KẾT LUẬN
- Thời tiết, khí hậu tại huyện Bắc Mê, tỉnh Hà
Giang giai đoạn từ năm 1998 - 2019 có xu hướng
tăng nhiệt độ, lượng mưa giảm, không theo quy
luật, gây nhiều bất lợi đối với sản xuất nông lâm
nghiệp. Nghiên cứu đã thống kê được các hiện
tượng thời tiết cực đoạn và lịch sử thiên tai; hình
thức và mức độ tác động đến các loại cây trồng,
vật nuôi tại điểm nghiên cứu; làm giảm năng suất
cây trồng 25% - 70%, vật nuôi bị bệnh hoặc chết,
cây lâm nghiệp bị gãy đổ nhiều hơn.
- Bộ giống bản địa của người Dao rất phong
phú, có nhiều đặc điểm về khả năng thích ứng
với BĐKH, như: cây trồng chống chịu với khô
hạn, kháng bệnh tốt, ít sâu bệnh, khó bị gãy đổ;
vật nuôi kháng bệnh tốt hơn, tỷ lệ tử vong thấp
khi có dịch bệnh xảy ra. Chất lượng thực phẩm
thơm ngon và có hương vị đặc trưng, được đa
số người dân ưu tiên sử dụng trong sản xuất
(75% người dân sử dụng cây trồng nông nghiệp;
72 - 84% người dân sử dụng giống vật nuôi).
- Kinh nghiệm trong dự báo thời tiết thông
qua dấu hiệu nhận biết từ các hiện tượng tự nhiên
và môi trường sống đã giúp người dân có những
đề phòng và phản ứng hiệu quả trước tự nhiên;
giúp giảm tình trạng dễ bị tổn thương tại cộng
đồng do BĐKH gây ra, đồng thời cung cấp thêm
các giải pháp, lựa chọn thích ứng với BĐKH.
- Hệ thống cây trồng vật nuôi được chuyển
dịch từ độc canh (thích ứng thấp) sang đa canh
(mô hình nông lâm kết hợp) trên cơ sở kết hợp
cùng các kinh nghiệm canh tác truyền thống đã
đem lại nhiều hiệu quả trong canh tác bền vững
và tăng cường tính thích ứng của các mô hình
sử dụng đất.
- Các tri thức bản địa trong sản xuất nông
nghiệp thích ứng với BĐKH của người Dao có
ý nghĩa quan trọng; góp phần tạo sinh kế, cải
thiện và duy trì hệ sinh thái, tăng cường khả
năng thích ứng, giảm tính dễ bị tổn thương tại
cộng đồng; là giải pháp bền vững ở cấp cộng
đồng ứng phó với biến đổi khí hậu. Việc vận
dụng tri thức bản địa và tích hợp vào các
chương trình thích ứng là chìa khóa thành công
cho phát triển sinh kế bền vững tại cộng đồng.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 11 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tri thức bản địa trong nông lâm nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu của người Dao tại huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường
94 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1- 2020
TRI THỨC BẢN ĐỊA TRONG NÔNG LÂM NGHIỆP THÍCH ỨNG VỚI
BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU CỦA NGƯỜI DAO TẠI HUYỆN BẮC MÊ,
TỈNH HÀ GIANG
Đồng Thị Thanh1, Nguyễn Thị Bích1, Nguyễn Bá Long1, Hoàng Cằn Dương
1
1Trường Đại học Lâm nghiệp
TÓM TẮT
Tri thức bản địa là phương tiện để thể hiện các nguyên tắc về tín ngưỡng, thế giới quan, thể chế bản địa được
đưa vào thực tiễn. Tri thức bản địa cũng quan trọng như kiến thức khoa học trong cách tiếp cận để thích ứng
với biến đổi khí hậu. Ngoài ra, tri thức bản địa là cơ sở cho việc ra quyết định ở cấp địa phương cho chiến lược
thích ứng với biến đổi khí hậu. Bài báo này sẽ tập trung tri thức bản địa của người Dao, tại huyện Bắc Mê, tỉnh
Hà Giang để thích ứng với BĐKH trong sản xuất nông lâm - nghiệp. Qua thời gian nhiều năm thử nghiệm,
người Dao đã tích lũy tri thức bản địa, phát triển hệ thống canh tác phù hợp với môi trường sống của họ. Dữ
liệu phục vụ cho nghiên cứu này được thu thập thông qua khảo sát, phỏng vấn và thảo luận nhóm tập trung để
thu thập kiến thức bản địa về giống cây trồng và giống vật nuôi, dự báo thời tiết, thực hành canh tác. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, diễn biến của khí hậu tại khu vực nghiên cứu trong giai đoạn từ năm 1998 đến 2019 nhiệt
độ có xu thế gia tăng, lượng mưa có xu hướng giảm; nhưng không theo quy luật, gây nhiều bất lợi đối với sản
xuất. Các hiện tượng thời tiết cực đoan lũ quét, mưa đá, gió bão, rét đậm rét hại, nắng nóng kéo dài đã tác động
nghiêm trọng đến cây trồng, vật nuôi. Người Dao đã vận dụng tri thức bản địa trong với BĐKH gồm: sử dụng
bộ giống cây trồng, vật nuôi bản địa; kinh nghiệm dự báo thời tiết khí hậu cực đoan; kinh nghiệm điều chỉnh hệ
thống cây trồng; kinh nghiệm canh tác để thích ứng. Những tri thức bản địa này đóng vai trò quan trọng, góp
phần cải thiện và duy trì các dịch vụ hệ sinh thái, tăng cường khả năng thích ứng với BĐKH, giảm tính dễ bị
tổn thương. Vì vậy, tích hợp hệ thống tri thức bản địa vào các chương trình thích ứng là cần thiết.
