vụ và khế ước), Nxb. Sài Gòn, Sài Gòn, 1963, tr. 469.
trong trường hợp một tòa nhà có nguy cơ
bị sụp đổ, tạo ra một mối đe dọa cho những
người láng giềng thì những người này có
quyền yêu cầu các Pháp quan buộc chủ sở
hữu của tòa nhà phải nộp một số tài sản bảo
đảm với mục đích nếu thiệt hại thực sự xảy
ra thì người bị thiệt hại sẽ luôn được bồi
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
53Số 18(346) T9/2017
thường. Cùng với tố quyền cautio damni
infecti, Luật La Mã cũng quy định trách
nhiệm bồi thường cho những thiệt hại gây
ra bởi các vật bị ném ra hoặc rơi ra khỏi tòa
nhà (actio effusis et dejectis).
Kế thừa các quy định trong Luật
La Mã, sau này, pháp luật dân sự của các
quốc gia đều có quy định về trách nhiệm
BTTH do nhà cửa, công trình xây dựng
khác gây ra. Tuy nhiên, do được xây dựng
dựa trên nền tảng những học thuyết khác
nhau nên bản chất và nội dung của trách
nhiệm này ở các quốc gia cũng được quy
định khác nhau.
1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nhà cửa, công trình xây dựng khác gây
ra trong pháp luật của Anh
Ở Anh không có quy định riêng về
trách nhiệm BTTH do nhà cửa, công trình
xây dựng khác gây ra. Trách nhiệm này
nằm trong trách nhiệm BTTH trên tài sản
(Liability for harm occurring on premises)
được quy định trong Luật về Trách nhiệm
của người chiếm hữu năm 1957 và 1984
(Occupiers’ Liability Act 1957, 1984)2.
Khái niệm “premises” (tài sản) trong
trường hợp y được hiểu là “bất kỳ một cấu
trúc cố định hoặc di động nào bao gồm
2 Xem Christian von Bar (2009), Non-contractual Liability Arising Out of Damage Caused to Another: (PEL Liab.
Dam.), Sellier Eropean law publishers, p. 671.
3 Điểm a, khoản 3, điều 1 Occupiers’ Liability Act 1957: “any fixed or moveable structure, including any vessel, vehicle
or aircraft”. Nguồn:
4 Xem thêm học thuyết về sự cẩu thả (negligence) tại: Kirsty Horsey, Erika Rackley, 2013, Tort Law, OUP Oxford, 4th
edition, p. 27-278.
5 Xem thêm S.I. Strong, Liz Williams, 2011, Complete Tort Law: Text, Cases, & Materials, OUP Oxford, p.66, 67:
“Negligence is the omission to do something which a reasonable man. would do, or doing something which a prudent
and reasonable man would not do”.
6 Xem thêm Kirsty Horsey, Erika Rackley, 2013, Tort Law, OUP Oxford, 4th edition, p. 38-44.
Để thiết lập trách nhiệm BTTH do cẩu thả (negligence), nguyên đơn cần chứng minh được ba yếu tố (elements): (1)
bị đơn có một nghĩa vụ pháp lý cần quan tâm đến nguyên đơn (a legal duty owed by the defendant to the claimant to
take care); (2) bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ đó (a breach of this duty by the defendant); (3) thiệt hại xảy ra là do sự vi
phạm nghĩa vụ đó của bị đơn (damage to the claimant, caused by the breach).
cả tàu, xe hoặc máy bay”3. Trách nhiệm
BTTH trên tài sản của Anh được xây dựng
dựa trên học thuyết về sự cẩu thả (the tort
of negligence4). Theo Baron Alderson
trong Blyth v Birmingham Waterworks
Company (1856) 11 Ex Ch 781, “sự cẩu
thả” (negligence) là “việc bỏ qua không
thực hiện những điều mà một người bình
thường sẽ làm hoặc làm những việc
mà những người thận trọng bình thường
sẽ không làm”5. Để được BTTH, người
bị thiệt hại phải chứng minh được người
chiếm hữu (ocupiers) tài sản có một
nghĩa vụ theo quy định của pháp luật là
phải quan tâm bảo đảm sự an toàn về tính
mạng, tài sản, sức khoẻ cho mình (the
common duty of care); người chiếm hữu
đã vi phạm nghĩa vụ đó (a breach of this
duty); thiệt hại xảy ra là hậu quả của việc
vi phạm nghĩa vụ của người chiếm hữu6.
Tuy nhiên, mức độ “quan tâm” (care) của
người chiếm hữu đối với người bị thiệt
hại lại phụ thuộc vào “địa vị pháp lý của
người bị thiệt hại là “khách mời” (visitors)
hay “kẻ xâm phạm” (trespasser). Luật về
Trách nhiệm của người chiếm hữu năm
1957 (Occupiers’ Liability Act 1957) quy
định trách nhiệm của người chiếm hữu
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
54 Số 18(346) T9/2017
đối với “khách mời”7. Khách mời” được
hiểu là những người được người chiếm
hữu “mời” hoặc “cho phép” (một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp) được đi vào hoặc
được sử dụng tài sản8. Đối với “khách
mời”, người chiếm hữu có nghĩa vụ quan
tâm một cách hợp lý (the common duty
of care) trong mọi trường hợp để đảm
bảo khách mời sẽ được an toàn (cả về
sức khoẻ, tính mạng, tài sản) trong việc
sử dụng tài sản (premises) phù hợp với
mục đích mà người khách đã được mời
hoặc được cho phép9. Người chiếm hữu
chỉ được loại trừ trách nhiệm trong hai
trường hợp: (1) thiệt hại xảy ra do lỗi của
khách mời đã không theo sự cảnh báo của
người chiếm hữu về một mối nguy hiểm
trên tài sản (với điều kiện sự cảnh báo ở
mức đủ để khách mời có thể được an toàn
hợp lý trong mọi trường hợp)10; (2) thiệt
hại xảy ra cho khách mời là do lỗi của
bên thứ ba (VD: lỗi của nhà thầu do người
chiếm hữu thuê để xây dựng, bảo trì, sửa
chữa tài sản)11.
