Thứ nhất, người đứng đầu cơ quan
HCNN có nghĩa vụ đối với mọi vấn đề trong
quá trình quản lý cơ quan HCNN.
Thứ hai, người đứng đầu cơ quan
HCNN không chỉ có trách nhiệm về những
hoạt động của bản thân trong thực hiện
nghĩa vụ, quyền mà còn phải có trách nhiệm
về những hoạt động của cán bộ, công chức
dưới quyền trong thi hành nhiệm vụ (liên
đới trách nhiệm).
Thứ ba,người đứng đầu cơ quan HCNN
vừa phải có trách nhiệm với tư cách là một
cán bộ công chức bình thường, vừa phải có
trách nhiệm với tư cách là người đứng đầu
cơ quan HCNN. Nếu cùng một hành vi vi
phạm pháp luật công vụ, so với các cán bộ,
công chức không giữ chức vụ lãnh đạo quản
lý, thông thường mức độ trách nhiệm của
người đứng đầu sẽ cao hơn một bậc.
Thứ tư, người đứng đầu cơ quan HCNN
không chỉ có trách nhiệm đối với nội bộ hệ
thống các cơ quan trong bộ máy nhà nước
mà còn có trách nhiệm đối với xã hội là các
cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp.
Tóm lại, người đứng đầu cơ quan
HCNN là thuật ngữ dùng để chỉ thiết chế
giữ vị trí pháp lý, quyền và nghĩa vụ cao
nhất trong cơ quan HCNN, thực hiện vai trò
lãnh đạo quản lý và chịu trách nhiệm về kết
quả hoạt động của cơ quan HCNN. Trách
nhiệm của người đứng đầu cơ quan HCNN
nên làm, phải làm, được làm với kết quả tốt
và những điều không được làm; nghĩa vụ,
quyền và chịu trách nhiệm của người đứng
đầu cơ quan HCNN trong tuân thủ pháp luật
và phục vụ nhân dân; trong lập kế hoạch,
ra quyết định và điều hành chỉ đạo hoạt
động của cơ quan, tổ chức thực hiện chức
năng, nhiệm vụ mà Nhà nước và nhân dân
giao phó
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 233 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Minh Phú*
* TS. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
Tóm tắt:
“Người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước” là thuật ngữ dùng
để chỉ thiết chế giữ vị trí pháp lý, quyền và nghĩa vụ cao nhất trong
cơ quan hành chính nhà nước, thực hiện vai trò lãnh đạo quản lý
và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của cơ quan hành chính
nhà nước. Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính
nhà nước đối với những điều nên làm, phải làm, được làm với kết
quả tốt và những điều không được làm; nghĩa vụ, quyền và chịu
trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước
trong tuân thủ pháp luật và phục vụ nhân dân; trong lập kế hoạch,
ra quyết định và điều hành chỉ đạo hoạt động của cơ quan, tổ chức
thực hiện chức năng, nhiệm vụ mà Nhà nước và nhân dân giao phó.
Summary:
"The head of the state administrative agency" is a term used
referring to the person who holds the highest legal position, power
and mandates in thestate administrative agency, performing the
leading role of the management of, the accountability for the
results of its performances. The responsibility of the head of state
administration agency is for what should do, what must do, what
allowed to do under his rights with good results and for what not
allowed to do; the mandates, rights and accountability of the head
of the state administrative agencies are in compliance with the laws
and in serving to the people; in planning, making decisions and
directing activities of the agencies and organizations to perform
the functions and tasks assigned by the government and the people.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: trách nhiệm, nghĩa vụ, chịu
trách nhiệm, người đứng đầu, cơ quan
hành chính nhà nước.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 28/03/2018
Biên tập : 06/04/2018
Duyệt bài : 15/04/2018
Article Infomation:
Keywords: responsibility; mandates;
accountability, head, state
administrative agency
Article History:
Received : 28 Mar. 2018
Edited : 06 Apr. 2018
Approved : 15 Apr. 2018
TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1. Quan niệm về trách nhiệm
Thuật ngữ trách nhiệm được sử dụng
rất phổ biến trong ngôn ngữ đời sống hàng
ngày cũng như trong những các văn bản
pháp luật. Tuy nhiên, khó có một định nghĩa
chung về thuật ngữ này.
Ở Việt Nam hiện nay cũng có nhiều
cách hiểu khác nhau về thuật ngữ “trách
nhiệm”. Một số tác giả tiếp cận thuật ngữ
“trách nhiệm” theo nghĩa là nghĩa vụ, nhiệm
vụ, bổn phận, quyền hạn. Có người hiểu
trách nhiệm là “bổn phận phải thực hiện, nó
còn là điều không được làm, được làm, phải làm
và nên làm (...). Trách nhiệm là những gì mà họ
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
3Số 8(360) T4/2018
buộc phải làm và phải chịu sự giám sát của người
khác”1. Có tác giả viết, trách nhiệm “thường
được hiểu là khả năng của con người ý thức được
những kết quả hoạt động của mình, đồng thời là
khả năng thực hiện một cách tự giác những nghĩa
vụ được đặt ra cho mình’’2). Một quan điểm
cho rằng: “trách nhiệm là sự thực hiện bổn phận,
nghĩa vụ của chủ thể đổi với người khác, với xã
hội một cách tự giác. Trách nhiệm đối lập với vô
trách nhiệm, gắn liền với chịu trách nhiệm”3 ...
Nhìn chung, các quan niệm trên đều
tiếp cận trách nhiệm theo nghĩa là nghĩa vụ,
nhiệm vụ, bổn phận, quyền hạn. Với nghĩa này,
trách nhiệm là nghĩa vụ, bổn phận phải làm,
nên làm, được làm hoặc không được làm, có
thể từ sự tự nguyện, tự giác hay buộc phải
thực hiện do yêu cầu, đòi hỏi của các quy
phạm xã hội (pháp luật, đạo đức...).