Từ khóa: Biến đổi khí hậu, nông lâm - nghiệp, người Dao, tri thức bản địa.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Khu vực miền núi phía Bắc được đánh giá
dễ bị tổn thương nhất với BĐKH do đây là nơi
cư trú của nhiều người dân tộc thiểu số với
nguồn thu nhập chủ yếu dựa vào sản xuất nông
nghiệp, tỷ lệ nghèo lớn nhất cả nước (ADC,
2013; CARE & Trung tâm Nghiên cứu phát
triển nông lâm nghiệp miền núi, 2014). Đường
Hồng là một xã miền núi huyện Bắc Mê, tỉnh
Hà Giang, nơi đây là địa bàn sinh sống của các
cộng đồng dân tộc thiểu số Dao, Tày, Kinh,
Nùng, trong đó có dân tộc Dao chiếm tới 75%.
Với hơn 90% số hộ dân có nguồn thu nhập chủ
yếu dựa vào sản xuất nông lâm nghiệp, hoạt
động sản xuất của người dân phụ thuộc nhiều
vào điều kiện tự nhiên (Ủy ban nhân dân xã
Đường Hồng, 2018; Đồng Thị Thanh, 2019).
Cộng đồng người Dao sống lâu đời tại Bắc Mê
có sở hữu hệ thống tri thức bản địa rất phong
phú về các lĩnh vực trong đời sống và sản xuất.
Trong sản xuất nông lâm nghiệp và quản lý tài
nguyên thiên, hệ thống tri thức này đóng vai
trò quan trọng trong việc duy trì và phát triển
các kỹ thuật phù hợp với điều kiện kinh tế, văn
hóa, xã hội, phong tục tập quán và năng lực
cộng đồng (Đồng Thị Thanh, 2019).
Biến đổi khí hậu tại khu vực nghiên cứu có
diễn biến phức tạp về nhiệt độ, lượng mưa, gắn
liền với các hiện tượng thời tiết cực đoan và
thiên tai; gây nhiều thiệt hại cả về kinh tế, xã
hội, và thảm họa môi trường tại địa phương
(Đồng Thị Thanh, 2019; Ủy ban nhân dân xã
Đường Hồng, 2018 ). Trước những tác động
tiêu cực của biến đổi khí hậu đến đời sống và
sản xuất nông lâm nghiệp, người Dao tại khu
vực nghiên cứu đã có những giải pháp ứng phó
dựa trên những tri thức được đúc kết, chọn lọc
qua thời gian và quá trình thực hành sản xuất.
Sử dụng tri thức bản địa là giải pháp thích ứng
BĐKH đang được người Dao lựa chọn bởi nó
đem lại hiệu quả, ít tốn kém, phù hợp với năng
lực của cộng đồng và có khả năng thích ứng
cao với địa phương - nơi mà chính những tri
thức đó đã được hình thành, trải nghiệm và
phát triển.
Bài báo nhằm hệ thống những tri thức bản
địa trong sản xuất nông lâm nghiệp thích ứng
với biến đổi khí hậu của cộng đồng người Dao
ở Bắc Mê, từ đó đề xuất các giải pháp bảo tồn,
phát triển và xây dựng các mô hình thích ứng
với biến đổi khí hậu phù hợp.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Nội dung nghiên cứu
Phân tích ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và
hiện tượng thời tiết cực đoan đến sản xuất
nông lâm nghiệp tại điểm nghiên cứu.
Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1 - 2020 95
Tổng hợp tri thức bản địa trong nông lâm
nghiệp thích ứng với BĐKH của người Dao tại
điểm nghiên cứu.
2.2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Tri thức bản địa trong
sản xuất nông lâm nghiệp của người Dao.
Phạm vi nghiên cứu: thôn Khuổi Hon và
Tiến Minh, xã Đường Hồng, huyện Bắc Mê,
tỉnh Hà Giang.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
a) Nghiên cứu và phân tích tài liệu thứ cấp: Kế
thừa các nguồn tài liệu tại địa phương, kết quả
nghiên cứu các công trình khoa học trên cơ sở
phân tích có chọn lọc. Các tài liệu cơ bản gồm:
- Số liệu khí tượng thủy văn về nhiệt độ,
lượng mưa các ngày được đo tại Trạm Bắc Mê
từ năm 1998 đến 2019.
- Thông tin về hiện tượng khí hậu cực đoan
và lịch sử thiên tai tại khu vực nghiên cứu.
- Báo cáo về tình hình sản xuất nông lâm
nghiệp của địa phương.
b) Điều tra thu thập số liệu: Nghiên cứu sử
dụng phương pháp và bộ công cụ đánh giá
nông thôn có sự tham gia của người dân (PRA)
để tìm hiểu và thu thập các thông tin, số liệu
hiện trường. Các công cụ chính sử dụng trong
nghiên cứu gồm: Phỏng vấn bán định hướng,
phân tích SWOT, biểu đồ hướng thời gian,
điều tra tuyến và vẽ sơ đồ lát cắt, phân tích lịch
mùa vụ...
Phỏng vấn bán định hướng tại huyện, xã và
thôn điểm: Tại huyện phỏng vấn cán bộ phòng
nông nghiệp, cán bộ trạm khí tượng, trạm
khuyến nông. Tại xã tiến hành phỏng vấn chủ
tịch xã, cán bộ nông nghiệp xã. Tại thôn tiến
hành phỏng vấn cán bộ thôn và đại diện các tổ
chức xã hội trong thôn. Nội dung phỏng vấn
tập trung vào: tình hình kinh tế, xã hội; hiện
trạng sử dụng đất, tình hình phát triển nông
lâm nghiệp của của điểm nghiên cứu (xã,
thôn). Các thông tin về khí tượng thủy văn
(nhiệt độ, lượng mưa), hiện tượng thời tiết cực
đoan, lịch sử thiên tai đã xảy ra trên địa bàn, có
ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất nông lâm
nghiệp tại điểm nghiên cứu.
