Tri thức bản địa và bảo vệ nguồn tài nguyên rừng

Tri thức bản địa và bảo vệ nguồn tài nguyên rừng Trong những thập kỷ gần đây, khái niệm của sự phát triển đã tiến triển qua nhiều giai đoạn, từ việc chú trọng vào tăng trưởng kinh tế, đến tăng trưởng với sự công bằng, thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, sự tham gia đến phát triển bền vững (Bates, 1998; Black, 1993; Hobart, 1993; Watts, 1993). Một thời kỳ dài, khái niệm phát triển gần như chú trọng đến các tiêu chí về công nghiệp, khoa học công nghệ, kinh tế .v.v. khoa học hiện đại, phát triển trên cơ sở khoa học hàn lâm được phân tích trên cơ sở hệ sinh thái tự nhiên. Trong khi đó, như đã trình bày ở mục trên, hệ sinh thái nhân văn đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển xã hội. Hệ xã hội trong hệ sinh thái nhân văn được coi như một phần quan trọng trong phép phân tích hệ thống. Tri thức bản địa là hệ thống thông tin làm cơ sở của một hệ thống xã hội, được làm thuận tiện trong sự truyền đạt thông tin và ra quyết định. Hệ thống thông tin bản địa là động lực và sự tác động liên tục bởi sự sáng tạo từ nội lực, sự thực nghiệm, cũng như sự giao diện với hệ thống bên ngoài (Flavier và ctv. 1995).

doc22 trang | Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 3101 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tri thức bản địa và bảo vệ nguồn tài nguyên rừng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 4 CÁC LUẬT TỤC CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN RỪNG 4.1. Tri thức bản địa và quản lý tài nguyên rừng 4.1.1. Khái niệm về tri thức bản địa và bảo vệ tài nguyên rừng Trong những thập kỷ gần đây, khái niệm của sự phát triển đã tiến triển qua nhiều giai đoạn, từ việc chú trọng vào tăng trưởng kinh tế, đến tăng trưởng với sự công bằng, thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, sự tham gia đến phát triển bền vững (Bates, 1998; Black, 1993; Hobart, 1993; Watts, 1993). Một thời kỳ dài, khái niệm phát triển gần như chú trọng đến các tiêu chí về công nghiệp, khoa học công nghệ, kinh tế .v.v. khoa học hiện đại, phát triển trên cơ sở khoa học hàn lâm được phân tích trên cơ sở hệ sinh thái tự nhiên. Trong khi đó, như đã trình bày ở mục trên, hệ sinh thái nhân văn đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển xã hội. Hệ xã hội trong hệ sinh thái nhân văn được coi như một phần quan trọng trong phép phân tích hệ thống. Tri thức bản địa là hệ thống thông tin làm cơ sở của một hệ thống xã hội, được làm thuận tiện trong sự truyền đạt thông tin và ra quyết định. Hệ thống thông tin bản địa là động lực và sự tác động liên tục bởi sự sáng tạo từ nội lực, sự thực nghiệm, cũng như sự giao diện với hệ thống bên ngoài (Flavier và ctv. 1995). Tri thức bản địa, nói một cách rộng rãi là tri thức được sử dụng bởi những người dân địa phương trong cuộc sống của một môi trường nhất định (Langil và Landon, 1998). Như vậy, tri thức bản địa có thể bao gồm môi trường truyền thống, tri thức sinh thái, tri thức nông thôn và tri thức địa phương... . Theo Johnson, 1992, tri thức bản địa là nhóm tri thức được tạo ra bởi một nhóm người qua nhiều thế hệ sống và quan hệ chặt chẻ với thiên nhiên trong một vùng nhất định. Nói một cách khái quát, tri thức bản địa là những tri thức được rút ra từ môi