Một số tác giả khác lại hiểu trách
nhiệm là “chịu trách nhiệm”, với hàm ý là
phải gánh chịu một hậu quả bất lợi nào đó.
“Đó là hậu quả bất lợi (sự phản ứng mang tính
trừng phạt của nhà nước) mà công chức phải
gánh chịu khi không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ được giao phó, tức là khi
vi phạm trách nhiệm theo nghĩa tích cực. Trách
nhiệm tiêu cực thể hiện trong việc áp dụng các
biện pháp xử lý những chủ thể vi phạm các nghĩa
vụ và quyền”4. Cuốn Giáo trình Luật Hành
chính và tài phán hành chính Việt Nam thì quan
niệm trách nhiệm công vụ ‘‘là sự phản ứng
của Nhà nước đối với cơ quan, cá nhân cán bộ,
công chức khi thực hiện một hành vi hành chính
trong quá trình thực thi công vụ, trái pháp luật
hoặc quyết định của cơ quan cấp trên gây thiệt
hại, xâm phạm tới quyền, tự do, lợi ích hợp pháp
1 Đỗ Minh Hợp (2007), Tự do và trách nhiệm trong đạo đức học hiện sinh, Tạp chí Triết học, số 12/2007, tr. 27-33.
2 Nguyễn Văn Phúc (2008), Tự do và trách nhiệm trong hoạt động của con người, trong Công bằng xã hội trách nhiệm
đối với xã hội và đoàn kết xã hội, Phạm Văn Đức chủ biên, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 330-331.
3 Phạm Hồng Thái (2009), Chức vụ và thẩm quyền chức vụ trong cơ quan HCNN, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia
Hà Nội, Luật học 25, tr. 67-73.
4 Lê Như Thanh (2009), Cơ sở lý luận và thực tiễn về nghĩa vụ, quyền, trách nhiệm của người đứng đầu ở Việt Nam hiện
nay, Luận án TS. Quản lý Hành chính công, Học viện Hành chính, Hà Nội.
5 Học viện Hành chính (2008), Giáo trình Luật Hành chính và tài phán hành chính Việt Nam, Nxb Khoa học và Kỹ thuật,
Hà Nội.
của công dân, thể hiện ở sự áp dụng các chế tài
pháp luật tương ứng, hậu quả là cơ quan, cá nhân
cán bộ, công chức gánh chịu những hậu quả bất
lợi, thiệt hại về vật chất, tinh thần do cơ quan nhà
nước, người có thẩm quyền thực hiện”5.
Theo hướng tiếp cận này, trách nhiệm
là chịu trách nhiệm, là sự gánh chịu phần
hậu quả về những việc đã làm, với hàm
nghĩa rằng chủ thể trách nhiệm phải chịu
một thiệt hại nào đó. Ví dụ, là công chức,
nếu vi phạm pháp luật về công vụ thì sẽ phải
chịu các hình thức xử lý kỷ luật hành chính
(như khiển trách, cảnh cáo ,buộc thôi
việc) hay phải chịu trách nhiệm dân sự,
trách nhiệm hình sự... tùy thuộc vào mức độ,
tính chất của hành vi vi phạm. Ở đây, trách
nhiệm đồng nghĩa với hậu quả bất lợi phải gánh
chịu, là chịu trách nhiệm khi thực hiện không
đúng trách nhiệm theo nghĩa là nghĩa vụ, nhiệm
vụ, bổn phận, quyền hạn.
Chúng tôi cho rằng, cả hai góc độ tiếp
cận trên đây về trách nhiệm đều có những
điểm hợp lý, tùy vào mục đích vận dụng
mà có thể dùng một trong hai cách hiểu cho
phù hợp. Tuy nhiên, đặt trong bối cảnh của
hành chính công, của hoạt động quản lý nhà
nước, nếu chỉ hiểu thuần túy theo một trong
hai cách trên đây thì chưa đầy đủ khi nói về
trách nhiệm. Ví dụ, khi nói đến “trách nhiệm
của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà
nước (HCNN)”, nên hiểu đó là “những bổn
phận, nghĩa vụ của người đứng đầu cơ quan
HCNN”, hay nên hiểu đó là “việc chịu trách
nhiệm của người đứng đầu cơ quan HCNN”?
Việc hiểu theo chỉ một trong hai cách này
có thể dẫn đến những khó khăn trong việc
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
4 Số 8(360) T4/2018
quy định, xem xét, đánh giá trách nhiệm của
người đứng đầu cơ quan HCNN.
Do đó, quan điểm của chúng tôi là: cần
tiếp cận thuật ngữ trách nhiệm theo hướng kết
hợp cả hai cách hiểu trên đây. Nghĩa là, khi bàn
về trách nhiệm trong lĩnh vực quản lý nhà
nước nói chung và trách nhiệm của người
đứng đầu cơ quan HCNN nói riêng cần xem
xét đó là một chỉnh thể của hai nhóm yếu tố:
- Một là, những việc nên làm, phải
làm, được làm (nghĩa vụ, quyền)
- Hai là, việc chịu trách nhiệm về
kết quả thực hiện những việc nên làm, phải
làm, được làm đó.
Điều này cũng phù hợp với cách hiểu
về “trách nhiệm” trong Từ điển Tiếng Việt.
Theo từ điển Tiếng Việt, trách nhiệm được
hiểu như sau: 1. phần việc được giao cho hoặc
coi như được giao cho, phải bảo đảm làm tròn,
nếu kết quả không tốt thì phải gánh chịu phần
hậu quả; 2. sự ràng buộc đối với lời nói, hành vi
của họ, bảo đảm đúng đắn, nếu sai trái thì phải
gánh chịu phần hậu quả6. Điểm chung của cả
hai cách hiểu trên, đó là đều xem xét trách
nhiệm gồm hai thành phần cơ bản: một là
những việc nên làm, phải làm, được làm,
như là bổn phận, nhiệm vụ, quyền hạn;
hai là sự cam kết đối với kết quả thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn và chịu trách nhiệm
đối với kết quả đó. Theo chúng tôi, đây là
một cách hiểu hợp lý, đầy đủ, toàn diện về
trách nhiệm, trong đó, vế thứ nhất được coi
là tiền đề, là nguyên nhân, vế thứ hai, là hệ
quả tất yếu.