Phỏng vấn hộ gia đình: Lựa chọn 36 hộ gia
đình sống tại 2 thôn điểm để phỏng vấn. Các
hộ gia đình là người dân tộc Dao, có nguồn
sinh kế chính từ nông lâm nghiệp, có nhiều tri
thức bản địa trong sản xuất và kinh nghiệm
ứng phó với biến đổi khí hậu, có các mô hình
sử dụng đất gắn liền với các hệ thống canh tác
chính của địa phương. Nội dung phỏng vấn tập
trung: các hiện tượng thời tiết cực đoan, thiên
tai đã xảy ra và những thiệt hại đến cây trồng
vật nuôi; các kinh nghiệm của người dân trong
sản xuất và ứng phó với biến đổi khí hậu như:
chọn giống và chăm sóc cây trồng vật nuôi,
lịch mùa vụ, chuyển đổi cây trồng, kỹ thuật
canh tác, dự báo thời tiết...
Thảo luận nhóm: tại điểm nghiên cứu tiến
hành 03 cuộc thảo luận với cán bộ xã, cán bộ
thôn và nhóm nông dân nòng cốt về các nội
dung: Những hiện tượng thời tiết cực đoan đã
xảy ra tại địa phương trong những năm gần
đây; Tác động của BĐKH đến qui mô và mức
độ thiệt hại từng loại cây trồng và vật nuôi tại
địa phương; Các hoạt động thích ứng với
BĐKH của người Dao.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Diễn biến thời tiết cực đoan trong giai
đoạn 1998 – 2019 ở khu vực Bắc Mê
Tình hình biến đổi khí hậu tại Bắc Mê, Hà
Giang được thể hiện thông qua những thay
đổi phức tạp về xu thế nhiệt độ, lượng mưa,
các hiện tượng thời tiết khí hậu cực đoan
trong vài thập kỷ trở lại đây. Kết quả phân
tích số liệu khí tượng giai đoạn 1998 – 2019
tại Bắc Mê cho thấy như sau:
Tại Đường Hồng đã có biến động lớn về
nhiệt độ và lượng mưa trung bình theo các
tháng. Biến động này theo chiều hướng thất
thường, không theo quy luật. Mức nhiệt độ
và lượng mưa cao nhất, thấp nhất ở các năm
xảy ra ở các thời điểm khác nhau, không theo
quy luật và không đồng đều giữa các năm; có
tác động tiêu cực đến sản xuất, bố trí cây
trồng, lịch mùa vụ và chăm sóc vật nuôi của
người dân.
Phân tích về xu thế nhiệt độ và lượng mưa
cho thấy xu hướng gia tăng về nhiệt độ, giảm
về tổng lượng mưa (được thể hiện qua đường
phân tích xu thế tại hình 1, hình 2). Việc tăng
nhiệt độ, giảm tổng lượng mưa đã gây ra
những tác động sâu sắc đến nguồn nước,
năng suất, chất lượng nông lâm sản, hoạt
động canh tác của người dân địa phương.
Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường
96 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1- 2020
Hình 1. Nhiệt độ và đường xu thế nhiệt độ
Hình 2. Lượng mưa và đường xu thế lượng mưa
Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu được thể
hiện qua các hiện tượng thời tiết cực đoan và
lịch sử thiên tai và tác động xấu đến sản xuất
nông lâm nghiệp tại địa phương. Bảng 1 tổng
hợp các hiện tượng thời tiết cực đoan và lịch
sử thiên tai đã xảy ra tại điểm nghiên cứu
trong thời gian từ 2007 đến 2019.
Bảng 1. Hiện tượng thời tiết cực đoan và lịch sử thiên tai tại điểm nghiên cứu
STT Hiện tượng Thời gian Biểu hiện
1 Lũ quét
06/5/2018
Gây sạt lở cuốn trôi các sườn núi cao, nhà cửa, cầu cống, đường
giao thông, ruộng bậc thang, ao cá, gia súc, gia cầm, tài sản.
Gây ra thiệt hại về người, tài sản, hoa màu
25/8/2017
T6/2015
18/7/20/13
25/6/2012
28/7/2009
2
Mưa đá, gió
bão
18/2/2019
Thiệt hại nhà cửa bị đổ, tốc mái, hư hỏng
Hoa màu bị dập nát và cuốn đổ.
Cây ăn quả, cây lâm nghiệp bị gẫy đổ...
Gia súc, gia cầm bị chết do mưa đá...
15/4/2016
22/3/2015
25/4/2012
28/5/2010
3
Rét đậm, rét hại
trên diện rộng,
xảy ra mưa
tuyết và băng
giá
29/12/2018 Nhiệt độ 2 – 40C trên diện rộng, rét đậm rét hại kéo dài
24/01/2016 Nhiệt độ 3 – 50C trên diên rộng, rét đậm rét hại kéo dài
26/12/2015 Nhiệt độ 0 – 50C rét đậm rét hại kéo dài, một số nơi băng giá
15/12/2007 Nhiệt độ 5 – 70C trên diện rộng
10/01/2009 Nhiệt độ 6 – 70C trên diện rộng
4
Nắng nóng,
khô hạn
7/6-
26/6/2018
Nhiệt độ 330C – 360C, kéo dài, thiếu nước sản xuất và sinh hoạt.
26/5-
3/6/2017
Nhiệt độ cao từ 30 – 350C, kéo dài, thiếu nước sản xuất và sinh
hoạt.
(Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra và kế thừa tài liệu)
3.2. Hình thức và mức độ thiệt hại do thời tiết
cực đoan tác động đến sản xuất nông lâm
nghiệp tại địa phương
Tác động của biến đổi khí hậu đến sản xuất
nông lâm nghiệp được thể hiện qua những thiệt
hại về cây trồng và vật nuôi tại điểm nghiên cứu.
Kết quả thảo luận nhóm, phỏng vấn người dân,
phân tích biểu đồ hướng thời gian về lịch sử thiên
tai có sự tham gia, báo cáo đã tổng hợp được
những hiện tượng khí hậu thời tiết cực đoan trong
10 năm trở lại đây và tác động của nó đến các loài
cây trồng, vật nuôi chính tại địa phương.
0
50
T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10T11T12
Biểu đồ nhiệt độ trung bình các tháng
2009 2010 2011 2012 2013
2014 2015 2016 2017 2018
y = 0.2229x + 20.909
18.00
20.00
22.00
24.00
26.00
2
00
9
2
01
0
2
01
1
2
01
2
2
01
3
2
01
4
2
01
5
2
01
6
2
01
7
2
01
8
0
1000
T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10T11T12
Biểu đồ lượng mưa
2009 2010 2011 2012
2013 2014 2015 2016
Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1 - 2020 97
Bảng 2. Hình thức và mức độ thiệt hại do thời tiết cực đoan tác động đến sản xuất
nông lâm nghiệp tại điểm nghiên cứu
CT/VN
Hiện tượng
thời tiết cực đoan
Mức độ tác động
I. Cây nông nghiệp
Lúa
Nắng nóng kéo dài: 4 tháng
(tháng 5,6,7,8.)
Thiếu nước cho sản xuất, cây sinh trưởng chậm, giảm
năng suất
Năng suất cây lúa giảm (từ 2,6 tạ/sào xuống 1,9 tạ/sào)
Lạnh giá, sương muối, tuyết xuất
hiện thường xuyên vào mùa đông
Cây phát triển chậm, ngừng sinh trưởng hoặc chết do
nhiệt độ hạ thấp vì vậy phải sử dụng các biện pháp che
chắn, lùi lịch mùa vụ trong vụ Đông Xuân từ (tháng
11,12 năm trước sang tháng 1, 2 năm sau theo âm lịch)
Mưa đá, gió báo, lốc xoáy
Làm giảm năng xuất lúa từ 25 - 50%. Cây đỗ gãy, chết.
Sâu đục thân, sâu cuốn lá, bệnh đạo ôn... xuất hiện ngày
càng nhiều.
Lũ ống, lũ quét. Cuốn trôi, vùi lấp, làm giảm diện tích gieo trồng lúa.
Ngô
Gió, bão, mưa đá, lũ xuất hiện với tần
xuất và cường độ ngày cao.
Làm đổ, gãy cây, gây thiệt hại trên những cánh đồng,
nương ngô
Làm giảm năng suất 50 - 70%, và mất mùa.
Nắng nóng kéo dài, khô hạn từ 15
đến 25 ngày liên tục/tháng.
Cây ngô thiếu nước sinh trưởng chậm, khô héo lá.
Một số đợt nắng nóng dài làm cây chết khô, bắp ít hạt do
trổ cờ thiếu nước, giảm năng suất 30 - 50%
Đậu tương
Khô hạn kéo dài
Cây thiếu nước, héo lá, phát triển chậm, năng xuất và
chất lượng giảm.
Độ ẩm cao nhiệt độ thích hợp sâu
cuốn lá, rệp, nấm sinh sôi
Làm cây chết, sinh trưởng chậm, vàng lá còi cọc, năng
suất giảm.
II. Cây lâm nghiệp
Mỡ
Sâu, bệnh và nấm xuất hiện với tần
xuất cao
Dịch sâu ăn lá, nấm cổ rễ làm cây phát triển chậm và chết
cây
Băng giá Cây bị gãy, sinh trưởng chậm, chết
Bão to, gió lớn Làm cây đổ, gãy cây.
Sa mộc
Nắng nóng kéo dài, khô hạn Cháy rừng: 5,3 ha năm 2015; 2,8 ha năm 2017
Mưa, bão, gió to Cây bị gãy đổ làm giảm năng suất và chất lượng gỗ
Ẩm nồm làm cho sâu bệnh và nấm
phát triển mạnh
Cây sinh trưởng chậm, gây chết cây
III. Vật nuôi
Trâu
Lạnh kéo dài, nhiệt độ 00C – 30C
Trâu bị chết rét: 18 con vào năm 2016
Trâu bị nhiễm bệnh...
Khô hạn kéo dài
Thiếu nước uống, thiếu cỏ, sức đề kháng của trâu giảm và
dễ mắc các bệnh về tiêu hóa...
Bò
Nắng nóng, khô hạn thời tiết thất
thường
Thiếu thức ăn xanh
Bò mắc các bệnh, tụ huyết trùng, lở mồm long móng...
Mùa đông nhiệt độ xuống thấp từ
00C – 30C, lạnh kéo dài, băng giá.
Bò bị chết rét nhiều: 12 con vào năm 2017.
Dê Nắng nóng, lạnh giá kéo dài Thiếu thức ăn, dê mắc bệnh tiêu chảy
Gà
Nhiệt độ xuống thấp từ 00C – 30C kéo
dài vào mùa đông, băng giá
Gà con bị chết, mắc các bệnh về hô hấp, tiêu hóa...
Nắng nóng, độ ẩm cao là điều kiện
thuận lợi cho vi khuẩn và virus phát
triển mạnh
Bệnh, dịch cúm gia cầm xuất hiện nhiều hơn.
(Nguồn: Tổng hợp kết quả điều tra, thảo luận nhóm)
Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường
98 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1- 2020
3.3. Kiến thức, kinh nghiệm của người Dao
trong phòng, chống và làm giảm thiểu tác
động do thời tiết cực đoan trong sản xuất
nông lâm nghiệp
3.3.1. Kinh nghiệm chọn và sử dụng các
giống cây trồng, vật nuôi bản địa
Từ xa xưa, người Dao tại Bắc Mê đã sở hữu
bộ giống cây trồng vật nuôi phong phú, nó
đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nguồn
lương thực thực phẩm để duy trì sự sống cho
các hộ gia đình. Mặc dù hiện nay có nhiều
giống mới trên thị trường nhưng họ vẫn ưu tiên
sử dụng các giống bản địa. Qua điều tra thực tế
cho thấy 95% hộ dân sử dụng giống cây trồng
nông nghiệp bản địa (Lúa nương, Ngô, Đậu
tương, Sắn), 80% sử dụng giống vật nuôi bản
địa (Lợn đen, Gà, Trâu). Các giống cây, con
bản địa phù hợp với điều kiện canh tác, khí hậu
thổ nhưỡng và phong tục tập quán xã hội của
người Dao trong đó một số giống không thể
thay thế; người dân có nhiều kinh nghiệm nên
dễ dàng sản xuất.