trường địa phương, vì vậy nó gắn liền với nhu cầu của con người và đIều kiện địa phương (Langil và Landon, 1998). Theo Warren, 1991, tri thức bản địa là tri thức địa phương – dạng kiến thức duy nhất cho một nền văn hóa hay một xã hội nhất định. Đây là kiến thức cơ bản cho việc ra quyết định ở mức địa phương về nông nghiệp, chăm sóc sức khỏe, chế biến thức ăn, giáo dục, quản lý tài nguyên thiên nhiên, và các hoạt động chủ yếu của cộng đồng nông thôn. Khác với tri thức bản địa hệ thống tri thức hàn lâm thường được xây dựng từ các Trường đại học, Viện nghiên cứu. Ngày nay, tri thức bản địa được xem như là  một trong những vấn đề then chốt trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên bền vững và sự cân bằng trong phát triển (Brokensha và ctv., 1980; Compton, 1989; Gupta, 1992; Niamir, 1990; Warren, 1991a).  Tri thức bản địa là tri thức của cộng đồng cư dân trong một cộng đồng nhất định phát triển vượt thời gian và liên tục phát triển (IIRR, 1999). Tri thức bản địa được hình thành dựa vào kinh nghiệm, thường xuyên kiểm nghiệm trong quá trình sử dụng, thích hợp với văn hóa và môi trường địa phương, năng động và biến đổi. Các khái niệm về tri thức bản địa (local indigenous knowledge) hàm ý không chỉ là  phần cứng hay ảnh hưởng và ứng dụng của kỹ thuật như chăm sóc sức khỏe gia súc, mà còn có phần mềm, đó là các hệ thống quản lý gia súc và cấu trúc xã hội, cấu trúc nhóm đã tạo nên chúng (Mathias-Mundy và McCorkle, 1992).  Tóm lại, tri thức bản địa là những nhận thức, những hiểu biết về môi trường sinh sống được hình thành từ cộng đồng dân cư ở một nơi cư trú nhất định trong lịch sử tồn tại và phát triển của cộng đồng (Nguyễn Thanh Thự, Hồ Đắc Thái Hoàng, 2000). Đặc điểm của hai hệ thống kiến thức hiện hành được mô tả và thảo luận trong Bảng 1. Về mặt ngữ nghĩa trong nghiên cứu hiện tượng, tri thức hàn lâm được nghiên cứu chính thống về mặt thời gian có thể ngắn hoặc dài nhưng dựa trên hệ thống kiến thức mang tính kế thừa, được kết luận thông qua quá trình thí nghiệm hoàn chỉnh. Hệ thống tri thức bản địa mang tính tổng quát, được rút ra từ sự quan sát ghi nhận, phân tích theo tính tự phát. Thí nghiệm phi chính quy thường được thực hiện với thời gian dài. Theo tính chất sử dụng tài nguyên và đầu ra của hệ thống, tri thức bản địa thường chú trọng vào tiềm năng địa phương và sản xuất theo công thức “đầu tư thấp-năng suất thấp”. Bảng 4.1: Đặc điểm của hệ thống kiến thức hiện hành  Nguồn: DeWalt, 1994. 4.1.2. Ý nghĩa của tri thức bản địa Tri thức bản địa là nhấn mạnh  cho tính tự cung, tự quyết với nhiều lý do trong đó hai lý do chính được mô tả như sau: 1.   Con người quen thuộc với thực tiễn và kỹ thuật địa phương. Họ có thể hiểu, nắm vững nó, duy trì chúng dễ hơn việc học tập và thực hành các tri thức mới được cung cấp bởi những người ngoài xa lạ và xa xôi, không phù hợp với điều kiện tự nhiên địa phương. 2.   Tri thức bản địa được hình thành trên nguồn tài nguyên địa phương, người dân có thể ít phụ thuộc vào nguồn cung cấp từ bên ngoài-có thế đắt tiền và không phù hợp với họ. Theo Mundy và Compton, 1992, tri thức bản địa thường có thể được cung cấp rẻ tiền, giải quyết được các vấn đề mang tính địa phương nhằm nâng cao sức sản xuất và mức sống. Tri thức bản địa có giá trị và ảnh hưởng lớn đến hệ thống quản lý tài nguyên thiên nhiên đặc biệt là tài nguyên rừng với các cộng đồng dân tộc miền núi vì vậy có thể coi như là cơ sở và là nguồn tiềm năng chính của việc quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên địa phương (Boonto, 1992). Vì vậy, tri thức bản địa phải được coi là một nguồn tài nguyên quý giá và quan trọng của từng địa phương và của đất nước (Hoàng Xuân Tý, 1998). 