Từ những phân tích trên đây, có thể
6 Viện Ngôn ngữ học, Trung tâm từ điển học (2002), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng.
7 Nguyễn Hữu Đổng, Phạm Thế Lực, Hoạt động lãnh đạo và quản lý của người đứng đầu cơ quan HCNN ở nước ta, Tạp
chí Lý luận chính trị Online, index.php/thuc-tien/item/310-hoat-dong-lanh-dao-va-quan-
ly-cua-nguoi-dung-dau-co-quan-hanh-chinh-nha-nuoc-o-nuoc-ta.html, đăng ngày 24/7/2013, truy cập ngày 25/7/2013.
8 Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2010), Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người đứng
đầu các cơ quan HCNN Việt Nam hiện nay - Vấn đề và giải pháp, Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài khoa học
cấp Bộ năm 2009, Cơ quan chủ trì: Viện Nhà nước và Pháp luật, Chủ nhiệm đề tài: PGS.TS. Trịnh Đức Thảo, Hà Nội.
9 Nguyễn Cửu Việt (2008), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
hiểu: Trách nhiệm là những việc nên làm, phải
làm, được làm với kết quả tốt, nếu kết quả không
tốt sẽ phải gánh chịu phần hậu quả.
2. Người đứng đầu cơ quan hành chính
nhà nước
2.1 Quan niệm về người đứng đầu cơ
quan HCNN
Ở Việt Nam, không nhiều tác giả đưa
ra quan niệm về “người đứng đầu cơ quan
HCNN”. Có quan niệm cho rằng, “Người
đứng đầu cơ quan HCNN được hiểu là những
người đứng đầu Nhà nước, Chính phủ, các
bộ, các cơ quan ngang bộ và Ủy ban nhân dân
(UBND) các cấp”7 . Có thể thấy cách hiểu này
mới chỉ xác định người đứng đầu cơ quan
HCNN là ai mà chưa đưa ra một cách hiểu
thế nào là người đứng đầu cơ quan HCNN.
Quan niệm khác cho rằng: “Người
đứng đầu cơ quan HCNN là một định chế pháp
lý xác lập vị trí công tác cao nhất trong cơ quan
HCNN với những thẩm quyền và trách nhiệm
tương ứng để hoàn thành tốt vai trò là người đứng
đầu”8 . Cũng có tác giả cho rằng, “Theo nghĩa
hẹp, người đứng đầu là cá nhân (Thủ trưởng) có
quyền lực trong lãnh đạo, quản lý và đứng đầu
chỉ huy, tổ chức một đơn vị hoặc một tổ chức
nhất định để thực hiện mục tiêu lãnh đạo quản
lý đã đề ra. Theo nghĩa rộng, người đứng đầu là
chỉ cá nhân hoặc tập thể có quyền lực nhất định
trong lãnh đạo, quản lý, gánh vác trách nhiệm
nhất định và đứng đầu chỉ huy, tổ chức một đơn
vị hoặc một tổ chức nhất định để thực hiện mục
tiêu lãnh đạo, quản lý đã đề ra” 9.
Chúng tôi đồng tình với một số điểm
trong cách hiểu của hai tác giả trên đây, khi
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5Số 8(360) T4/2018
các tác giả này cho rằng, người đứng đầu cơ
quan HCNN là “một định chế pháp lý”; “xác
lập vị trí công tác cao nhất”; “là cá nhân”;
“có quyền lực trong lãnh đạo, quản lý”. Tuy
nhiên, các cách hiểu trên đây chưa xác định
thật đầy đủ nội hàm khái niệm người đứng
đầu cơ quan HCNN. Ví dụ, như cách hiểu
thứ hai cho rằng “theo nghĩa rộng người
đứng đầu là chỉ cá nhân hoặc tập thể”.
Chúng tôi cho rằng,“Người đứng đầu
cơ quan HCNN” là thuật ngữ dùng để chỉ thiết
chế giữ vị trí pháp lý cao nhất trong cơ quan
HCNN, thực hiện vai trò lãnh đạo, quản lý hoạt
động của cơ quan HCNN, có nghĩa vụ và quyền
cao nhất đối với hoạt động cơ quan HCNN và
chịu trách nhiệm về hoạt động của cơ quan
HCNN đó.
Hệ thống cơ quan HCNN bao gồm
Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND
các cấp và các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND10. Do đó, người đứng đầu cơ quan
HCNN ở Việt Nam bao gồm các chức danh
sau: Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang Bộ, Chủ tịch UBND các cấp,
Giám đốc Sở, Trưởng phòng và tương
đương.
2.2 Địa vị pháp lý của người đứng đầu
cơ quan HCNN
Địa vị pháp lý của người đứng đầu cơ
quan HCNN có một số đặc điểm cơ bản sau
đây:
Một là, người đứng đầu cơ quan HCNN là
vị trí mang tính pháp lý.
Hệ thống các cơ quan HCNN có đặc
điểm là do Nhà nước thành lập, việc tổ
chức, hoạt động dựa trên cơ sở các quy định
pháp luật11, do đó, người đứng đầu cơ quan
HCNN phải là vị trí mang tính pháp lý. Cá
10 Học viện Hành chính (2008), Giáo trình Luật Hành chính và tài phán hành chính Việt Nam, Nxb Khoa học và Kỹ thuật,
Hà Nội.
