Thứ tư, về nghĩa vụ chứng minh và
điều kiện khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt
hại về sức khỏe, tính mạng, tài sản và các
lợi ích hợp pháp khác do ô nhiễm môi
trường
Để bảo đảm quyền lợi của chủ thể bị
thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra, cần
giảm nhẹ các điều kiện để được khởi kiện,
về nghĩa vụ chứng minh với người khởi
kiện. Theo đó, khi có thiệt hại do ô nhiễm
môi trường gây ra chỉ cần có cơ sở xác định
chủ thể nào đó gây ô nhiễm môi trường thì
chủ thể bị thiệt hại có quyền khởi kiện yêu
cầu chủ thể gây ô nhiễm môi trường phải bồi
thường thiệt hại và Tòa án phải thụ lý giải
quyết. Trong quá trình tranh tụng, nghĩa vụ
chứng minh được chuyển sang chủ thể bị
yêu cầu bồi thường thiệt hại. Chủ thể này
phải chứng minh mình không có hành vi vi
phạm pháp luật môi trường và không gây ra
thiệt hại trên.
Thứ năm, về thời hiệu khởi kiện yêu
cầu bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức
khỏe của con người; tài sản và lợi ích hợp
pháp khác của các tổ chức cá nhân
Để bảo đảm quyền lợi của chủ thể bị
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của con
người; tài sản và lợi ích hợp pháp khác do ô
nhiễm môi trường gây ra, cần kéo dài hơn
thời hiệu khởi kiện. Bên cạnh đó, đối với
những vụ việc ô nhiễm môi trường gây ảnh
hưởng lâu dài đến cộng đồng đã xảy ra trước
khi có pháp luật môi trường cũng cần tính
đến áp dụng hiệu lực hồi tố
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 362 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, tài sản và các lợi ích hợp pháp khác do làm ô nhiễm môi trường ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. khái quát về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại về sức khỏe, tài sản, tính mạng
và các lợi ích hợp pháp khác do làm ô
nhiễm môi trường
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
làm ô nhiễm môi trường là một loại trách
nhiệm dân sự ngoài hợp đồng; theo đó, chủ
thể (tổ chức, cá nhân hoặc chủ thể khác) thực
hiện hành vi vi phạm pháp luật môi trường
làm suy giảm chức năng, tính hữu ích của
môi trường, gây thiệt hại về tính mạng, sức
khoẻ của con người, tài sản và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức và các chủ thể
khác thì phải khắc phục ô nhiễm, phục hồi
hiện trạng môi trường và bồi thường thiệt hại
do hành vi vi phạm pháp luật gây ra1.
71Số 2+3(402+403) - T1+2/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
trÁcH nHiệm bỒi tHưỜng tHiệt Hại về sỨc KHỎE,
tÍnH mạng, tài sẢn và cÁc lỢi ÍcH HỢp pHÁp KHÁc
Do làm Ô nHiỄm mÔi trưỜng Ở việt nam Hiện naY
Bùi Đức hiển
TS. Viện Nhà nước và Pháp luật.
Thông tin bài viết:
Từ khoá: Ô nhiễm môi trường; thiệt hại
môi trường; trách nhiệm bồi thường
thiệt hại môi trường.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 13/01/2020
Biên tập : 15/01/2020
Duyệt bài : 16/01/2020
Article Infomation:
Keywords: Environmental pollution;
environmental damages; liability for
compensation for environmental
damages.
Article History:
Received : 13 Jan. 2020
Edited : 15 Jan. 2020
Approved : 16 Jan. 2020
Tóm tắt:
Bài viết này phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tính
mạng, tài sản và các lợi ích hợp pháp khác do làm ô nhiễm
môi trường; chỉ ra những bất cập, hạn chế của các quy định
của pháp luật hiện hành về vấn đề này và đưa ra một số kiến
nghị hoàn thiện pháp luật.
Abstract:
This article provides analysis of Vietnam’s current laws and
regulations on liabilities for compensations for the loss of
human life and health, property and legal interest of the
organizations, individuals caused by environmental pollution;
gives out a number of shortcomings of legal system and also
recommendations for further improvements.
1 Xem thêm: Chu Thu Hiền, Bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường theo pháp luật dân sự Việt Nam,
Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội -2011.