7 Xem thêm Occupiers’ Liability Act 1957 tại
8 Xem thêm khoản 2 Điều 1 Occupiers’ Liability Act 1957. Nguồn:
contents.
9 Xem thêm khoản 2 Điều 2 Occupiers’ Liability Act 1957: “The common duty of care is a duty to take such care as in
all the circumstances of the case is reasonable to see that the visitor will be reasonably safe in using the premises for
the purposes for which he is invited or permitted by the occupier to be there”. Nguồn:
ukpga/Eliz2/5-6/31/contents.
10 Xem thêm điểm a, khoản 4 Điều 2 Occupiers’ Liability Act 1957. Nguồn:
Eliz2/5-6/31/contents.
11 Xem thêm điểm b, khoản 4 Điều 2 Occupiers’ Liability Act 1957. Nguồn:
Eliz2/5-6/31/contents.
12 Xem Occupiers’ Liability Act 1984 tại
13 Xem thêm https://en.wikipedia.org/wiki/Occupiers%27_Liability_Act_1984’.
14 Xem John Hodgson, John Lewthwaite, 2007, Tort Law Textbook, OUP Oxford, p. 219:
"A trespasser is a person who goes upon land without invitation of any sort and whose presence is unknown to the
proprietor or, if known, is practically objected to".
15 Xem khoản 4 Điều 1 Occupiers’ Liability Act 1984: “Where, by virtue of this section, an occupier of premises owes a
duty to another in respect of such a risk, the duty is to take such care as is reasonable in all the circumstances of the case
to see that he does not suffer injury on the premises by reason of the danger concerned”. Nguồn:
gov.uk/ukpga/1984/3/section/1.
Luật về Trách nhiệm của người
chiếm hữu năm 1984 quy định trách nhiệm
của người chiếm hữu đối với “những người
không phải là khách mời” (persons other
than his visitors)12 - hay còn gọi là “kẻ xâm
phạm” (trespasser)13. Trong Robert Addie
& Sons (Colliery) Ltd v. Dumbreck [1929]
AC 358, Lord Dunedin đã định nghĩa về
“kẻ xâm phạm” là: “những người xâm nhập
vào đất của người khác mà không được mời
và chủ sở hữu cũng không biết về sự có
mặt của họ, hoặc nếu biết cũng không đồng
ý”14. Đối với “kẻ xâm phạm”, người chiếm
hữu vẫn có nghĩa vụ quan tâm bảo đảm an
toàn cho “kẻ xâm phạm”. Tuy nhiên, mức
độ quan tâm của người chiếm hữu đối với
“kẻ xâm phạm” “nhẹ” hơn rất nhiều so với
“khách mời”. Người chiếm hữu chỉ cần bảo
vệ sự an toàn về tính mạng và sức khoẻ mà
không cần bảo vệ sự an toàn về tài sản cho
“kẻ xâm phạm”15. Người chiếm hữu chỉ cần
bảo vệ để “kẻ xâm phạm” không gặp nguy
hiểm trên “tài sản” (premises) của mình
trong trường hợp: người chiếm hữu đã biết
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
55Số 18(346) T9/2017
về sự nguy hiểm hoặc có cơ sở hợp lý để tin
rằng nó tồn tại; người chiếm hữu biết hoặc
có lý do hợp lý để tin rằng “khách không
mời” đang trong vùng nguy hiểm hoặc có
thể đi vào vùng nguy hiểm đó; trong khả
năng của mình, người chiếm hữu có thể
đưa ra một số biện pháp bảo vệ16.
2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nhà cửa, công trình xây dựng khác gây
ra trong pháp luật của Đức
Bộ luật Dân sự (BLDS) Đức dành
tới 3 điều luật (Điều 836, 837, 838)17 để
quy định về trách nhiệm đối với những
thiệt hại phát sinh do “sự sụp đổ hoặc sự
vỡ ra” của một “toà nhà hoặc công trình
xây dựng khác gắn liền với đất” (Gebäudes
oder eines anderen mit einem Grundstück
verbundenen Werkes)18.
Khái niệm “toà nhà” (Gebäudes)
và “công trình” (Werkes) được giải thích
là những cấu trúc không cần phải kết nối
vĩnh viễn, chặt chẽ với mặt đất. Nó có
thể bao gồm cả các cửa hàng, giàn giáo,
cổng, gian hàng triển lãm, bia mộ, và các
16 Xem khoản 3 Điều 1 Occupiers’ Liability Act 1984. Nguồn: 1984/3/section/1.
17 Xem bản tiếng Đức tại https://dejure.org/gesetze/BGB;
Bản dịch tiếng Việt: Trường Đại học Luật Hà Nội, German Civil Code (BGB) BLDS Đức: Chế định nghĩa vụ, Nxb Lao
động, H., tr. 685-686.
18 Khoản 1 Điều 836 BLDS Đức: “Wird durch den Einsturz eines Gebäudes oder eines anderen mit einem Grundstück ver-
bundenen Werkes oder durch die Ablösung von Teilen des Gebäudes oder des Werkes ein Mensch getötet, der Körper
oder die Gesundheit eines Menschen verletzt oder eine Sache beschädigt, so ist der Besitzer des Grundstücks, sofern
der Einsturz oder die Ablösung die Folge fehlerhafter Errichtung oder mangelhafter Unterhaltung ist, verpflichtet,
dem Verletzten den daraus entstehenden Schaden zu ersetzen. Die Ersatzpflicht tritt nicht ein, wenn der Besitzer zum
Zwecke der Abwendung der Gefahr die im Verkehr erforderliche Sorgfalt beobachtet hat”; nguồn: https://dejure.org/
gesetze/BGB/836.html.