(1) Giống lúa bản địa
Bộ giống lúa bản địa của người Dao rất
phong phú gồm 10 giống lúa nước và 6 lúa
nương, được nghiên cứu tổng hợp như sau:
Trong các giống lúa nước thì các giống
được sử dụng nhiều nhất là: giống Bèo đăng có
81% số hộ sử dụng, Bèo cháp có 78% số hộ sử
dụng và Khăng mằn 58% số hộ sử dụng. Đối
với giống lúa nương, giống Bèo saim zàu, Bèo
lờ khụ gỗ là hai giống được trồng nhiều nhất
với 78% hộ gia đình đang sử dụng. Đặc điểm
nổi trội của các giống lúa bản địa này là có khả
năng chịu hạn cao, kháng bệnh tốt, sinh trưởng
tốt trong điều kiện môi trường bất lợi, ít tốn
công chăm sóc, gạo rất ngon, dễ bảo quản và
đã được trồng lâu đời tại địa phương.
Về khả năng thích ứng BĐKH của giống lúa
được ghi nhận thông qua các đặc điểm sau đây:
+ Khả năng thích ứng với điều kiện môi
trường và chống chịu sâu bệnh vượt trội so với
các giống nhập ngoại.
+ Giống lúa bản địa chống chịu hạn tốt,
năng suất ổn định, ít sâu bệnh, chịu được mưa
gió to, phù hợp với điều kiện tự nhiên, môi
trường và khí hậu của địa phương hơn so với
các giống lúa nhập vào địa phương. Các giống
lúa nương có thể chịu hạn rất tốt trong từ 15
đến 20 ngày trời nắng nóng không có mưa mà
cây vẫn không bị chết.
Khả năng chống chịu sâu bệnh tốt, ít bị đổ
khi có mưa gió to.
Ngoài ra các giống lúa bản địa có hạt gạo dài
có màu vàng trong đẹp, cơm dẻo, thơm ngon,
năng suất cao, bảo quản trong thời gian 2 năm
mà gạo vẫn giữ được phẩm chất thơm ngon.
Bên cạnh ý nghĩa về mặt kinh tế, gạo nương
được coi là lương thực truyền thống không thể
thiếu trong các dịp lễ, tết của người Dao, thể
hiện nét văn hoá đặc trưng của cộng đồng này.
Do vậy bảo tồn các giống lúa bản địa của
cộng đồng người Dao vừa có ý nghĩa về mặt
sinh kế, thích ứng biến đổi khí hậu và giá trị về
văn hóa, xã hội
(2) Giống Ngô bản địa
Bộ giống ngô bản địa của người Dao gồm
10 giống (5 giống ngô tẻ và 5 giống ngô nếp).
Cây ngô bản địa như Ngô tẻ vàng, Ngô tẻ trắng
(tiếng Dao bản địa là “Mệ trị vìang, Mệ trị pẹ”)
có những đặc điểm vượt trội hơn so với các
giống ngô mới trên thị trường: phù hợp với
điều kiện tự nhiên, thổ nhưỡng khí hậu nên
sinh trưởng tốt, khả năng kháng sâu bệnh tốt.
Đặc điểm thích ứng BĐKH của giống ngô
bản địa là tính chống chịu tốt. Cây có thể sinh
trưởng phát triển tốt trong điều kiện khô hạn dài
ngày, nắng nóng kéo dài hoặc nhiệt độ xuống
thấp 50C đến 70C. Cây khỏe, thân cứng, tỷ lệ bị
gẫy đổ do mưa bão thấp, không đòi hỏi nhiều
công chăm sóc.
Một đặc điểm vượt trội của ngô bản địa so
với ngô lai, được người dân quan tâm là bắp có
cấu tạo như “chao đèn” nên có thể để trên
nương thời gian dài, thu hoạch muộn mà hạt
không bị hỏng mốc. Sản phẩm sau thu hoạch
dễ bảo quản, không bị mối mọt.
Ngoài ra xét về phương diện xã hội, với
cộng đồng người Dao, cây Ngô bản địa và các
thực phẩm làm từ Ngô còn gắn liền với tập
quán văn hóa, đời sống tín ngưỡng của cộng
đồng. Ngô là một phần lương thực không thể
Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1 - 2020 99
thiếu của người dân, với các món ăn truyền
thống gắn liền với đời sống và các lễ hội như
mèn mén, cơm ngô, bánh ngô...
(3) Giống cây lâm nghiệp
Các cây trồng lâm nghiệp được người Dao
sử dụng gồm: Mỡ, Sa mộc, Xoan Đây là
những cây bản địa, sinh trưởng tốt, phù hợp
với điều kiện lập địa của địa phương. Trong đó
Mỡ (tiếng Dao bản địa là “Tờ nòm”) được
người dân trồng phổ biến với 75% hộ trồng, là
cây trồng rừng và là thành phần quan trọng
trong các mô hình nông lâm kết hợp tại điểm
nghiên cứu. Cây Mỡ có tốc độ sinh trưởng
nhanh, thân thẳng, ít sâu bệnh, gỗ tốt, ít bị gẫy
đổ, chống chịu tốt với điều kiện nhiệt độ thấp.