Theo quy định của pháp luật hiện
hành, căn cứ tính chất thiệt hại xảy ra, thiệt
hại do làm ô nhiễm môi trường được chia
thành hai loại: (1) Thiệt hại về suy giảm
chức năng, tính hữu ích do làm ô nhiễm môi
trường (bao gồm các thiệt hại về môi trường
đất, nước, hệ sinh thái, động, thực vật -
thường được gọi là thiệt hại trực tiếp hay
thiệt hại nguyên phát) và (2) Thiệt hại về sức
khỏe, tính mạng, tài sản và các lợi ích hợp
pháp khác (thường được gọi là thiệt hại gián
tiếp hay thiệt hại thứ phát). Trong mối quan
hệ giữa hai loại thiệt hại này thì thiệt hại về
suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi
trường là loại thiệt hại xảy ra trước. Còn thiệt
hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản, lợi ích
hợp pháp của các cá nhân, tổ chức cụ thể chỉ
phát sinh sau khi có hậu quả là suy giảm
chức năng, tính hữu ích của môi trường. Do
vậy, có thể thấy muốn xác định được có thiệt
hại về sức khỏe, tính mạng, tài sản và các lợi
ích hợp pháp do ô nhiễm môi trường thì phải
xác định được có thiệt hại do suy giảm chức
năng, tính hữu ích của môi trường tại khu
vực đó.
Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng nói chung, về nguyên tắc thì
người gây thiệt hại phải bồi thường. Người
gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm
bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt
hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng
hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật
có quy định khác. Như vậy, về cơ bản nếu
muốn được loại trừ trách nhiệm bồi thường,
người gây thiệt hại phải chứng minh một
trong hai trường hợp xảy ra thiệt hại, đó là:
do bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của
người bị thiệt hại2. Còn muốn được giảm
mức bồi thường thiệt hại thì chủ thể gây thiệt
hại phải chứng minh mình không có lỗi hoặc
có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả
năng kinh tế của mình3. Có thể thấy, trong
Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS 2015), yếu
tố lỗi không được coi là điều kiện bắt buộc
để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, nhưng là yếu tố quan trọng
để xác định chủ thể nào phải bồi thường,
không phải bồi thường và mức được giảm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do làm ô nhiễm môi trường, chủ thể làm ô
nhiễm môi trường gây thiệt hại không được
nại lý do mình không có lỗi để thoái thác
trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trường
hợp chủ thể làm ô nhiễm môi trường chứng
minh được lỗi gây ra thiệt hại hoàn toàn
thuộc về bên thứ ba, về nguyên tắc bên thứ
ba không được bồi thường thiệt hại (khoản
4 Điều 585 BLDS 2015), nhưng chủ thể làm
ô nhiễm môi trường vẫn phải bồi thường cho
chủ thể khác bị thiệt hại.
2. Các quy định của pháp luật về bồi
thường thiệt hại về sức khỏe, tính mạng,
tài sản và lợi ích hợp pháp khác do làm ô
nhiễm môi trường ở Việt Nam
Cơ sở pháp lý để thực hiện trách
nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tính
mạng, tài sản và các lợi ích hợp pháp khác
do ô nhiễm môi trường gây ra được quy
định trong Luật Bảo vệ môi trường 2014, Bộ
luật Dân sự năm 2015 về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng và Nghị quyết số
03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao ngày
08/07/2006.
Thứ nhất, về chủ thể có quyền yêu cầu
bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tính mạng
của con người, tài sản và lợi ích hợp pháp
khác do ô nhiễm môi trường
Theo quy định của pháp luật hiện
hành, cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác
có thể trực tiếp yêu cầu bồi thường thiệt hại
hoặc thông qua người giám hộ, người đại
diện hợp pháp để yêu cầu bồi thường thiệt
Số 2+3(402+403) - T1+2/202072 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