11 Đặng Xuân Phương (2011), Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Bộ, cơ quan ngang Bộ trong quá trình cải cách hành
chính ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
nhân ngồi vào cái “ghế” người đứng đầu cơ
quan HCNN được pháp luật thừa nhận một
cách chính thức. Tất cả các vấn đề liên quan
đến quá trình hình thành, hoạt động và kết
thúc hoạt động của một chức danh người
đứng đầu cơ quan HCNN đều tuân thủ theo
các quy định pháp lý.
Hai là, người đứng đầu cơ quan HCNN
hoạt động nhân danh nhà nước.
Nhà nước thành lập các cơ quan HCNN
để thực hiện những chức năng, nhiệm vụ của
Nhà nước. Vì vậy, Nhà nước trao cho các cơ
quan HCNN và các chức vụ trong cơ quan
HCNN - trong đó có chức vụ người đứng
đầu cơ quan HCNN những thẩm quyền nhất
định. Những thẩm quyền này là phương tiện
pháp lý để người đứng đầu cơ quan HCNN
thực hiện vai trò người đứng đầu. Thẩm
quyền của người đứng đầu cơ quan HCNN
là tổng thể những quyền, nghĩa vụ mang tính
quyền lực - pháp lý do pháp luật quy định.
Khi thực hiện các quyền, người đứng đầu cơ
quan HCNN nhân danh Nhà nước, đại diện
cho quyền lực nhà nước. Người đứng đầu cơ
quan HCNN được sử dụng quyền lực công
cùng các nguồn lực công để thực hiện chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Đây
là đặc trưng cơ bản để phân biệt người đứng
đầu cơ quan HCNN với người đứng đầu các
tổ chức xã hội.
Ba là, địa vị pháp lý của người đứng đầu
cơ quan HCNN chịu sự chi phối của quan hệ
hành chính mang tính mệnh lệnh, thứ bậc.
Để thực hiện được chức năng quản
lý HCNN trên các lĩnh vực của đời sống xã
hội, hệ thống HCNN của hầu hết các nước
trên thế giới đều mang tính thứ bậc, cấp trên
cấp dưới và có sự phân công phân cấp phù
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
6 Số 8(360) T4/2018
hợp với yêu cầu cơ quan HCNN trong từng
giai đoạn lịch sử nhất định. Ở Việt Nam, nền
HCNN được cấu tạo gồm một hệ thống định
chế tổ chức theo thứ bậc chặt chẽ và thông
suốt từ trung ương tới các địa phương, trong
đó cấp dưới phục tùng cấp trên, nhận chỉ thị
mệnh lệnh và chịu sự kiểm tra, giám sát của
cấp trên. Vì vậy, địa vị pháp lý của người
đứng đầu cơ quan HCNN chịu sự chi phối
của quan hệ hành chính mang tính mệnh
lệnh, thứ bậc này. Ví dụ, Thủ tướng là người
đứng đầu Chính phủ, chịu trách nhiệm trước
Quốc hội, Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội về nhiệm vụ, quyền hạn được Hiến
pháp, Luật tổ chức Chính phủ quy định. Bộ
trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
là người đứng đầu và lãnh đạo một bộ, cơ
quan ngang bộ, phụ trách một số công tác
của Chính phủ; chịu trách nhiệm trước Thủ
tướng, trước Quốc hội về quản lý nhà nước
ngành, lĩnh vực trong phạm vi cả nước hoặc
về công tác được giao phụ trách. Chủ tịch
UBND là người lãnh đạo và điều hành công
việc của UBND, chịu trách nhiệm cá nhân
về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
mình, cùng với tập thể UBND chịu trách
nhiệm về hoạt động của UBND trước Hội
đồng nhân dân cùng cấp và trước cơ quan
nhà nước cấp trên.
Bốn là, người đứng đầu cơ quan HCNN là
người thực hiện vai trò lãnh đạo, quản lý đối với
cơ quan HCNN mình đứng đầu.
Từ quan niệm và những quy định về
người đứng đầu tổ chức, có thể hiểu người
đứng đầu tổ chức là người thực hiện vai trò
lãnh đạo, quản lý trong tổ chức. Đối với
người đứng đầu cơ quan HCNN cũng không
phải ngoại lệ. Người đứng đầu cơ quan
HCNN là người thực hiện vai trò lãnh đạo,
quản lý đối với cơ quan HCNN do mình
đứng đầu.
12 Đặng Xuân Phương (2011), Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Bộ, cơ quan ngang Bộ trong quá trình cải cách hành
chính ở Việt Nam hiện nay, Sđd.
Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, đặc
điểm này còn xuất phát từ nét đặc thù của
mối quan hệ giữa hai yếu tố chính trị và
hành chính trong các cơ quan HCNN. Tùy
thuộc vào đặc điểm hệ thống chính trị ở từng
quốc gia và lý thuyết về tổ chức nền HCNN,
có hai phương thức lãnh đạo, điều hành đối
với các cơ quan HCNN: Một là, lãnh đạo về
mặt chính trị độc lập với điều hành về mặt
hành chính: phương thức này chỉ ấn định vai
trò lãnh đạo mà không cho phép người đứng
đầu cơ quan HCNN được trực tiếp tham
gia điều hành đối với cơ quan HCNN. Ví
dụ, đối với các nước theo truyền thống đại
nghị “Westminster” của Anh cũng như các
nước châu Âu lục địa theo chế độ đại nghị
(Đức, Italia, Thụy Điển...) và chế độ cộng
hòa lưỡng tính (Pháp), bộ trưởng chỉ có vai
trò lãnh đạo mà không trực tiếp tham gia
điều hành các hoạt động hành chính của bộ.