19 RG 23 March 1916, JW 1916, 1019 (booth); BGH 27 April 1999, NJW 1999, 2593 = VersR 1999, 1424; BGH 4 March
1997, NJW 1997, 1853 = VersR 1997, 835; BGH 21 April 1959, 694 (walls, gates, and scaffolding); BGH 29 March
1977, NJW 1977, 1392 = Vers 1977, 668 (gravestone); BGH 9 July 1959, VersR 1959, 948 (bridge).
(Trích dẫn trong Cees van Dam, 2013, European Tort Law, 2th edition, OUP Oxford, p.465).
20 BGH 4 March 1997, NJW 1997, 1853 = VersR 1997, 835 (scaffolding); RG 13 October 1930, JW 1931, 194 (sun-
shade); BGH 12 March 1985, 2588 = VersR 1985, 666 (shower cubicle)
(Trích dẫn trong Cees van Dam, sđd, tr. 465).
21 BGH 8 December 1954, NJW 1955, 300 (Trích dẫn trong Cees van Dam, sđd, tr. 465).
cây cầu19. Trách nhiệm này được áp dụng
với cả những tấm ván rơi ra từ giàn giáo
hoặc những vòi hoa sen bị rơi xuống từ
chỗ được gắn cố định trên tường20 nhưng
không được áp dụng với tuyết rơi xuống
từ mái nhà vì tuyết không phải là một phần
của toà nhà21.
Theo quy định của BLDS Đức, trách
nhiệm BTTH do nhà cửa, công trình xây
dựng khác gây ra ở Đức phát sinh khi thoả
mãn các điều kiện: (1) người bị thiệt hại
chứng minh được ba yếu tố: có thiệt hại,
có sự tự thân tác động của nhà cửa, công
trình xây dựng và có mối quan hệ nhân
quả giữa thiệt hại xảy ra với sự tự thân tác
động của nhà cửa, công trình xây dựng;
(2) chủ sở hữu của mảnh đất mà trên đó có
các toà nhà hoặc công trình, người chiếm
hữu toà nhà hoặc công trình trên đất của
người khác và người chịu trách nhiệm
bảo trì toà nhà hoặc công trình không
thể chứng minh được là mình không có
lỗi trong việc để nhà cửa, công trình xây
dựng gây thiệt hại.
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
56 Số 18(346) T9/2017
Như vậy, có thể thấy rằng, BLDS Đức
sử dụng học thuyết lỗi do suy đoán để xác
định trách nhiệm BTTH do nhà cửa, công
trình xây dựng khác gây ra22. So với trách
nhiệm BTTH trong pháp luật Anh, BLDS
Đức tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người
bị thiệt hại do gánh nặng về nghĩa vụ chứng
minh lỗi đã được chuyển từ nguyên đơn sang
bị đơn. Sự chuyển “gánh nặng” này là hợp lý
bởi với tư cách là chủ sở hữu, người chiếm
hữu, người bảo trì nhà cửa, công trình xây
dựng thì những chủ thể này thường có kiến
thức, có sự am hiểu nhất định về nhà cửa,
công trình xây dựng thuộc quyền sở hữu,
chiếm hữu, quản lý của mình, do đó, họ có
những điểm thuận lợi nhất định khi đưa ra
những bằng chứng chứng minh mình đã thực
hiện đầy đủ những biện pháp phòng ngừa,
chăm sóc cần thiết nhưng nhà cửa, công trình
xây dựng vẫn sụp đổ, gây thiệt hại.
3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nhà cửa, công trình xây dựng khác gây
ra trong pháp luật của Pháp
Điều 1386 BLDS Pháp23 quy định
22 Xem Xiang Li, Jigang Jin, 2014, Concise Chinese Tort Laws, Springer, p. 29.
Về lỗi do suy đoán (Presumed Fault Liability):
“According to this principle, if the victim can prove damage or injury, illegal act, as well as causation, and the perpe-
trator cannot prove that there was no intention or negligence relating to the act and damage, then the judge can make the
presumption that the perpetrator is at fault and order him to pay for the damage” (Theo nguyên tắc này, nếu nạn nhân có
thể chứng minh có thiệt hại, có hành vi trái pháp luật, cũng như có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và
thiệt hại; còn người gây thiệt hại không thể chứng minh không có lỗi cố ý hoặc vô ý gây ra thiệt hại, khi đó thẩm phán
có thể suy đoán rằng người gây thiệt hại có lỗi và buộc người đó chịu trách nhiệm bồi thường).
23 Điều 1386 BLDS Pháp - bản Tiếng Pháp “Le propriétaire d'un bâtiment est responsable du dommage causé par sa
ruine, lorsqu'elle est arrivée par une suite du défaut d'entretien ou par le vice de sa construction”; nguồn https://www.
legifrance.gouv.fr/affichCodeArticle.do?cidTexte=LEGITEXT000006070721&idArticle=LEGIARTI000006438858;
Bản dịch Tiếng Việt: “Chủ sở hữu một công trình xây dựng phải chịu trách nhiệm về thiệt hại do công trình bị đổ vì
thiếu bảo dưỡng hoặc vì khuyết tật trong khi xây dựng”, Nhà Pháp luật Việt - Pháp, 1998, BLDS của nước Cộng hoà
Pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, H., tr. 366.
24 Điều 1386 BLDS Pháp.