2 Xem khoản 2 Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015.
3 Xem khoản 2 và khoản 4 Điều 585 Bộ luật Dân sự năm 2015.
hại. Pháp luật hiện hành chưa quy định
quyền khởi kiện tập thể về môi trường4
Thứ hai, về phương thức giải quyết bồi
thường thiệt hại về sức khỏe, tính mạng của
con người, tài sản và lợi ích hợp pháp khác
do ô nhiễm môi trường
Theo quy định của pháp luật hiện
hành, cá nhân, tổ chức, chủ thể khác bị thiệt
hại về sức khỏe, tính mạng, tài sản và các lợi
ích hợp pháp khác do ô nhiễm môi trường
có thể thông qua phương thức hòa giải5 hoặc
khởi kiện ra tòa án để yêu cầu bồi thường
thiệt hại. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy quy
định của pháp luật còn có một số bất cập sau:
1) Thiếu các quy định cụ thể, thống
nhất về cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài
tòa án như: quy định về quy trình, trình tự,
các bước, vai trò các bên tham gia thương
lượng, hòa giải6; quy định về cơ quan có
quyền chủ trì hoặc làm đầu mối hay có thể
chủ động trong việc giải quyết tranh chấp
ngoài tòa án; quy định về vai trò của các tổ
chức xã hội trong giải quyết tranh chấp ngoài
tòa án; quy định về điều kiện nguồn lực cần
thiết khác phục vụ cho công tác này,
2) Thực tiễn cho thấy, chưa có vụ việc
yêu cầu bồi thường thiệt hại về tính mạng,
sức khỏe của con người; tài sản và lợi ích
hợp pháp do làm ô nhiễm môi trường nào
được giải quyết thành công tại Tòa án.
Trường hợp vụ Vedan gây ô nhiễm sông Thị
Vải và gây thiệt hại về tài sản cho khoảng
6.000 hộ dân sau một thời gian dài đã được
Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh
Đồng Nai thụ lý, nhưng sau đó lại được kết
thúc bằng con đường hòa giải. Sở dĩ như vậy
là do bất cập trong các quy định về chủ thể
có quyền khởi kiện; điều kiện khởi kiện các
tranh chấp bồi thường thiệt hại về môi
trường; khó khăn trong xác định thiệt hại
môi trường, trong chứng minh mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi và thiệt hại; trong quy
định về thời hiệu khởi kiện; về trình độ, năng
lực của thẩm phán; sự độc lập giữa thẩm
phán và Chánh án; giữa tư pháp với hành
pháp, lập pháp; giữa tòa án cấp trên với cấp
dưới; quan hệ giữa tòa án với viện kiểm sát
trong giải quyết vụ án; vai trò của luật sư
trong các vụ án tranh chấp về môi trường7,
Thứ ba, về xác định thiệt hại tính
mạng, sức khỏe của con người, tài sản và
các lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, tổ
chức do ô nhiễm môi trường và mức bồi
thường thiệt hại về tinh thần
Theo quy định của pháp luật hiện
hành, chủ thể làm ô nhiễm môi trường phải
bồi thường các chi phí hợp lý phát sinh từ
những tổn thất về tính mạng, sức khoẻ của
người bị thiệt hại và những tổn thất về tinh
thần mà người bị thiệt hại về sức khỏe hoặc
những người thân của người bị thiệt hại về
tính mạng phải gánh chịu để xác định thiệt
hại. Tuy nhiên, những quy định này còn có
bất cập sau:
1) Có những thiệt hại về suy giảm
chức năng, tính hữu ích của môi trường chưa
được pháp luật quy định nên không có căn
cứ pháp lý để xác định thiệt hại về môi
trường. Ví dụ như thiệt hại về ô nhiễm môi
trường không khí, Hơn nữa, theo quy định
của pháp luật thì trách nhiệm chứng minh và
yêu cầu bồi thường thiệt hại về suy giảm
chức năng, tính hữu ích do làm ô nhiễm môi
73Số 2+3(402+403) - T1+2/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
4 Theo Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 2010, trường hợp người tiêu dùng bị thiệt hại thì tổ chức bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng có quyền đại diện cho người tiêu dùng yêu cầu chủ thể xâm phạm quyền lợi ích
hợp pháp của người tiêu dùng phải bồi thường thiệt hại. Quy định này cũng được áp dụng trong các tranh
chấp lao động tập thể được quy định trong pháp luật lao động và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
5 Xem Điều 122 Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014 và Luật Hòa giải cơ sở năm 2013.
6 Xem Nguyễn Trung Thắng, Hoàng Hồng Hạnh, Dương Thị Phương Anh, Nghiên cứu, đề xuất cơ chế giải
quyết tranh chấp môi trường ngoài tòa án ở Việt Nam, Tạp chí Môi trường, số 6 năm 2015.