Hai là, lãnh đạo về mặt chính trị thống nhất
với điều hành về mặt hành chính: phương
thức này cho phép người đứng đầu cơ quan
HCNN không chỉ có vai trò của người lãnh
đạo mà còn có vai trò của nhà quản lý, vừa
lãnh đạo vừa trực tiếp tham gia điều hành
hoạt động của cơ quan HCNN. Việt Nam
là quốc gia áp dụng phương thức lãnh đạo,
điều hành này. Ngoài ra, các nước XHCN
ở Đông Âu (cũ), Trung Quốc, và ngay các
nước theo chế độ cộng hòa tổng thống cũng
áp dụng phương thức này12. Do đó, trong
nền hành chính Việt Nam hiện nay, người
đứng đầu cơ quan HCNN là người thực hiện
đồng thời vai trò “lãnh đạo” và vai trò “quản
lý” đối với hoạt động của cơ quan HCNN,
gắn bó chặt chẽ và toàn diện với việc thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan mà
mình đứng đầu.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7Số 8(360) T4/2018
3. Về trách nhiệm của người đứng đầu cơ
quan HCNN
Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan
HCNN là những việc mà người đứng đầu cơ
quan HCNN nên làm, phải làm, được làm với kết
quả tốt, nếu kết quả không tốt, người đứng đầu cơ
quan HCNN sẽ phải chịu trách nhiệm.
3.1 Các yếu tố cấu thành trách nhiệm của
người đứng đầu cơ quan HCNN
Trên cơ sở quan niệm này, có thể thấy
trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan
HCNN bao gồm ba yếu tố cấu thành cơ bản
là Nghĩa vụ, Quyền, và việc Chịu trách nhiệm
đối với việc thực hiện các nghĩa vụ và quyền đó.
Công thức khái quát như sau:
Trách nhiệm = Nghĩa vụ + Quyền +
Chịu trách nhiệm
Thứ nhất, Nghĩa vụ của người đứng đầu
cơ quan HCNN.
Nghĩa vụ của người đứng đầu cơ quan
HCNN có thể được hiểu là những hoạt động
họ nên thực hiện, phải thực hiện hoặc không
được phép thực hiện trong hiện tại và tương
lai. Theo cách hiểu này, nghĩa vụ của người
đứng đầu cơ quan HCNN bao gồm các khía
cạnh là những việc nên làm, những điều phải
làm và những điều không được làm.
Những việc nên làm là những việc người
đứng đầu thực hiện xuất phát từ sự ý thức
một cách tự giác về sứ mệnh của bản thân.
Trên phương diện pháp lý, việc đặt vấn đề
đâu là việc “nên làm” hay “không nên làm”
đối với người đứng đầu cơ quan HCNN là
thiếu căn cứ. Tuy nhiên, trách nhiệm của
người đứng đầu cơ quan HCNN không chỉ
được xem xét trên phương diện pháp lý mà
còn được xem xét trên phương diện chính trị,
13 Luật Cán bộ, Công chức năm 2008
14 Nguyễn Đăng Thành (2012), chủ biên, Đo lường và đánh giá hiệu quả quản lý HCNN - Những thành tựu trên thế giới
và ứng dụng ở Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
phương diện đạo đức. Điều này có nghĩa là
những đòi hỏi đối với trách nhiệm của người
đứng đầu cơ quan HCNN có thể vượt qua
những gì pháp luật quy định. Với cách tiếp
cận như vậy, nghĩa vụ của người đứng đầu
cơ quan HCNN không chỉ dừng lại ở những
việc phải làm, không được làm, mà còn phải
xem xét những việc họ “nên làm” với mục
đích đạt đến hiệu quả cao nhất trong hoạt
động quản lý nhà nước và cung cấp dịch vụ
công.
Những điều phải làm là những nghĩa vụ
cụ thể (hoặc công vụ cụ thể) được gọi với
nhiều tên gọi khác nhau như nhiệm vụ, công
vụ. Đó là những việc mà người đứng đầu có
bổn phận bắt buộc phải hoàn thành theo quy
định pháp luật.
Những điều không được làm là những
điều người đứng đầu cơ quan HCNN bị hạn
chế không được làm do đặc trưng của nền công
vụ và của vị trí người đứng đầu.
Nghĩa vụ của người đứng đầu cơ quan
HCNN có thể xem xét dưới nhiều góc độ.
Dưới góc độ là người lãnh đạo, quản
lý, người đứng đầu cơ quan HCNN có các
nghĩa vụ mà bất cứ người nào ở vị trí cao
nhất trong tổ chức cũng phải thực hiện, đó
là thực hiện vai trò của người lãnh đạo như:
thiết lập tầm nhìn cho tổ chức; tập hợp quần
chúng; cổ vũ, động viên toàn bộ đội ngũ;
xây dựng chiến lược cho tổ chức; ra quyết
định; tạo ra những sự thay đổi; tạo dựng môi
trường làm việc lành mạnh13, đồng thời thực
hiện vai trò của người quản lý như lập kế
hoạch, ngân sách, tổ chức, biên chế, kiểm
soát, và giải quyết vấn đề14 .
Dưới góc độ là người làm việc trong cơ
quan HCNN - một loại hình tổ chức có tính
chất, vai trò đặc biệt, người đứng đầu cơ
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Số 8(360) T4/2018
quan HCNN còn phải thực hiện những nghĩa
vụ mang tính đặc thù mà bất cứ nền công vụ
của quốc gia nào cũng quy định như: tuân
thủ mệnh lệnh cấp trên, phục vụ nhân dân,
giữ bí mật nhà nước, không được thực hiện
những điều cấm...
Nhìn chung, người đứng đầu cơ quan
HCNN có những nghĩa vụ cơ bản sau:
- Tuân thủ pháp luật của Nhà nước
và chỉ đạo của cấp trên;
- Phục vụ nhân dân;
- Xác định tầm nhìn, lập kế hoạch
hoạt động cho cơ quan HCNN;
- Chỉ đạo, tổ chức, điều hành cơ
quan thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, chịu trách nhiệm về kết quả hoạt
động và toàn bộ hoạt động của cơ quan được
giao lãnh đạo, quản lý;
- Ra quyết định và chịu trách nhiệm
về các quyết định đó;
- Tổ chức bộ máy, phân công công
việc;
- Quản lý cán bộ, công chức;
- Quản lý tài chính, tài sản;
- Quản lý thông tin, bảo vệ bí mật
nhà nước, giải trình khi có yêu cầu;
- Kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn việc
thi hành công vụ của cán bộ, công chức, xử
lý vi phạm trong phạm vi thẩm quyền;
- Tạo động lực làm việc cho nhân
viên;
- Không được thực hiện những điều
cấm...