4.1.3. Các loại hình tri thức bản địa Theo IIRR, 1999, tri thức bản địa có thể phân ra các loại hình như sau: - Thông tin: Hệ thống thông tin về cây cỏ, thực vật có thể được trồng trọt hay canh tác tốt cùng tồn tại với nhau trên cùng một diện tích canh tác nhất định hay những chỉ số về thực vật. Các câu chuyện, thông điệp được truyền lại bằng các vết đục, chạm khắc hay viết trên các thẻ trúc (Trung quốc, Việt nam, Thái lan...), các dạng lưu truyền dân gian, hệ thống trao đổi thông tin truyền thống. - Thực tiễn và kỹ thuật: Tri thức bản địa bao gồm kỹ thuật về trồng trọt và chăn nuôi, và phương pháp lưu trữ giống, chế biến thức ăn, kỹ năng chữa bệnh cho người và gia súc, gia cầm. - Tín ngưỡng: Tín ngưỡng có thể đóng vai trò cơ bản trong sinh kế, chăm sóc sức khỏe và quản lý môi trường của con người. Những cánh rừng thiêng (rừng ma) được bảo vệ với những lý do tôn giáo. Những lý do này có thể duy trì những lưu vực rộng lớn đầy sức sống. Những lễ hội tôn giáo có thể là cơ hội bổ sung thực phẩm, dinh dưỡng cho những cư dân địa phương khi mà khẩu phần thường nhật của họ là rất ít ỏi. - Công cụ: Tri thức bản địa được thể hiện ở những công cụ lao động trang bị cho canh tác và thu hoạch mùa màng. Công cụ nấu nướng cũng như sự thực hiện các hoạt động đi kèm. - Vật liệu: Tri thức bản địa được thể hiện với vật liệu xây dựng, vật liệu làm đồ gia dụng cũng như tiểu thủ công nghiệp truyền thống. - Kinh nghiệm: Người nông dân thường tích lũy kinh nghiệm trong quá trình canh tác, giới thiệu các nguyên liệu giống mới cho hệ thống canh tác đặc hữu. Nhiều kết quả chữa bệnh đặc biệt được tích lũy qua kinh nghiệm sử dụng nguồi thực vật địa phương. - Tài nguyên sinh học: Tri thức bản địa được thể hiện thông qua quá trình chọn giống vật nuôi và các loại cây trồng. - Tài nguyên nhân lưc: Nhiều chuyên gia có chuyên môn cao như thầy lang, thợ rèn ... có thể coi như đại diện của dạng tri thức bản địa. Tri thức bản địa trong dạng này có thể thấy ở các tổ chức địa phương như nhóm họ tộc, hội đồng già làng trưởng tộc, các nhóm tổ chia sẻ hoặc đổi công. - Giáo dục: Phương pháp truyền thụ kiến thức truyền thống, cách truyền nghề cho các thợ học việc, học hỏi thông qua sự quan sát và những thực nghiệm, thực hành tại chỗ. 4.1.4. Nguồn cung cấp và mối quan hệ của nguồn và tri thức bản địa  Không phải tất cả mọi người trong cộng đồng có cùng chung và giống nhau về tri thức kỹ thuật bản địa (Swift, 1979). Thông thường những người già cả có khi thức phong phú hơn người trẻ tuổi (IIRR, 1999). Tuy nhiên trong thực tế các thành phần khác nhau của xã hội có thể biết những tri thức khác nhau và được phân biệt với các dạng, giới tính, nghề nghiệp, tuổi tác, trình độ văn hóa... Tri thức thông thường, phổ biến thì được mọi giới mọi loại người biết được ví dụ cách nấu cơm, hay làm thức ăn thông thường đơn giản. Tuy nhiên đối với những tri thức đặc hữu, sự chia sẻ kiến thức không được phổ cập mà chỉ cho một vài giới hay người trong cộng đồng. Ví dụ: Những trẻ chăn thả gia súc thường có nhiều kinh nghiệm về chăm sóc gia súc hơn những trẻ khác. Một số bài thuốc chữa bệnh được truyền lại cho trưởng nam (người Kinh và người các dân tộc thiểu số Trung bộ) hoặc trong phạm vi những người con gái trong gia đình (Người Thái ở Sơn la và Nghệ an). Vài ngành nghề truyền thống được truyền lại chặt chẻ hơn nữa chỉ dành cho một số rất ít người nhằm duy trì nghề nghiệp và bí mật nghề nghiệp.   Các dạng tri thức có quan hệ đến tuổi tác, giới tính, trình độ văn hóa, phân bố lao động trong gia đình hay trong cộng đồng, nghề nghiệp, môI trường, địa vị xã hội, kinh nghiệm, lịch sử... (IIRR, 1999; Swift, 1979). Phân bố tri thức bản địa theo các kiểu trên đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển công việc với tối ưu hóa trong kết quả và hiệu suất công việc. Có thể thấy 5 dạng người đóng vai trò truyền thông và lưu trữ tri thức trong cộng đồng (Mundy và Compton, 1992), được thống kê sau: i.                        Các chuyên gia địa phương (Indigenous experts)- các chuyên gia địa phương hay theo cách gọi của McCorkle và ctv (1988) là những nhà thông thái địa phương có tầm hiểu biết rộng rãi, thường được thỉnh cầu ý kiến bởi cộng đồng cư dân địa phương, cả 2 giới đều có thể có những đại diện này trong kết quả điều tra của Norem và ctv (1988). ii.   Các nhà chuyên nghiệp địa phương (Indigenous professionals) là một dạng đặc biệt của các chuyên gia địa phương, những người này có kiến thức không rộng rãi và thông thái trong cộng đồng nhưng những gì họ biết là nhóm kiến thức được giữ bí mật với những người khác trong cộng đồng như là thầy lang, thầy phù thủy,  thợ rèn, thợ sơn tràng. iii.  Nhà cải cách (Innovator)- người hiểu biết thuộc nhóm này có thể phát triển ý tưởng bởi chính họ, hoặc giới thiệu ý tưởng đã được quan sát sâu sắc cho cộng đồng thử nghiệm, họ cúng có thể là người giới thiệu ý tưởng ngoại lai vào cộng đồng. iv. Người trung gian (Intermediary)- là nhóm người chuyển giao thông tin từ nơi này đến nơi khác và giới thiệu ý tưởng thử nghiệm cho cộng đồng cư dân địa phương, nhóm thông tin này có thể trở thành tri thức bản địa theo sự thử nghiệm và điều chỉnh theo điều kiện lập địa của địa phương. v.   Người dễ tiếp nhận (Recipient-disseminator)- là những người dễ tiếp nhận nhóm tri thức ngoại lai hoặc tự nghiên cứu thử nghiệm nhằm tạo nhóm tri thức bản địa theo thời gian.   4.1.5. Đặc trưng của tri thức bản địa Tri thức bản địa có những đặc trưng sau: 1.   Đa Tri thức bản địa được hình thành và biến đổi liên tục qua các thế hệ trong một cộng đồng địa phương nhất định 2.   Tri thức bản địa có khả năng thích ứng cao với môi trường riêng của từng địa phương, nơi đã hình thành và phát triển tri thức đó. 3.   Tri thức bản địa rất đơn giản, chi phí thấp và bền vững đối với điều kiện tự nhiên địa phương (Wongsamun, 1992; Hoàng Xuân Tý, 1998b)  4.    Tri thức bản địa do toàn thể cộng đồng trực tiếp sáng tạo ra qua lao động trực tiếp 5.   Tri thức bản địa không được ghi chép bằng văn bản cụ thể (Mundy và Compton, 1992) mà được lưu giữ bằng trí nhớ và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, thơ ca, hò vè, tế lễ và nhiều tập tục khác nhau (thông qua các hình thức văn hóa đặc trưng mang tính địa phương). 