25 Xem C. Giraudel, Responsabilité du fait des bâtiments, Jurisclasseur, 1996, fascicule 152, n°34.
Trích dẫn trong Olivia Depetris, La responsabilité civile délictuelle du fait des immeubles,
fr/La%20responsabilit%E9%20civile%20d%E9lictuelle%20du%20fait%20des%20immeubles.html, truy cập ngày
17/7/2016.
về trách nhiệm của chủ sở hữu của một
“công trình xây dựng” (bâtiment) đối với
những “thiệt hại do công trình bị đổ vì
thiếu bảo dưỡng hoặc vì khuyết tật trong
khi xây dựng” (du défaut d'entretien ou
par le vice de sa construction)24. Trong
thời kỳ đầu, khi LDS Pháp mới được ban
hành, khoản 1 Điều 1384 chỉ được coi
như một điều khoản chuyển tiếp từ các
quy định về trách nhiệm BTTH do lỗi
(Điều 1382, Điều 1383) sang các quy định
về trách nhiệm BTTH không cần chứng
minh yếu tố lỗi (Điều 1385, Điều 1386)
mà chưa được thừa nhận là một điều luật
độc lập như hiện nay. Chính vì vậy, để bảo
vệ tối đa quyền lợi của người bị thiệt hại,
giúp người bị thiệt hại được bồi thường
mà không cần phải chứng minh yếu tố lỗi,
Toà án Pháp đã giải thích khái niệm “công
trình xây dựng” theo nghĩa rất rộng, thậm
chí còn bị đánh giá là “quá mức lỏng
lẻo”25. Hầu như mọi loại tài sản đều được
Toà án quy thành “toà nhà” để buộc chủ
sở hữu phải chịu trách nhiệm bồi thường.
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
57Số 18(346) T9/2017
Trong bản án ngày 20/8/1877, Tòa án đã
ra phán quyết coi thiệt hại do một cái cây
bị đổ gây ra cũng là thiệt hại do một “công
trình xây dựng” gây ra và buộc chủ sở hữu
có trách nhiệm bồi thường26. Trong một
bản án khác, ngày 01/3/1904, Toà án đã
coi thiệt hại do một chiếc tủ gương bị đổ
khiến người làm công bị thương cũng là
thiệt hại “công trình xây dựng” gây ra27.
Chỉ sau phán quyết về vụ Teffaine (năm
1896) - vụ vợ của người tử ạn trong một
vụ nổ nồi hơi của một chiếc tàu kéo mà
nạn nhân đang làm việc trên đó khởi
kiện chủ sở hữu yêu cầu bồi thường -
thì Toà Phá án Pháp mới chính thức vận
dụng Khoản 1 Điều 1384 để buộc chủ sở
hữu tàu kéo phải chịu trách nhiệm bồi
thường28. Bằng phán quyết này, Toà Phá
án đã công nhận giá trị độc lập cho khoản
1 Điều 1384. Khoản 1 Điều 1384 đã chính
thức trở thành một nguyên tắc cơ bản cho
trách nhiệm BTTH do tác động của vật
gây ra - một loại trách nhiệm BTTH do
tài sản gây ra, không cần chứng minh yếu
tố lỗi. Việc giải thích khái niệm “công
26 Xem Paris, 20 août 1877, S. 1878.2.48.
Trích dẫn trong Olivia Depetris, La responsabilité civile délictuelle du fait des immeubles,
fr/La%20responsabilit%E9%20civile%20d%E9lictuelle%20du%20fait%20des%20immeubles.html, truy cập ngày
17/7/2016.
27 Xem Paris, 11 mars 1904, D. 1904.2.257.
Trích dẫn trong Olivia Depetris, La responsabilité civile délictuelle du fait des immeubles,
bles.html, truy cập ngày 17/7/2016.
28 Franz Werro, (2010), Liability for Harm Caused by Things,
https://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=1639357 truy cập ngày 1/6/ 2016.
29 Paris, 26 novembre 1946, JCP G 1947.2.3444. 62 Civ «une construction résultant de l’assemblage de matériaux qui,
d’une part, sont reliés artificiellement de façon à procurer une union durable, et d’autre part, sont incorporés au sol ou
à un immeuble par nature”.
Trích dẫn trong Olivia Depetris, La responsabilité civile délictuelle du fait des immeubles,
fr/La%20responsabilit%E9%20civile%20d%E9lictuelle%20du%20fait%20des%20immeubles.html, truy cập ngày
17/7/2016.
trình xây dựng” theo hướng rộng rãi như
trước không còn cần thiết. Khái niệm
“công trình xây dựng” dần được Toà án
giải thích theo nghĩa chặt chẽ hơn. Trong
bản án ngày 26/11/1946, Tòa Phúc thẩm
Paris đã giải thích “công trình xây dựng”
là công trình xây dựng hình thành từ việc
lắp ráp các vật liệu bởi bàn tay con người,
được gắn vào trong đất hoặc các bất động
sản do tính chất”29.
Trách nhiệm BTTH theo Điều 1386
BLDS Pháp phát sinh khi thoả mãn ba
điều kiện: (1) có thiệt hại; (2) có sự tự
thân tác động của công trình xây dựng;
(3) có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại
xảy ra với sự tự thân tác động của công
trình xây dựng (thiệt hại là hậu quả của sự
sụp đổ của nhà cửa, công trình xây dựng
khác). Nguyên đơn không cần chứng minh
yếu tố lỗi của chủ sở hữu; ngược lại, chủ
sở hữu cũng không thể được miễn trách
nhiệm chỉ vì chứng minh được rằng mình
không có lỗi.