Thứ hai, Quyền của người đứng đầu cơ
quan HCNN.
Quyền là khả năng xử sự nhất định của
người đứng đầu cơ quan HCNN nhằm thực
thi nhiệm vụ được giao. Quyền của người
đứng đầu cơ quan HCNN được cụ thể hóa
bằng quyền hạn. Với tư cách là người lãnh
đạo, quản lý nói chung, người đứng đầu cơ
quan HCNN cần có quyền hạn tương ứng
để thực hiện các nghĩa vụ, ví dụ: tương ứng
với các nghĩa vụ quản lý cán bộ, công chức,
quản lý tài chính, tài sản, quản lý thông tin,
người đứng đầu cần có các quyền hạn trong
các lĩnh vực này, thể hiện tập trung trong
quyền ra quyết định theo ý chí của bản thân.
Như vậy, trong cơ quan HCNN, người đứng
đầu là vị trí có quyền quyết định cao nhất,
bao quát các lĩnh vực, các hoạt động của cơ
quan HCNN. Tuy nhiên, do cơ quan HCNN
có những đặc điểm như tính thứ bậc và chỉ
hoạt động trong phạm vi thẩm quyền theo
quy định, nên quyền hạn của người đứng
đầu cơ quan HCNN chỉ được giới hạn trong
phạm vi được phân công, phân cấp theo quy
định pháp luật.
Thứ ba, việc Chịu trách nhiệm của người
đứng đầu cơ quan HCNN.
Theo nghĩa rộng, “chịu trách nhiệm”
là nhận trách nhiệm về sự thành, bại của một
công việc, một công tác đã nhận, là hệ quả
một người phải nhận lấy từ sự ràng buộc giữa
quyền và nghĩa vụ: làm tốt thì được khen
thưởng, làm hỏng thì chịu phạt. Theo nghĩa
này, được khen thưởng hay phải chịu phạt
cũng đều có nghĩa là chịu trách nhiệm. Theo
nghĩa hẹp, chịu trách nhiệm đồng nghĩa với
sự trừng phạt, là việc phải gánh chịu một hậu
quả bất lợi từ việc thực hiện không đúng,
không tốt các nghĩa vụ và quyền. Trong bài
viết này, chúng tôi hiểu “chịu trách nhiệm”
theo nghĩa hẹp, là chế tài chịu trách nhiệm.
Nếu kết quả thực hiện những nghĩa vụ
và quyền không tốt, người đứng đầu cơ quan
HCNN sẽ phải chịu trách nhiệm. Trong bài
viết này, quan niệm “kết quả” là những gì có
được sau quá trình quản lý, bao gồm kết quả
trực tiếp và kết quả cuối cùng. Kết quả trực
tiếp được xác định về định lượng khối lượng
công việc hoàn thành của người đứng đầu cơ
quan HCNN. Kết quả cuối cùng là tác động,
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
9Số 8(360) T4/2018
ảnh hưởng đạt được các mục tiêu và nhiệm
vụ có ý nghĩa xã hội của cơ quan HCNN15.
Tương ứng với quyền quyết định cao
nhất, bao quát các lĩnh vực, các hoạt động
của cơ quan HCNN, người đứng đầu cơ
quan HCNN phải là người chịu trách nhiệm
về các lĩnh vực, các hoạt động cũng như
về kết quả hoạt động của cơ quan HCNN.
Người đứng đầu cơ quan HCNN phải chịu
trách nhiệm trước các chủ thể khác nhau với
các hình thức chế tài khác nhau tùy thuộc
vào đó là loại hình trách nhiệm chính trị,
pháp lý hay đạo đức.
3.2 Đặc điểm trách nhiệm của người
đứng đầu cơ quan HCNN
Một là, trách nhiệm của người đứng đầu
cơ quan HCNN mang tính xã hội sâu sắc
Hoạt động của cơ quan HCNN mang
tính chấp hành, điều hành, có chức năng quản
lý nhà nước và cung cấp dịch vụ công, do
đó, có tác động trực tiếp và rộng rãi đến các
cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, là cầu nối
để chính sách, pháp luật được hiện thực hóa
trong thực tiễn. Do vậy, việc thực hiện trách
nhiệm của người đứng đầu cơ quan HCNN
đều trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng tới lợi
ích của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp
trong xã hội. Vì vậy, có thể nói, hoạt động
quản lý, lãnh đạo của người đứng đầu cơ
quan HCNN tác động mạnh mẽ đến sự vận
hành của xã hội, gắn liền với sự phát triển
kinh tế xã hội và đời sống của người dân ở
từng địa phương, từng ngành, từng lĩnh vực.
Nếu địa phương, ngành, lĩnh vực kém phát
triển, thì xã hội trước hết quy trách nhiệm
cho các cơ quan HCNN, mà đại diện là
người đứng đầu cơ quan HCNN. Thực tiễn
các quốc gia trên thế giới và Việt Nam đã
15 Nguyễn Đăng Thành (2012), chủ biên, Đo lường và đánh giá hiệu quả quản lý HCNN - Những thành tựu trên thế giới
và ứng dụng ở Việt Nam, sđd.