(4) Giống vật nuôi
Sử dụng giống vật nuôi bản địa vẫn là lựa
chọn chính của người Dao tại Bắc Mê. Người
dân có các giống bản địa như: lợn mán, gà đen,
trâu, bò, dê Các giống bản địa phù hợp với
điều kiện chăn nuôi của nông hộ, quy mô
chuồng trại và kinh nghiệm người dân. Đây là
những giống có sức đề kháng tốt, ít bị dịch
bệnh. Chất lượng thịt được đánh giá thơm
ngon, phù hợp với nhiều món ăn truyền thống
và kinh nghiệm bảo quản thực phẩm của người
dân. Hiện nay, mặc dù có giống mới cải tiến có
thể cho năng suất cao hơn nhưng không có các
phẩm chất tốt như giống bản địa nên người dân
vẫn ưu tiên lựa chọn các vật nuôi bản địa. Kết
quả điều tra cho thấy giống bản địa được sử
dụng với tỷ lệ cao (84% số hộ nuôi Gà, 76%
hộ nuôi Lợn, 72% hộ nuôi Trâu bản địa).
Hình 3. Tình hình sử dụng giống vật nuôi bản địa của người Dao ở xã Đường Hồng
3.3.2. Kinh nghiệm dự báo thời tiết
Cộng đồng người Dao ở Bắc Mê có nhiều
kinh nghiệm dự báo, dự đoán thời tiết. Những
kiến thức này được đúc kết từ quá trình sống,
lao động và thực hành sản xuất. Nó có vai trò
vô cùng lớn đối với đời sống và sản xuất của
người dân nơi đây. Hầu hết kinh nghiệm này
dựa vào sự thay đổi về môi trường, cây cối,
hoa màu, hành vi của một số loài. Các kinh
nghiệm này giúp giảm tình trạng dễ bị tổn
thương tại cộng đồng do BĐKH gây ra, đồng
thời cung cấp thêm các giải pháp, lựa chọn
thích ứng với BĐKH cấp địa phương.
Những tri thức bản địa trong dự đoán dự
báo hiện tượng thời tiết cực đoan được tổng
hợp ở bảng dưới đây. Đây được coi là cơ sở
quan trọng để người dân nơi đây lên kế hoạch
sản xuất, bố trí mùa vụ, chuẩn bị ứng phó với
các hiện tượng bất lợi. Trong bối cảnh BĐKH,
các tri thức bản địa cần có sự kết hợp kiến thức
khoa học về BĐKH, đồng thời các kiến thức
này nên được lồng ghép đưa vào các chương
trình ứng phó với BĐKH.
18
6
7
5
6
19
17
6
5
2
21
8
20
0
5
10
15
20
25
Ngồng
búa
Ngồng
manh
Ngồng
pẹ
Ngồng
vìang
pẹ mìu
Ngồng
vìang
tráng
Phài
puôn
túng
Tùng
puôn
túng
Phài
puôn
zùng
Tùng
puôn
zùng
Zùng
nòm
tốp
Tùng
puôn
che
Phài
puôn
che
Che ò
nhụt
Trâu Bò Lợn Dê gà
Đơn vị tính: hộ
Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường
100 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1- 2020
Bảng 3. Tri thức bản địa trong việc dự đoán các hiện tượng thời tiết cực đoan
STT Dấu hiệu nhận biết Thời tiết cực đoan
1
Khi thấy nấm mối mọc nhiều, măng mọc sớm, khi thấy con
cóc kêu, Ong bò vẽ làm tổ thấp, cây nhãn sai quả...
Mưa to, có lũ, mưa đá
2 Các cây họ tre trúc có hoa nở,
Dịch bệnh, côn trùng phá hoại
mùa màng
3 Măng mọc muộn, hoa đào nở sớm, hoa mận mọc sớm Nắng nóng kéo dài, khô hạn
4
Cua bò lên núi, kiến đắp thành tổ to, khi ve kêu, con dế
ruỗi kêu
Sắp có lũ lớn
5 Khi xuất đám mây đen vào buổi sáng, Sắp có bão lớn
6 Nếu năm nào nhìn thấy cây bon bo sai quả từ đầu đến cuối Chắc chắn năm đó sẽ có mưa lớn
7 Khi ve kêu, con dế trũi kêu Báo hiệu chuyển mùa
8 Rêu mọc ở đá suối bong ra, nổi lên nhiều thành từng đám Sắp có lũ lớn
9
Cây cọ càng sai quả và quả càng xanh thì dự báo càng
rét đậm
Dự báo càng rét đậm
(Nguồn: Tổng hợp thông tin điều tra, phỏng vấn)
3.3.3. Kinh nghiệm điều chỉnh hệ thống cây trồng
Qua quá trình điều tra, phỏng vấn 36 hộ gia
đình tại 2 thôn Khuổi Hon và Tiến Minh cho
thấy trong 10 năm trở lại đây (từ năm 2009
đến 2019) đã có sự thay đổi lớn về hệ thống
cây trồng vật nuôi trong các mô hình sử dụng
đất. Sự thay đổi này một phần để phát huy
tiềm năng điều kiện tự nhiên, phù hợp xu
hướng phát triển kinh tế nhưng bên cạnh đó đã
thể hiện sự thích ứng với điều kiện thời tiết khí
hậu tại địa phương. Để thích ứng với diễn biến
phức tạp của khí hậu, thời tiết, việc thay đổi hệ
thống cây trồng là điều rất cần thiết.
Hình 4, hình 5 và các phân tích dưới đây
cho thấy sự chuyển đổi cây trồng từ độc canh
sang đa dạng thành phần loài trên các loại hình
sử dụng đất chính của địa phương.