6.   Tri thức bản địa luôn gắn liền và hòa hợp với nền văn hóa, tập tục địa phương 7.   Tri thức bản địa có giá trị cao trong việc xây dựng các mô hình phát triển nông thôn bền vững. 8.   Tính dạng của tri thức bản địa rất cao Theo Boonto (1992), tri thức bản địa của người dân tộc Karen vùng Tam giác vàng trong bảo vệ tài nguyên thiên nhiên có 3 đặc trưng là i. Ảnh hưởng của các tổ chức xã hội quản lý cộng đồng, ii. Luật tục và các quy ước sử dụng đất, và iii. Kỹ thuật sử dụng và bảo vệ tài nguyên của địa phương. 4.1.6. Tri thức bản địa trong quản lý tài nguyên thiên nhiên Dân số thế giới ngày càng tăng nhanh, nhu cầu của con người  cũng tăng lên mạnh mẽ theo tốc độ tăng nhanh của khoa học kỹ thuật. Người ta ở khắp nơi đã và đang khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách quá mức và nhiều vấn đề về môi trường đang được đặt ra ở cả các nước phát triển, đang phát triển và các nước nghèo. Nạn suy thoái môi trường nghiêm trọng đã buộc con người nhìn nhận lại vấn đề phát triển bền vững, và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Theo Atteh (1992), tri thức bản địa là chìa khóa cho sự phát triển ở cấp địa phương (Hoàng Xuân Tý, 1998a). Hiện nay trên thế giới có khoảng 124 nước hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu tri thức bản địa nhằm tăng tính hiệu quả trong phát triển nông thôn và quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên. Cá biệt, nhiều nước trên thế giới chú trọng khai thác dạng tài nguyên này cho các mục đích thương mại có giá trị cao ví dụ trong lĩnh vực dược học và mỹ phẩm.  Ngoài ra, ở rất nhiều nơi trên thế giới kể cả các nước phát triển và đang phát triển, tri thức bản địa đang được nghiên cứu hỗ trợ cho các nghiên cứu khoa học, làm tăng nguồn tư liệu cơ sở về môi trường, được sử dụng để đánh giá tác động của quy trình phát triển, được sử dụng như một công cụ để lựa chọn, quyết định. Vì vậy, nên phát triển nghiên cứu tri thức bản địa nhằm thu thập, lưu trữ, nâng cao sự hiểu biết các tiến trình phát triển, ứng dụng và điều chỉnh kỹ thuật của các cộng đồng cư dân địa phương (Wongsamun, 1992) Ở các nước đang phát triển, tri thức bản địa được sử dụng thường xuyên và  thường gặp trong kỹ thuật bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Nghiên cứu của Boonto (1992) cho thấy, hệ thống quản lý tài nguyên thiên nhiên của người dân tộc Karen đã và đang tác động rất lớn vào môi trường thông qua canh tác nương rẫy. Tuy nhiên kỹ thuật canh tác nương rẫy của dân tộc này cho phép họ bảo vệ và sử dụng tài nguyên, môi trường bền vững và ổn định theo thời gian. Hai lý do của kỹ thuật bảo vệ hệ thống canh tác nương rẫy: 1. Ngăn chặn sự thoái hóa đất canh tác, bảo vệ rừng và 2. Xúc tiến tái sinh tự nhiên trong quá trình bỏ hóa đất canh tác. Bảo vệ sự tác động vào diện tích rừng và tài nguyên rừng bằng cách i. Bố trí các đường ranh cản lửa nhằm ngăn chặn cháy lan khi đốt nương rẫy; ii. Tránh tác động vào rừng và thảm thực vật ở đỉnh đồi, núi nơi có bố trí đất canh tác ở sườn đồi; iii. Canh tác với luần kỳ 1 năm trồng trọt và 7 năm bỏ hóa; iv. Không đào và cắt bỏ hệ thống rễ cây khi vệ sinh nương rẫy, các gốc cây được giữ lại với chiều cao khoảng 0,4m có lợi cho tái sinh chồi trong vòng 6 tháng tới. Tại