16 Phạm Hồng Thái (2009), Chức vụ và thẩm quyền chức vụ trong cơ quan HCNN, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia
Hà Nội, Luật học 25, tr. 67-73.
chỉ ra rằng, bằng các chính sách, quyết định
do mình đưa ra, những người đứng đầu các
cơ quan HCNN, đặc biệt người đứng đầu
cơ quan HCNN cấp trung ương, có thể làm
thay đổi đời sống chính trị, xã hội, kinh tế
của một cộng đồng dân cư, một vùng của đất
nước, của cả đất nước, trong nhiều trường
hợp làm thay đổi hướng đi của cả một dân
tộc, quốc gia trong những giai đoạn, thời kỳ
nhất định, thậm chí làm thay đổi cả quan hệ
với các quốc gia, dân tộc khác, còn các nhà
chính trị cấp dưới ở địa phương có thể làm
thay đổi được đời sống dân cư trên một đơn
vị hành chính nhất định16 .
Tính xã hội trong hoạt động của người
đứng đầu cơ quan HCNN còn thể hiện ở tính
chất thường xuyên, liên tục của các hoạt
động quản lý và cung cấp dịch vụ công. Công
việc của người đứng đầu cơ quan HCNN rất
khác với các vị trí người đứng đầu trong
cơ quan lập pháp hay tư pháp. Hoạt động
chấp hành và điều hành được thực hiện hàng
ngày, hàng giờ. Trong khi đó, hoạt động lập
pháp diễn ra theo định kỳ; hoạt động của cơ
quan xét xử chỉ tiến hành khi có tranh chấp
về quyền hoặc có vi phạm pháp luật xảy ra
mà theo quy định của pháp luật thuộc thẩm
quyền xét xử của tòa án; còn hoạt động kiểm
sát, về nguyên tắc, chỉ chính thức được tiến
hành khi đã phát hiện có vi phạm pháp luật
xảy ra (như kiểm sát điều tra, truy tố, kiểm
sát xét xử, kiểm sát thi hành án...).
Hai là, trách nhiệm của người đứng
đầu cơ quan HCNN là trách nhiệm cá nhân.
Đặc điểm này có hàm nghĩa rằng:
trong mỗi một cơ quan HCNN cụ thể, khi
nói đến “người đứng đầu” đồng nghĩa với
việc chỉ đích danh một cá nhân duy nhất,
người nắm giữ vị trí cao nhất trong cơ quan
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
10 Số 8(360) T4/2018
HCNN. Do đó, “người đứng đầu cơ quan
HCNN” không phải là thuật ngữ dùng để
chỉ tập thể, số nhiều. Trong công tác lãnh
đạo, điều hành, có ba chế độ lãnh đạo, điều
hành (chế độ làm việc) cơ bản: Thứ nhất,
lãnh đạo, điều hành dựa trên vai trò cá nhân
của người đứng đầu (còn gọi là chế độ thủ
trưởng) - hình thành nên thiết chế người
đứng đầu; Thứ hai, lãnh đạo, điều hành dựa
trên nguyên tắc quyền lực tập thể - là chế
độ tập thể lãnh đạo; Thứ ba, lãnh đạo, điều
hành kết hợp giữa vai trò tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách17... Như vậy, thiết chế “người
đứng đầu” là thiết chế thủ trưởng (cá nhân).
Chế độ người đứng đầu (một số thuật ngữ
khác có hàm nghĩa tương đương: chế độ thủ
trưởng, chế độ một người đứng đầu...) là
nguyên tắc quản lý trao cho cá nhân người
đứng đầu một tổ chức quyền rộng rãi để thực
hiện nhiệm vụ chức năng được giao, định rõ
trách nhiệm của cá nhân đó đối với kết quả
công việc (...). Khác với chế độ người đứng
đầu, chế độ tập thể là nguyên tắc quản lý
(lãnh đạo) mà quyền thuộc về một tập thể bao
gồm những cá nhân, mỗi người chịu trách
nhiệm trên một lĩnh vực. Dạng “thuần tuý”
của nó là chế độ đồng thuận (quyết định chỉ
được đưa ra khi mọi thành viên tán thành);
phổ biến hơn hiện nay là chế độ bình quyền
giữa mọi thành viên, mỗi người một phiếu,
quyết định theo đa số18... Do đó, chúng tôi
không đồng tình với ý kiến cho rằng: “Theo
nghĩa rộng, người đứng đầu là chỉ cá nhân hoặc
tập thể có quyền lực nhất định trong lãnh đạo,
quản lý, gánh vác trách nhiệm nhất định và đứng
đầu chỉ huy, tổ chức một đơn vị hoặc một tổ chức
nhất định để thực hiện mục tiêu lãnh đạo, quản
lý đã đề ra”19... Quan điểm này vừa thiếu hợp
17 Nguyễn Đăng Tấn, Gắn với trách nhiệm để đánh giá cán bộ, trang nam.vietnamnet.vn/2012-02-28-gan-
voi-trach-nhiem-de-danh-gia-can-bo, đăng ngày 29/2/2012.
18 Bùi Đức Lại, Về trách nhiệm người đứng đầu trong công tác cản bộ, Tạp chí Xây dựng Đảng Online,
dungdang.org.vn/Home/dien- dan/2007/1608/Ve-trach-nhiem-nguoi-dung-dau-trong-cong-tac-can-bo.aspx, đăng ngày
3/6/2007.
19 Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2010), Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người đứng
đầu các cơ quan HCNN Việt Nam hiện nay - Vấn đề và giải pháp, tlđd.
lý, vừa có thể gây ra sự nhầm lẫn giữa các
chế độ lãnh đạo, điều hành rất khác nhau về
bản chất.
Chính vì vậy, trong một tổ chức cụ thể,
dựa trên địa vị chính thức mang tính pháp lý,
vị trí người đứng đầu luôn luôn chỉ là một
cá nhân duy nhất. Đây là điểm khác biệt đặc
biệt có ý nghĩa khi xem xét, thực hiện, quy
kết trách nhiệm của người đứng đầu. Có thể
thấy, “người đứng đầu” là thuật ngữ có tính
xác định tuyệt đối và do đó, trách nhiệm của
người đứng đầu cũng mang tính xác định
tuyệt đối. Đó là trách nhiệm đích danh của
một người duy nhất, người có vị trí pháp lý
cao nhất trong tổ chức - người đứng đầu.