Hình 4. Hệ thống cây trồng trước năm 2009 của người Dao xã Đường Hồng
36.0 36.0 36.0
33.0
31.0
32.0
33.0
34.0
35.0
36.0
37.0
Nương rẫy độc
canh (ngô, sắn,
lúa)
Ruộng bậc thang
độc canh
Vườn tạp Rừng
ĐV tính: hộ
Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1 - 2020 101
Hình 5. Hệ thống cây trồng hiện nay (2019) của người Dao ở xã Đường Hồng
So sánh về hệ thống cây trồng tại địa
phương trong 10 năm qua có thể thấy có sự
thay đổi đáng kể. Trước năm 2009 hầu hết các
hộ gia đình sản xuất trên 4 mô hình sử dụng
đất với thành phần loài đơn giản gồm: Nương
rẫy độc canh (lúa, ngô, sắn), Ruộng bậc thang
độc canh (lúa), Vườn tạp, Rừng thuần loài.
Nhưng đến nay, tại xã Đường Hồng hiện có 4
hệ thống canh tác chính với 12 mô hình sử
dụng đất. Các mô hình sử dụng đất được xây
dựng nhằm đa dạng về hệ thống cây trồng vật
nuôi trong các hệ thống canh tác, góp phần tạo
sinh kế, cải thiện và duy trì các hệ sinh thái,
tăng cường khả năng thích ứng với BĐKH,
giảm tính dễ bị tổn thương tại cộng đồng.
3.3.3. Kinh nghiệm trong canh tác của người dân
Song song với việc hình thành các mô hình
sử dụng đất thích ứng, người Dao tại điểm
nghiên cứu đã và đang áp dụng nhiều kinh
nghiệm truyền thống có hiệu quả trong sản
xuất nông lâm nghiệp. Các kỹ thuật bản địa
này được hình thành và tích lũy thông qua quá
trình lao động, thực hành sản xuất. Kết quả
tổng hợp ở bảng 4.
Bảng 4. Tổng hợp kinh nghiệm trong canh tác của người Dao
STT Kinh nghiệm canh tác Mục đích
1 Trồng cây theo đường đồng mức
Giảm xói mòn đất, cây sinh trưởng phát triển tốt hơn. Cây lâm
nghiệp được trồng thành băng có thể chắn gió
2
Trồng các loại cây lâm nghiệp (tre, mai,
hóp, quế, mỡ, sa mộc) thành băng đai
quanh khu vực sản xuất
Chắn gió, bảo vệ cây trồng nông nghiệp và khu vực sản xuất.
Bảo vệ đất, chống xói mòn, sạt lở.
3
Làm ruộng bậc thang, tiểu bậc thang để
trồng cây hoa màu
Mở rộng diện tích đất trồng cây nông nghiệp
Giảm xói mòn, rửa trôi, giữ nước vào mùa khô
Thuận lợi chăm sóc cây trồng
4
Trồng cỏ, cây hoa màu ở mép ruộng bậc
thang
Gia cố bờ ruộng, giảm sự thoát nước ở các bậc thềm, giữ nước,
chống khô hạn
5 Xếp đá thành đường đồng mức Giảm xói mòn, rửa trôi, mất dinh dưỡng đất
6 Che tủ gốc bằng thân, cành cây, cỏ Duy trì độ ẩm đất, giảm cỏ dại
7
Trồng xen canh nhiều loại cây trên mô hình
sử dụng đất
Thu được nhiều sản phẩm, giảm công làm cỏ, đất ít bị xói mòn
8
Để lại thân cây (lúa, ngô, đậu,..) trên nương
sau thu hoạch
Đất được che phủ khi chưa trồng vụ mới, giảm xói mòn, ngoài
ra bổ sung chất hữu cơ cho đất.
9
Rắc tro bếp hoặc che phủ gốc cây bằng rơm
ra khi nhiệt độ thấp
Bảo vệ cây trồng khi nhiệt độ xuống thấp
10 Điều chỉnh lịch mùa vụ cây trồng, vật nuôi Giảm tác động bất lợi của khí hậu, thời tiết đến cây trồng, vật nuôi.
12
Nuôi cá, ốc đá trong ruộng bậc thang (mô
hình Lúa – cá - ốc đá)
Tăng thêm thu nhập, giảm công làm cỏ, lúa ít sâu bệnh, cho
năng suất ổn định
13
Trồng lúa nương, vừng trong giai đoạn đầu
trồng rừng Mỡ (mô hình (Mỡ + lúa nương +
vừng)
Năng suất cây hoa màu (lúa, vừng) ổn định. Mỡ sinh trưởng
tốt, giảm công làm cỏ, chăm sóc.
10
9
8
14
14
11
10
17
10
8
15
12
0 2 4 6 8 10 12 14 16 18
Cây mỡ+ lúa nương+ vừng
Lúa nương độc canh
Ngô độc canh
Lúa+ cá + ốc đá
Lúa độc canh
Ngô+ đậu tương
Cây ăn quả+ gà+ xả
Cây ăn quả độc canh
Cây ăn quả+ gà
Cây LN + cây NN ( sắn, ngô, cỏ
Cây LN+ chăm nuôi( trâu, bò, lợn)
Cây LN độc canh
N
ư
ơ
n
g
r
ẫy
R
u
ộn
g
b
ậc
th
an
g
Đ
ất
v
ư
ờ
n
n
h
à
Đ
ất
v
ư
ờ
n
rừ
n
g
ĐV tính: hộ
Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường
102 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1- 2020
4. KẾT LUẬN
- Thời tiết, khí hậu tại huyện Bắc Mê, tỉnh Hà
Giang giai đoạn từ năm 1998 - 2019 có xu hướng
tăng nhiệt độ, lượng mưa giảm, không theo quy
luật, gây nhiều bất lợi đối với sản xuất nông lâm
nghiệp. Nghiên cứu đã thống kê được các hiện
tượng thời tiết cực đoạn và lịch sử thiên tai; hình
thức và mức độ tác động đến các loại cây trồng,
vật nuôi tại điểm nghiên cứu; làm giảm năng suất
cây trồng 25% - 70%, vật nuôi bị bệnh hoặc chết,
cây lâm nghiệp bị gãy đổ nhiều hơn.