miền núi Trung Việt Nam, theo Hoàng Xuân Tý, 1998b, Người K’tu thường sử dụng các khái niệm đơn giản để phân loại đất và nhiều kinh nghiệm canh tác được phát triển theo các phân loại đất này đã mang lại hiệu quả rõ rệt cho vùng có chế độ mưa muộn, cường độ cao và tập trung. Tuy nhiên, người Thái ở Sơn La phân loại đất theo mục đích sử dụng và hệ thống phân loại đất canh tác theo địa hình chung, theo màu, bằng dao, bằng vị giác và cây chỉ thị nhằm xác định cơ cấu cây trồng thích hợp cho từng loại đất đai (Hoàng Hữu Bình, Hoàng Xuân Tý, 1998). Việc phân loại đất canh tác góp phần quan trọng trong việc sử dụng đất đai, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Các dự án quản lý tài nguyên thiên nhiên cần phát triển trên hệ thống tri thức bản địa có sẵn (Boonto, 1992), phân tích và phát triển trên cơ sở thực thi dự án có sự tham gia của cộng đồng cư dân địa phương.  Thông thường, các dự án phát triển bắt đầu với việc phát hiện vấn đề sau đó thảo luận tìm hướng giải quyết vấn đề. Ví dụ, nếu tình trạng xói mòn đất là vấn đề cần quan tâm. Vậy, bảo vệ đất đai chống xói mòn là yêu cầu cần giải quyết. Nếu nông dân cần tiền để đầu tư cho trang trại, chương trình tín dụng cần phải được trả lời. IIRR, (1999) đề nghị biểu đồ tổng kết những quyết định phải được thực thi. Có 4 bước cơ bản như sau.    Tri thức bản địa dưới góc độ tri thức kỹ thuật bản địa đóng vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển nông thôn và bảo vệ tài nguyên môi trường.  Tại Thái Lan, chỉ vài nghiên cứu về tri thức bản địa được tổ chức vào năm 1987 tại miền Đông Bắc người ta đã tìm thấy 993 tri thức kỹ thuật bản địa được sử dụng thường xuyên bởi người dân địa phương (Wongsamun, 1992). Kết quả điều tra được tổ chức tại thôn Phú mậu Tỉnh Thừa Thiên Huế, gần 200 tri thức bản địa, kiến thức dân gian được thu thập về các lĩnh vực kỹ thuật canh tác, sử dụng bền vững tài nguyên rừng. Các nhóm tri thức bản địa thường khá đơn giản, dễ dàng sử dụng đối với từng nhóm dân tộc, độ tuổi và ngành nghề nên thường có hiệu quả cao. 4.1.7. Phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu tri thức bản địa Tiếp cận tri thức bản địa cần có nhiều hiểu biết về kỹ thuật lẫn xã hội, thông thường nên sử dụng các phương pháp có người dân tham gia như PRA (Hoàng Xuân Tý, 1998), nhưng cần sử dụng rất linh hoạt, kiểm tra nhanh kết quả và kết hợp đa ngành. Có nhiều phương pháp tiếp cận tri thức bản địa vì vậy có thể lựa chọn phương pháp tiếp cận linh hoạt tùy theo đIều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của địa điểm nghiên cứu. 1.    Nhận ra chuyên gia tri thức bản địa: Là phương pháp xác định nhận diện cá nhân hiểu biết bằng phương pháp đặt câu hỏi hoặc biểu đồ hóa. 2.    Nghiên cứu trường hợp: Là phương pháp điều tra điều kiện tự nhiên hoàn chỉnh và sâu sắc một vấn đề, một hoạt động trong một điều kiện tự nhiên nhất định. 3.    Quan sát hiện trường: Quan sát ngoại mạo những hiện tượng được thực hiện hoặc có sẵn của cộng đồng cư dân dịa phương. 4.    Quan sát có sự tham gia: Là phương pháp nghiên cứu trong đó điều tra viên với cộng đồng cư dân cùng quan sát và tham gia các hoạt động thường nhật nhằm phát hiện chủ đề nghiên cứu. 5.    Phỏng vấn chuyên sâu: Là một dạng phỏng vấn trong đó các câu hỏi hoăc chủ đề được xây dựng trên cơ sở phát triển ý tưởng nhằm phát hiện sự thật và sự linh hoạt. 6.    