Có thể nói rằng, BLDS Pháp đã xây
dựng trách nhiệm BTTH trên cơ sở học
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
58 Số 18(346) T9/2017
thuyết về trách nhiệm nghiêm ngặt30. Đây
chính là điểm khác biệt với trách nhiệm
BTTH do nhà cửa, công trình xây dựng
khác gây ra trong BLDS Đức. Nếu như
trong BLDS Đức, bị đơn sẽ được loại trừ
trách nhiệm nếu chứng minh được là mình
không có lỗi (đã tuân thủ sự cẩn trọng cần
thiết nhằm mục đích phòng tránh nguy
cơ31); còn trong BLDS Pháp, kể cả trong
trường hợp chứng minh được là mình
không có lỗi, bị đơn vẫn phải chịu trách
nhiệm. Bị đơn chỉ được loại trừ trách
nhiệm trong ba trường hợp: thiệt hại xảy ra
là do sự kiện bất khả kháng, thiệt hại xảy
ra hoàn toàn do lỗi của nạn nhân hoặc hoàn
toàn do lỗi của người thứ ba.
So với pháp luật dân sự của Anh và
Đức, các quy định trong BLDS Pháp về
trách nhiệm BTTH do nhà cửa, công trình
xây dựng khác gây ra đã tạo điều kiện
thuận lợi tối đa cho nạn nhân trong việc
yêu cầu BTTH.
4. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nhà cửa, công trình xây dựng khác gây
ra trong Bộ Tham khảo chung về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng
30 Xem Richard A. Epstein, 1973, A Theory of Strict Liability.
Nguồn:
Trách nhiệm nghiêm ngặt (strict liability) hay còn gọi là trách nhiệm không cần lỗi (no-fault liability) là loại trách
nhiệm mà để được bồi thường nguyên đơn không cần chứng minh lỗi của bị đơn và ngược lại, bị đơn cũng không thể
được loại trừ trách nhiệm chỉ vì chứng minh được là mình không có lỗi. Bị đơn chỉ được loại trừ trách nhiệm trong ba
trường hợp: thiệt hại xảy ra là do sự kiện bất khả kháng, thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của nạn nhân hoặc hoàn toàn
do lỗi của người thứ ba.
31 Điều 836 BLDS Đức.
32 Xem thêm:Anemari-Iuliana Opritoiu, 2015, Introduction in DCFR –Draft Common Frame of References, nguồn: http://
jolas.ro/wp-content/uploads/2015/03/jolas3a8.pdf.
33 Xem Điều VI-3:02. Nguồn:
34 “Land and anything so attached to land as not to be subject to change of place by usual human action”. Nguồn: http://
ec.europa.eu/justice/policies/civil/docs/dcfr_outline_edition_en.pdf.
35 Xem Christian von Bar (2009), Non-contractual Liability Arising Out of Damage Caused to Another: (PEL Liab.
Dam.), Sellier Eropean law publishers, p. 660.
Với mong muốn nhằm nhất thể
hoá hệ thống pháp luật BTTH ngoài hợp
đồng để tiến tới xây dựng BLDS chung
châu Âu, hai nhóm nghiên cứu là Study
Group on a European Civil Code và
The Research Group on EC Private Law
(Acquis Group) đã xây dựng Bộ Tham
khảo chung về BTTH ngoài hợp đồng
(Draft common Frame of reference, viết
tắt là DCFR)32. Bộ DCFR không quy định
về trách nhiệm BTTH do nhà cửa, công
trình xây dựng khác gây ra, mà quy định
trách nhiệm đối với thiệt hại do tình trạng
không an toàn của bất động sản gây ra
(Accountability for damage caused by the
unsafe state of an immovable - Điều VI-
3:02)33. Khái niệm “bất động sản” được
quy định riêng tại phần Phụ lục, theo đó,
“bất động sản” là “đất đai và bất cứ cái gì
gắn liền với đất mà không thể thay đổi vị
trí bằng hành động bình thường của con
người”34. Với định nghĩa này, “bất động
sản” được hiểu là “những tòa nhà, cây cầu
bền vững và cấu trúc tương tự”. Khái niệm
“bất động sản” trong điều này tương đồng
với khái niệm tài sản (“premises”) trong
pháp luật Anh35.
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
59Số 18(346) T9/2017
Trách nhiệm theo Điều VI-3:02
của DCFR phát sinh khi thiệt hại xảy ra
là do “tình trạng không an toàn của bất
động sản”. “Tình trạng không an toàn của
bất động sản” được hiểu theo nghĩa rộng,
không chỉ bao gồm sự “sụp đổ” hoặc sự
“vỡ ra” của nhà cửa, công trình xây dựng
như trong BLDS Pháp và Đức mà còn
bao gồm cả các trường hợp khác như: sự
sụp đổ của một tấm bia mộ trong nghĩa
trang; sự trơn trượt của sàn nhà do dùng
quá nhiều dầu đánh bóng; sự thiếu những
tấm biển cảnh báo nguy hiểm tại nơi công
cộng ở những vị trí có cây cối bị đổ, có
lối đi phủ đầy băng chưa được dọn sạch,
có những cái hố chưa được che chắn; sự
không an toàn tại một bể bơi do hệ thống
nước lắp đặt không đúng quy cách khiến
trẻ em gặp nguy hiểm khi bơi hoặc lặn;
sự thiếu một hệ thống gọi điện khẩn cấp
khiến khách hàng bị khoá trái trong một
căn phòng mà không thể gọi cứu hộ để
thoát ra ngoài...36
Điều VI-3:02 của DCFR quy định
“người có quyền kiểm soát độc lập trên bất
động sản” (A person who independently
exercises control over an immovable) sẽ
phải chịu trách nhiệm đối với những thiệt
hại do tình trạng không an toàn của bất
động sản gây ra. Khoản 3 Điều VI-3:02
quy định: “Người có quyền kiểm soát độc
lập trên bất động sản” thông thường chính
36 Xem Christian von Bar (2009), Non-contractual Liability Arising Out of Damage Caused to Another: (PEL Liab.
Dam.), Sellier Eropean law publishers, p. 660.
37 Khoản 3 Điều Điều VI-3:02: “The owner of the immovable is to be regarded as independently exercising control, unless
the owner shows that another independently exercises control”. Nguồn:
dcfr_outline_edition_en.pdf.