7 Bùi Đức Hiển, Khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước bền vững; https://vrn.org.vn/khai-thac-su-
dung-va-bao-ve-tai-nguyen-nuoc-ben-vung/, truy cập ngày 21/10/2019.
trường lại thuộc về các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Do vậy, nếu các cơ quan nhà
nước này không xác định hoặc xác định
không có thiệt hại môi trường thì cũng khó
có cơ sở pháp lý để tổ chức, cá nhân xác
định, yêu cầu bồi thường thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe, tài sản do ô nhiễm môi
trường gây ra.
2) Quy định của pháp luật về thu thập
chứng cứ gây ô nhiễm môi trường chưa sát
với thực tiễn gây khó khăn cho người bị thiệt
hại trong việc thu thập, xác định, chứng
minh mức độ thiệt hại về sức khỏe, tính
mạng và mối quan hệ giữa mô trường bị làm
ô nhiễm với thiệt hại về sức khỏe, tính mạng;
tài sản, lợi ích hợp pháp khác. Ví dụ, xã
Thạch Sơn, Lâm Thao, Phú Thọ, nơi nhà
máy Supe phot phát Lâm Thao hoạt động có
tỷ lệ người chết do ung thư cao hàng đầu cả
nước, nhưng việc chứng minh mối quan hệ
giữa bệnh ung thư tại địa phương với môi
trường bị ô nhiễm gây ra nằm ngoài khả
năng của người dân địa phương.
3) Quy định của pháp luật về mức bồi
thường thiệt hại về tinh thần do làm ô nhiễm
môi trường gây ra chưa theo kịp với sự phát
triển của xã hội. BLDS 2015 quy định mức
bồi thường thiệt hại về tinh thần do làm ô
nhiễm môi trường không quá 100 tháng
lương tối thiểu cho thân nhân người chết và
bồi thường thiệt hại về tinh thần không quá
50 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy
định cho người bị thiệt hại về sức khỏe, là
còn quá thấp và khá cứng nhắc khi áp dụng.
Việc pháp luật quy định khung bồi thường
tối đa cứng sẽ không khuyến khích sự thỏa
thuận giữa bên bị thiệt hại với bên gây ra
thiệt hại vê mức bồi thường thiệt hại gây ảnh
hưởng đến quyền lợi hợp pháp của bên bị
thiệt hại do ô nhiễm môi trường.
Thứ tư, về thời hiệu khởi kiện yêu cầu
bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe
của con người; tài sản và lợi ích hợp pháp
khác của các tổ chức cá nhân
Theo quy định của BLDS 2015, thời
hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại
là 3 năm, kể từ ngày người có quyền yêu
cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp
pháp của mình bị xâm phạm. Tuy nhiên,
thực tế cho thấy thiệt hại về tính mạng, sức
khỏe, tài sản và các lợi ích hợp pháp khác
không chỉ là những thiệt hại trước mắt mà
còn là những thiệt hại lâu dài, việc định thiệt
hại đã khó, xác định mối quan hệ nhân quả
giữa thiệt hại với hành vi vi phạm pháp luật
môi trường còn khó hơn. Do đó, chúng tôi
cho rằng, thời hiệu 3 năm chưa đáp ứng
được yêu cầu của thực tiễn.
3. kiến nghị hoàn thiện quy định của
pháp luật
Thứ nhất, về chủ thể có quyền yêu cầu
bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tính mạng,
tài sản và các lợi ích hợp pháp khác do làm
ô nhiễm môi trường
Từ thực tiễn cho thấy, thiệt hại do ô
nhiễm môi trường gây ra cho nhiều chủ thể
ở phạm vi rộng lớn. Do vậy, chúng tôi cho
rằng, cần bổ sung quy định về quyền được
khởi kiện tập thể về môi trường theo hướng,
đại diện cộng đồng, đại diện tổ chức của
những người bị thiệt hại về tính mạng, sức
khỏe, tài sản, lợi ích hợp pháp khác do ô
nhiễm môi trường có quyền đại diện cho
những người bị thiệt hại yêu cầu chủ thể gây
ô nhiễm môi trường bồi thường thiệt hại.
Thứ hai, về giải quyết tranh chấp
ngoài tòa án
Để khuyến khích các bên giải quyết
tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài tòa
án, chúng tôi cho rằng, cần bổ sung quy định
cụ thể quy trình, thủ tục, các bước hòa giải
tranh chấp môi trường; xác định rõ trách
nhiệm của các bên tham gia hòa giải tranh
chấp môi trường; quy định về cơ quan có
chức năng làm đầu mối xử lý tranh chấp môi
trường ngoài tòa án.