- Bộ giống bản địa của người Dao rất phong
phú, có nhiều đặc điểm về khả năng thích ứng
với BĐKH, như: cây trồng chống chịu với khô
hạn, kháng bệnh tốt, ít sâu bệnh, khó bị gãy đổ;
vật nuôi kháng bệnh tốt hơn, tỷ lệ tử vong thấp
khi có dịch bệnh xảy ra. Chất lượng thực phẩm
thơm ngon và có hương vị đặc trưng, được đa
số người dân ưu tiên sử dụng trong sản xuất
(75% người dân sử dụng cây trồng nông nghiệp;
72 - 84% người dân sử dụng giống vật nuôi).
- Kinh nghiệm trong dự báo thời tiết thông
qua dấu hiệu nhận biết từ các hiện tượng tự nhiên
và môi trường sống đã giúp người dân có những
đề phòng và phản ứng hiệu quả trước tự nhiên;
giúp giảm tình trạng dễ bị tổn thương tại cộng
đồng do BĐKH gây ra, đồng thời cung cấp thêm
các giải pháp, lựa chọn thích ứng với BĐKH.
- Hệ thống cây trồng vật nuôi được chuyển
dịch từ độc canh (thích ứng thấp) sang đa canh
(mô hình nông lâm kết hợp) trên cơ sở kết hợp
cùng các kinh nghiệm canh tác truyền thống đã
đem lại nhiều hiệu quả trong canh tác bền vững
và tăng cường tính thích ứng của các mô hình
sử dụng đất.
- Các tri thức bản địa trong sản xuất nông
nghiệp thích ứng với BĐKH của người Dao có
ý nghĩa quan trọng; góp phần tạo sinh kế, cải
thiện và duy trì hệ sinh thái, tăng cường khả
năng thích ứng, giảm tính dễ bị tổn thương tại
cộng đồng; là giải pháp bền vững ở cấp cộng
đồng ứng phó với biến đổi khí hậu. Việc vận
dụng tri thức bản địa và tích hợp vào các
chương trình thích ứng là chìa khóa thành công
cho phát triển sinh kế bền vững tại cộng đồng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ADC (2013), Báo cáo nghiên cứu Kiến thức bản
địa thích ứng với Biến đổi khí hậu.
2. Bộ tài nguyên môi trường (2007), Chương trình
mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu.
3. CARE & Trung tâm nghiên cứu phát triển nông
lâm nghiệp miền núi (2014), Tài liệu hướng dẫn: Xác
định và sử dụng tri thức bản địa trong thích ứng với
biến đổi khí hậu dựa vào cộng đồng.
4. Trương Quang Học, Hoàng Thị Ngọc Hà, Vũ Thị
Bích Hợp (2019), Các tổ chức xã hội và kế hoạch Quốc
gia thích ứng biến đổi khí hậu, Tài liệu dự án Tăng cường
vai trò của các tổ chức xã hội vào quá trình xây dựng kế
hoạch quốc gia về thích ứng với biến đổi khí hậu.
5. Ủy ban nhân dân xã Đường Hồng (2018), Báo cáo tổng
kết tình hình sản xuất năm 2018 và phương hướng năm 2019.
6. Đồng Thị Thanh (2019), Đề xuất giải pháp phát
triển mô hình sản xuất nông lâm nghiệp thích ứng với
biến đổi khí hậu tại huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang, Báo
cáo đề tài cơ sở, Trường Đại học Lâm nghiệp.
7. Viện kinh tế sinh thái (2000), Sổ tay lưu giữ và
sử dụng kiến thức bản địa, NXB nông nghiệp Hà Nội.
INDIGENOUS KNOWLEDGE IN AGRO-FORESTRY ADAPTING TO CLIMATE
CHANGE OF DAO PEOPLE IN BAC ME DISTRICT, HA GIANG PROVINCE
Dong Thi Thanh1, Nguyen Thị Bich1, Nguyen Ba Long1, Hoang Can Duong1
1Vietnam National University of Forestry
SUMMARY
Indigenous knowledge is the vehicle through which the principles of beliefs, indigenous worldviews, and institutions are transmitted
practice. Indigenous knowledge is just as important as scientific knowledge base approach for climate change adaptation. Besides
indigenous knowledge is the basis for local level decision-making in climate change adaptation strategies. In this paper, focusing on Dao’s
Indigenous knowledge to adapt to a changing climate of Dao ethnic group in the agricultural and forest production in a rural district of Bac
Me, Ha Giang province. Through many years of observation and experimentation, the Dao people have accumulated indigenous
knowledge, developed complex farming systems, cultural practices, and a knowledge base well-suited to their environments. Data for this
study was collected such as: surveys, interviews, and focus group discussions to gather indigenous knowledge on native crop varieties and
animal breeds, weather forecasting, cultivation practices. This paper established that warming temperatures increased and declining rainfall
trends during the period 1998–2019, but not following the rules, causing many disadvantages to production. Extreme weather events such
as flash floods, hail, storms, extreme cold and prolonged heat have seriously affected crops and livestock. The Dao community have
applied indigenous knowledge in the context of climate change including: including using indigenous plant and animal breeds; experience
in extreme weather forecast; experience in adjusting crop systems; farming experience. These indigenous knowledge plays an important
role contributing to the improvement and maintenance of ecosystem services, enhancing climate change resilience and reducing
vulnerability in the community. Need for integrating indigenous knowledge systems into adaptation programmes.
Keywords: Agricultural and forest, climate change, Dao ethnic group, indigenous knowledge.
Ngày nhận bài : 23/12/2019
Ngày phản biện : 17/02/2020
Ngày quyết định đăng : 24/02/2020
Các file đính kèm theo tài liệu này:
tri_thuc_ban_dia_trong_nong_lam_nghiep_thich_ung_voi_bien_do.pdf