38 Xem Christian von Bar (2009), Non-contractual Liability Arising Out of Damage Caused to Another: (PEL Liab.
Dam.), Sellier Eropean law publishers, p. 662.
là chủ sở hữu, trừ trường hợp chủ sở hữu
chứng minh được người khác đang thực
hiện quyền kiểm soát độc lập này37. Như
vậy, chủ thể chịu trách nhiệm BTTH có thể
là “chủ sở hữu” hoặc là “người chiếm hữu”
bất động sản tại thời điểm bất động sản gây
thiệt hại (VD: người thuê nhà, hoặc nếu
trong giai đoạn xây dựng, công ty xây dựng
phải chịu trách nhiệm cho sự an toàn trong
phạm vi công trường xây dựng...)38
Được xây dựng dựa trên học thuyết
về trách nhiệm nghiêm ngặt nên “Người có
quyền kiểm soát độc lập trên bất động sản”
không được loại trừ trách nhiệm BTTH
ngay cả khi chứng minh được mình không
có lỗi. Họ chỉ được loại trừ trách nhiệm
trong trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn
toàn do lỗi của người bị thiệt hại (Điều
VI. - 5:101), hoàn toàn do lỗi của bên thứ
ba/cơ quan có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật (Điều VI. - 5: 201) hoặc do
một sự kiện ngoài tầm kiểm soát (bất khả
kháng) theo Điều VI. - 5:302.
Nghiên cứu các quy định về trách
nhiệm BTTH do nhà cửa, công trình xây
dựng khác gây ra trong pháp luật của một
số quốc gia và trong Bộ Tham khảo chung
về BTTH ngoài hợp đồng cho thấy, dù
được xây dựng dựa trên những học thuyết
khác nhau: học thuyết về sự cẩu thả (Anh),
học thuyết về lỗi do suy đoán (Đức), học
thuyết về trách nhiệm nghiêm ngặt (Pháp,
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
60 Số 18(346) T9/2017
Bộ Tham khảo chung về BTTH ngoài hợp
đồng song pháp luật các quốc gia này đều
rất rõ ràng trong việc xác định bản chất của
trách nhiệm, điều kiện làm phát sinh trách
nhiệm, chủ thể phải chịu trách nhiệm và
các trường hợp loại trừ trách nhiệm.
5. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nhà cửa, công trình xây dựng khác trong
Bộ luật Dân sự năm 2015 của Việt Nam
Trách nhiệm BTTH do nhà cửa, công
trình xây dựng khác gây ra được quy định
tại Điều 605 BLDS năm 2015 của Việt
Nam. Đối chiếu quy định tại Điều 605
BLDS 2015 với các quy định trong pháp
luật dân sự của các quốc gia nói trên, có thể
rút ra một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, về bản chất trách nhiệm
Điều 605 không rõ ràng trong việc
xác định bản chất của trách nhiệm BTTH
do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây
ra. Cụ thể, nếu căn cứ vào đoạn 1 Điều
605: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu, người
được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công
trình xây dựng khác phải BTTH do nhà
cửa, công trình xây dựng khác đó gây thiệt
hại cho người khác” thì có thể khẳng định:
đây là trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra
(nguyên nhân gây thiệt hại là “do nhà cửa,
công trình xây dựng khác gây ra”). Nhưng
nếu căn cứ vào đoạn 2 Điều 605: “Khi
người thi công có lỗi trong việc để nhà cửa,
công trình xây dựng khác gây thiệt hại thì
phải liên đới bồi thường” - thì đây lại là
trách nhiệm BTTH do hành vi trái pháp
luật, có lỗi (của người thi công gây ra).
Trong cùng một điều luật, chúng ta đã
thấy hai sự mâu thuẫn: (1) mâu thuẫn giữa
tên gọi và nội dung điều luật (tên gọi là
“trách nhiệm BTTH do nhà cửa, công trình
xây dựng khác gây ra” nhưng nội dung lại
điều chỉnh trách nhiệm BTTH do lỗi của
người thi công gây ra); (2) mâu thuẫn trong
chính nội dung của điều luật khi đoạn 1 thì
quy định về trách nhiệm BTTH do tài sản
gây ra còn đoạn 2 lại quy định về trách
nhiệm BTTH do hành vi trái pháp luật có
lỗi gây ra.
Thứ hai, về điều kiện làm phát sinh
trách nhiệm
Sự mâu thuẫn trong việc xác định
bản chất của trách nhiệm đã dẫn đến
sự mâu thuẫn trong việc xác định điều
kiện làm phát sinh trách nhiệm. Nếu
theo đoạn 1 Điều 605 thì để làm phát
sinh trách nhiệm BTTH của chủ sở hữu,
người chiếm hữu, người được giao quản
lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng
nguyên đơn cần chứng minh ba điều kiện:
có thiệt hại, có sự tự thân tác động của
nhà cửa, công trình xây dựng và có mối
quan hệ nhân quả giữa thiệt hại với sự
tự thân tác động của nhà cửa, công trình
xây dựng mà không cần chứng minh lỗi
của chủ sở hữu, người chiếm hữu, người
được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công
trình xây dựng.
Trong khi đó, để buộc người thi công
phải chịu trách nhiệm BTTH thì nguyên
đơn lại phải chứng minh bốn điều kiện:
có thiệt hại, có hành vi trái pháp luật của
người thi công, có mối quan hệ nhân quả
giữa thiệt hại với hành vi trái pháp luật của
người thi công và quan trọng nhất là phải
chứng minh được cả lỗi của người thi công.
Đoạn 2 Điều 605 quy định trách
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
61Số 18(346) T9/2017
nhiệm của người thi công là trách nhiệm
liên đới (“Khi người thi công có lỗi trong
việc để nhà cửa, công trình xây dựng khác
gây thiệt hại thì phải liên đới bồi thường”).