Thứ ba, về xác định thiệt hại tính
mạng, sức khỏe của con người, tài sản và các
lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, tổ chức
Số 2+3(402+403) - T1+2/202074 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
Để tạo thuận lợi cho các bên trong việc
xác định thiệt hại do ô nhiễm mô trường gây
ra, chúng tôi cho rằng, cần bổ sung quy định
cụ thể về quy chuẩn kỹ thuật quốc gia cho
việc áp dụng đối với ô nhiễm mùi; về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại với môi trường
không khí dựa trên chi phí bỏ ra để xử lý khí
thải đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường,...
Đây là cơ sở để xác định thiệt hại về sức
khỏe, tính mạng, tài sản và các lợi ích hợp
pháp khác do ô nhiễm môi trường không khí
gây ra.
Ngoài ra, cần nâng cao mức bồi
thường thiệt hại về tinh thần do làm ô nhiễm
môi trường nhằm thúc đẩy thỏa thuận giữa
bên bị thiệt hại với bên gây ra thiệt hại.
Thứ tư, về nghĩa vụ chứng minh và
điều kiện khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt
hại về sức khỏe, tính mạng, tài sản và các
lợi ích hợp pháp khác do ô nhiễm môi
trường
Để bảo đảm quyền lợi của chủ thể bị
thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra, cần
giảm nhẹ các điều kiện để được khởi kiện,
về nghĩa vụ chứng minh với người khởi
kiện. Theo đó, khi có thiệt hại do ô nhiễm
môi trường gây ra chỉ cần có cơ sở xác định
chủ thể nào đó gây ô nhiễm môi trường thì
chủ thể bị thiệt hại có quyền khởi kiện yêu
cầu chủ thể gây ô nhiễm môi trường phải bồi
thường thiệt hại và Tòa án phải thụ lý giải
quyết. Trong quá trình tranh tụng, nghĩa vụ
chứng minh được chuyển sang chủ thể bị
yêu cầu bồi thường thiệt hại. Chủ thể này
phải chứng minh mình không có hành vi vi
phạm pháp luật môi trường và không gây ra
thiệt hại trên.
Thứ năm, về thời hiệu khởi kiện yêu
cầu bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức
khỏe của con người; tài sản và lợi ích hợp
pháp khác của các tổ chức cá nhân
Để bảo đảm quyền lợi của chủ thể bị
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của con
người; tài sản và lợi ích hợp pháp khác do ô
nhiễm môi trường gây ra, cần kéo dài hơn
thời hiệu khởi kiện. Bên cạnh đó, đối với
những vụ việc ô nhiễm môi trường gây ảnh
hưởng lâu dài đến cộng đồng đã xảy ra trước
khi có pháp luật môi trường cũng cần tính
đến áp dụng hiệu lực hồi tố n
75Số 2+3(402+403) - T1+2/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
TàI lIệu ThAM khảo
1. Chu Thu Hiền, Bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường theo pháp luật dân sự
Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội-2011.
2. TS. Đinh Trung Tụng (chủ biên), ThS. Nguyễn Hồng Hải, ThS. Trần Thu Hương, “Bối
cảnh xây dựng và một số nội dung mới chủ yếu của Bộ luật Dân sự năm 2015 (so sánh
với Bộ luật Dân sự năm 2005), Nhà xuất Bản Tư pháp, Hà Nội 2016.
3. Vũ Thu Hạnh, “Bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường”, Tạp chí Khoa
học pháp lý, số 3 (2007).
4. PGS.TS. Lê Thị Châu, Đề tài “Những vấn đề lý luận và thực tiễn sửa đổi Luật Bảo vệ
Môi trường năm 2005”.
5. Nguyễn Trung Thắng, Hoàng Hồng Hạnh, Dương Thị Phương Anh, Nghiên cứu, đề xuất
cơ chế giải quyết tranh chấp môi trường ngoài tòa án ở Việt Nam, Tạp chí Môi trường, số
6 năm 2015.
6. Bùi Đức Hiển, Huỳnh Minh Luân, Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về suy giảm chức
năng, tính hữu ích của môi trường ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Pháp luật và Phát triển,
số 9.10.2019.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- trach_nhiem_boi_thuong_thiet_hai_ve_suc_khoe_tinh_mang_tai_s.pdf