Ba là, trách nhiệm của người đứng đầu cơ
quan HCNN có tính bao quát, thể hiện trên các
mặt như sau:
Thứ nhất, người đứng đầu cơ quan
HCNN có nghĩa vụ đối với mọi vấn đề trong
quá trình quản lý cơ quan HCNN.
Thứ hai, người đứng đầu cơ quan
HCNN không chỉ có trách nhiệm về những
hoạt động của bản thân trong thực hiện
nghĩa vụ, quyền mà còn phải có trách nhiệm
về những hoạt động của cán bộ, công chức
dưới quyền trong thi hành nhiệm vụ (liên
đới trách nhiệm).
Thứ ba, người đứng đầu cơ quan HCNN
vừa phải có trách nhiệm với tư cách là một
cán bộ công chức bình thường, vừa phải có
trách nhiệm với tư cách là người đứng đầu
cơ quan HCNN. Nếu cùng một hành vi vi
phạm pháp luật công vụ, so với các cán bộ,
công chức không giữ chức vụ lãnh đạo quản
lý, thông thường mức độ trách nhiệm của
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
11Số 8(360) T4/2018
người đứng đầu sẽ cao hơn một bậc.
Thứ tư, người đứng đầu cơ quan HCNN
không chỉ có trách nhiệm đối với nội bộ hệ
thống các cơ quan trong bộ máy nhà nước
mà còn có trách nhiệm đối với xã hội là các
cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp.
Tóm lại, người đứng đầu cơ quan
HCNN là thuật ngữ dùng để chỉ thiết chế
giữ vị trí pháp lý, quyền và nghĩa vụ cao
nhất trong cơ quan HCNN, thực hiện vai trò
lãnh đạo quản lý và chịu trách nhiệm về kết
quả hoạt động của cơ quan HCNN. Trách
nhiệm của người đứng đầu cơ quan HCNN
nên làm, phải làm, được làm với kết quả tốt
và những điều không được làm; nghĩa vụ,
quyền và chịu trách nhiệm của người đứng
đầu cơ quan HCNN trong tuân thủ pháp luật
và phục vụ nhân dân; trong lập kế hoạch,
ra quyết định và điều hành chỉ đạo hoạt
động của cơ quan, tổ chức thực hiện chức
năng, nhiệm vụ mà Nhà nước và nhân dân
giao phó
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Đỗ Minh Hợp (2007), Tự do và trách nhiệm trong đạo đức học hiện sinh, Tạp chí Triết học, số 12/2007,
tr. 27-33.
2. Nguyễn Văn Phúc (2008), Tự do và trách nhiệm trong hoạt động của con người, trong Công bằng xã
hội trách nhiệm đối với xã hội và đoàn kết xã hội, Phạm Văn Đức chủ biên, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.
330-331.
3. Phạm Hồng Thái (2009), Chức vụ và thẩm quyền chức vụ trong cơ quan HCNN, Tạp chí Khoa học Đại
học Quốc gia Hà Nội, Luật học 25, tr. 67-73.
4. Lê Như Thanh (2009), Cơ sở lý luận và thực tiễn về nghĩa vụ, quyền, trách nhiệm của người đứng đầu
ở Việt Nam hiện nay, Luận án TS. Quản lý Hành chính công, Học viện Hành chính, Hà Nội.
5. Học viện Hành chính (2008), Giáo trình Luật Hành chính và tài phán hành chính Việt Nam, Nxb Khoa
học và Kỹ thuật, Hà Nội.
6. Viện Ngôn ngữ học, Trung tâm từ điển học (2002), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng.
7. Nguyễn Hữu Đổng, Phạm Thế Lực, Hoạt động lãnh đạo và quản lý của người đứng đầu cơ quan HCNN
ở nước ta, Tạp chí Lý luận chính trị Online, index.php/thuc-tien/item/310-hoat-
dong-lanh-dao-va-quan-ly-cua-nguoi-dung-dau-co-quan-hanh-chinh-nha-nuoc-o-nuoc-ta.html, đăng ngày
24/7/2013, truy cập ngày 25/7/2013.
8. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2010), Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm
của người đứng đầu các cơ quan HCNN Việt Nam hiện nay - Vấn đề và giải pháp, Báo cáo tổng hợp kết quả
nghiên cứu đề tài khoa học cấp Bộ năm 2009, Cơ quan chủ trì: Viện Nhà nước và Pháp luật, Chủ nhiệm đề tài:
PGS.TS. Trịnh Đức Thảo, Hà Nội.
9. Nguyễn Cửu Việt (2008), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Đặng Xuân Phương (2011), Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Bộ, cơ quan ngang Bộ trong quá trình
cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
11. Nguyễn Đăng Tấn, Gắn với trách nhiệm để đánh giá cán bộ, nam.vietnamnet.vn/2012-
02-28-gan-voi-trach-nhiem-de-danh-gia-can-bo, đăng ngày 29/2/2012.
12. Luật Cán bộ, Công chức năm 2008.
13. Nguyễn Đăng Thành (2012), chủ biên, Đo lường và đánh giá hiệu quả quản lý HCNN - Những thành
tựu trên thế giới và ứng dụng ở Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
14. Bùi Đức Lại, Về trách nhiệm người đứng đầu trong công tác cản bộ, Tạp chí Xây dựng Đảng Online,
dan/2007/1608/Ve-trach-nhiem-nguoi-dung-dau-trong-cong-tac-
can-bo.aspx, đăng ngày 3/6/2007.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
12 Số 8(360) T4/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- trach_nhiem_cua_nguoi_dung_dau_co_quan_hanh_chinh_nha_nuoc.pdf