Điều này có nghĩa, nếu người thi công
có lỗi họ phải liên đới cùng chủ sở hữu,
người chiếm hữu, người được giao quản
lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng
BTTH. Vấn đề đặt ra trong trường hợp này,
nguyên đơn phải chứng minh những gì để
được BTTH? Chứng minh thiệt hại xảy
ra là do sự tự thân tác động của nhà cửa,
công trình xây dựng hay chứng minh thiệt
hại xảy ra là do hành vi trái pháp luật có
lỗi của người thi công? Hay cả hai? Trong
trường hợp người thi công có lỗi thì chỉ
cần chứng minh lỗi của người thi công hay
phải chứng minh cả lỗi của chủ sở hữu,
người chiếm hữu, người được giao quản
lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng?
Về vấn đề này, pháp luật hiện hành
chưa có phương hướng giải quyết.
Thứ ba, về chủ thể chịu trách nhiệm
BTTH
Điều 605 BLDS 2015 quy định tới
năm chủ thể phải chịu trách nhiệm BTTH là:
chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được
giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình
xây dựng (trong khi đó tối đa như BLDS
Đức cũng chỉ quy định đến ba chủ thể (chủ
39 Điều 717 BLDS Nhật Bản quy định: “Nếu việc xẩy ra thiệt hại đối với người khác vì nguyên nhân sai sót trong xây
dựng hoặc bảo quản cấu trúc trên đất thì người chiếm hữu cấu trúc chịu trách nhiệm về những thiệt hại đối với bên bị
thiệt hại, song nếu như người chiếm hữu đã thể hiện sự quan tâm đúng mức nhằm ngăn chặn việc xảy ra thiệt hại thì
chủ của các cấu trúc phải BTTH”.
Điều 434 BLDS và Thương mại Thái Lan: Nếu tổn thất xảy ra vì lý do xây dựng tồi hoặc không được bảo trì đầy đủ đối
với một ngôi nhà hoặc kiến trúc khác thì người chiếm hữu ngôi nhà hoặc kiến trúc đó có bổn phận bồi thường; nhưng
nếu người chiếm hữu đó đã có sự chăm nom thích đáng để ngăn ngừa xẩy ra tổn thất thì chủ sở hữu có bổn phận bồi
thường.
40 Điều 717 BLDS Nhật Bản, Điều 434 BLDS và Thương mại Thái Lan, Tlđd./.
sở hữu, người chiếm hữu, người bảo trì);
Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan chỉ quy định
hai chủ thể (chủ sở hữu, người chiếm hữu)39;
còn Pháp chỉ một chủ thể (chủ sở hữu). Mặc
dù quy định tới năm chủ thể có khả năng
phải chịu trách nhiệm nhưng BLDS 2015
hoàn toàn không đưa ra bất kỳ một quy định
nào về thứ tự các chủ thể chịu trách nhiệm
bồi thường hay tiêu chí để xác định chủ
thể chịu trách nhiệm bồi thường trong từng
trường hợp cụ thể. Các quy định trong Điều
605 chỉ đơn thuần mang tính liệt kê.
Trong khi đó, như đã phân tích,
BLDS của các quốc gia hoặc trực tiếp xác
định rõ ràng chủ thể chịu trách nhiệm bồi
thường (tại Pháp luôn là chủ sở hữu) hoặc
đưa ra những tiêu chí rõ ràng để xác định
chủ thể chịu trách nhiệm (BLDS Nhật
Bản, Hàn Quốc, Thái Lan quy định: người
phải chịu trách nhiệm trước hết là người
đang trực tiếp chiếm hữu nhà cửa, công
trình xây dựng; nếu người này chứng minh
được là mình không có lỗi thì khi đó chủ
sở hữu phải chịu trách nhiệm BTTH)40.
Hơn nữa, việc quy định buộc chủ sở hữu,
người chiếm hữu, người được giao quản
lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng
phải liên đới bồi thường cùng với người
thi công trong trường hợp thiệt hại xảy ra
do “lỗi của người thi công” cũng là không
hợp lý. Tại sao chủ sở hữu, người chiếm
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
62 Số 18(346) T9/2017
hữu, người được giao quản lý, sử dụng
nhà cửa, công trình xây dựng phải bồi
thường trong khi thiệt hại xảy ra do lỗi của
người thi công? Sở dĩ, tại khoản 1 Điều
605 BLDS 2015 họ phải chịu trách nhiệm
BTTH - ngay cả khi họ chứng minh được
là mình không có lỗi - là bởi vì họ là người
được hưởng lợi ích từ việc khai thác, sử
dụng nhà cửa, công trình xây dựng nên khi
nhà cửa, công trình xây dựng gây thiệt hại
thì họ đương nhiên phải chịu trách nhiệm
bồi thường. Tuy nhiên, theo quy định của
đoạn 2, thiệt hại xảy ra do lỗi của người
thi công, chủ sở hữu không hề có lỗi, bản
thân họ cũng là người bị thiệt hại (nhà cửa,
công trình xây dựng thuộc sở hữu của họ
bị sụp đổ, hư hỏng, sụt lở do lỗi của người
thi công) nhưng họ lại phải liên đới chịu
trách nhiệm BTTH cùng người thi công?
Vậy cơ sở của việc buộc chủ sở hữu phải
bồi thường trong trường hợp này là gì? Về
vấn đề này, BLDS 2015 cũng chưa có sự
giải quyết thoả đáng.
Thứ tư, về các trường hợp loại trừ
trách nhiệm
Các trường hợp loại trừ trách nhiệm
không được quy định tại Điều 605 mà được
quy định chung trong Điều 584 cho tất cả
các trách nhiệm. Theo đó, chủ thể chịu
trách nhiệm BTTH sẽ được loại trừ trách
nhiệm bồi thường trong trường hợp: “thiệt
hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng
hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc
luật có quy định khác” (khoản 2 Điều 584).
Nghiên cứu quy định này có thể thấy
các trường hợp loại trừ trách nhiệm BLDS
2015 chưa được quy định đầy đủ. Cụ thể,
BLDS 2015 đã “bỏ qua” trường hợp được
loại trừ trách nhiệm bồi thường trong
trường hợp thiệt hại xảy ra “hoàn toàn do
lỗi của người thứ ba”. “Người thứ ba” ở
đây có thể là cá nhân, tổ chức bất kỳ hoặc
cũng có thể là cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Trên thực tế, có rất nhiều công trình
xây dựng thuộc danh mục di tích lịch sử
phải bảo tồn (nhà cổ, đền, chùa...). Đối với
những công trình này, việc sửa chữa phải
được sự đồng ý của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Vậy, nếu trong trường hợp vì
cơ quan có thẩm quyền không cấp phép
sửa chữa khiến công trình bị xuống cấp rồi
sụp đổ thì ai phải chịu trách nhiệm BTTH?
Nếu căn cứ vào khoản 2 Điều 584 BLDS
2015 thì đây không thuộc các trường hợp
để được loại trừ trách nhiệm bồi thường
(thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả
kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị
thiệt hại). Do đó, chủ sở hữu hoặc người
chiếm hữu, người được giao quản lý, sử
dụng nhà cửa, công trình xây dựng sẽ vẫn
phải chịu trách nhiệm BTTH. Điều này
không phù hợp với lẽ công bằng.
Từ những phân tích nêu trên, chúng
tôi đề xuất để hoàn thiện một số quy định
của BLDS năm 2015 về trách nhiệm BTTH
do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây
ra như sau:
Một là, nên tách trách nhiệm BTTH
của người thi công thành một điều luật
riêng với những quy định riêng thể hiện
bản chất của trách nhiệm là trách nhiệm
BTTH do hành vi trái pháp luật gây ra;
điều kiện làm phát sinh trách nhiệm là có
lỗi của người thi công; nội dung của trách
nhiệm có thể là trách nhiệm độc lập của
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
63Số 18(346) T9/2017
người thi công nếu thiệt hại xảy ra hoàn
toàn do lỗi của người thi công, hoặc có thể
là trách nhiệm liên đới trong trường hợp
chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được
giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình
xây dựng hoặc người thứ ba cũng có lỗi
khiến thiệt hại xảy ra.
Hai là, xác định rõ tiêu chí để một
chủ thể phải chịu trách nhiệm BTTH theo
hướng: Trong trường hợp nhà cửa, công
trình xây dựng gây thiệt hại thì người
chiếm hữu nhà cửa, công trình xây dựng
chịu trách nhiệm BTTH; người chiếm hữu
sẽ được loại trừ trách nhiệm nếu chứng
minh được là mình không có lỗi, khi đó
chủ sở hữu sẽ chịu trách nhiệm bồi thường
(kể cả khi chủ sở hữu chứng minh được là
mình không có lỗi). Quy định này rất chặt
chẽ, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội
của nước ta.
Ba là, bổ sung khoản 2 Điều 584
trường hợp được loại trừ trách nhiệm
BTTH là “thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi
của người thứ ba”. Theo đó, Khoản 2 Điều
584 quy định như sau: “Người gây thiệt hại
không phải chịu trách nhiệm BTTH trong
trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện
bất khả kháng, hoàn toàn do lỗi của bên bị
thiệt hại hoặc hoàn toàn do lỗi của người
thứ ba, trừ trường hợp có thỏa thuận khác
hoặc luật có quy định khác”
bệnh án. Người bệnh cũng có quyền yêu cầu
chỉnh sửa những thông tin về cá nhân không
chính xác trong hồ sơ bệnh án.
Thứ năm, hợp nhất “quyền được lựa
chọn trong KCB”và “quyền từ chối chữa
bệnh và ra khỏi cơ sở KCB” thành “quyền
tự quyết định trong KCB”. Theo đó, người
bệnh có quyền: (i) được cung cấp thông tin,
giải thích, tư vấn đầy đủ về tình trạng bệnh,
kết quả, rủi ro có thể xảy ra để quyết định
lựa chọn phương pháp chẩn đoán và điều trị;
(ii) đồng ý hoặc từ chối tham gia nghiên cứu
y sinh học về KCB; (iii) đồng ý hoặc từ chối
thực hiện bất kỳ một hoạt động chuyên môn
nào trong quá trình KCB và tự chịu trách
nhiệm về việc từ chối của mình bằng văn
bản, trừ trường hợp bắt buộc chữa bệnh do
luật định; (iv) chấm dứt điều trị và tự chịu
trách nhiệm về việc chấm dứt điều trị của
mình tại cơ sở KCB, trừ trường hợp bắt buộc
chữa bệnh. Trong trường hợp chấm dứt điều
trị nội trú khi chưa kết thúc điều trị trái với
chỉ định của người hành nghề, người bệnh
phải cam kết tự chịu trách nhiệm bằng văn
bản; (v) tham khảo ý kiến từ người hành
nghề khác về việc KCB của mình.
Thứ sáu, bổ sung quyền được khiếu
nại và quyền được bồi thường thiệt hại
trong KCB theo luật định; quyền của người
đại diện trong KCB đối với người đã thành
niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần có
khó khăn trong nhận thức điều khiển hành
vi, phù hợp với quy định mới của BLDS
năm 2015
(Tiếp theo trang 52)
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH...
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
64 Số 18(346) T9/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- trach_nhiem_boi_thuong_thiet_hai_do_nha_cua_cong_trinh_xay_d.pdf