Phân tích công nghệ có sự tham gia: Là phương pháp phân tích hệ thống mà nghiên cứu viên và người dân địa phương cùng cộng tác phân tích phát triển chi tiết công nghệ. 7.    Não công: Là phương pháp thảo luận nhóm trong đó các thành viên thực hiện não công chọn lựa ý tưởng cho một chủ đề đặc biệt. 8.    Năm câu hỏi: Là phương pháp năm bước phân tích nguyên nhân và kết quả. 9.    Trò chơi: Là dạng điều tra bằng trò chơi hoặc thể thao nhẹ nhằm phát huy ý tưởng hoặc gợi nhớ tri thức trong các tình huống cụ thể trong thời diểm cụ thể, có phát huy năng lực cá nhân. 10.    Đóng kịch: Là phương pháp diễn kịch tự phát nhằm đưa đến tình trạng cụ thể để phát huy năng lực tri thức. 11.    Thảo luận nhóm: Là phương pháp điều tra nhằm huy động sự trao đổi giám định tri thức của nhóm hiểu biết cụ thể. 12.    Phân tích ưu nhược điểm: Là phương pháp phân tích theo nhóm có sự tham gia theo chủ đề nhất định nhằm thẩm định chủ đề. 13.    Phân tích SWOT: Là phương pháp phân tích phản hồi hệ thống theo nhóm nhằm  phát hiện ưu - nhược - cơ hội và nguy cơ. 14.    So sánh lịch sử: Mô tả điều kiện kỹ thuật và hiện trạng về mặt không gian trong các giai đoạn khác nhau của địa phương về mặt thời gian. 15.    Bản đồ: Là phương pháp thu thập thông tin về hiện trạng theo đặc điểm của địa phương nhằm làm cơ sở cho phương pháp phân tích hệ thống thông tin không gian (Spatial Information System). 16.    Ma trận: Là phương pháp lập danh mục vật liệu, mô tả tính chất khai thác tri thức bằng phương pháp gợi nhớ và chứng minh. 17.    Biểu đồ lịch thời vụ: Là phương pháp mô tả đời sống, hoạt động thực tế trong khoảng thời gian một năm. 18.    Biểu đồ Venn: Là phương pháp sử dụng các vòng tròn nhỏ bằng giấy nhằm nhận định vấn đề, mối liên hệ của nhóm ý tưởng và phát triển ý tưởng (IIRR, 1999). 19.    Sắp xếp và xếp hạng: Là phương pháp dẫn dắt sắp xếp ý tưởng theo nhóm với tiêu chí cụ thể nhằm phát hiện tiêu chuẩn nghiên cứu. 20.    Phân loại: Là phương pháp phân loại, định danh nhóm chủ đề, ý tưởng và khái niệm. 21.    Đai và lưới: Là phương pháp minh họa mối quan hệ của vấn đề bằng biểu đồ, mạng lưới, đai hoặc dãi thông tin nhằm liên kết ý tưởng và nhóm ý tưởng. 22.    Tư liệu hóa thu âm: Là phương pháp phỏng vấn trực tiếp, thảo luận nhóm, hội thảo có sử dụng phương tiện thu âm. 23.    Tư liệu hóa ghi hình với sự tham gia: Sử dụng phương tiện video nhằm tư liệu hóa và phân tích hành động với sự tham gia và thảo luận của nhóm điều tra viên và cộng đồng cư dân địa phương. 24.    Tư liệu hóa lưu ảnh: Nhằm lưu kiện, minh họa, phân tích dữ liệu bằng ảnh âm bản hoặc dương bản. 4.2. Thực trạng quản lý rừng ở Việt Nam Việt Nam có 33.091.093 ha thì diện tích rừng, đất rừng và đất chưa sử dụng chiếm hơn 70%, trong đó đất chưa sử dụng đã chiếm tới 37,1% (khoảng 12 triệu ha). Điều này có nghĩa rằng mọi nỗ lực của những người hoạt động trong lĩnh vực Lâm nghiệp cho dù là của các nhà hoạch định chính sách/các nhà nghiên cứu đào tạo/các cán bộ hiện trường … đều phải quan tâm và tìm cách góp sức mình vào việc tái tạo lại rừng trên đất trống đồi núi trọc. Theo tài liệu “Kết quả tổng điều tra Nông thôn và Nông nghiệp của Tổng cục Thống kê năm 1994, thì tổng diện tích đất đai của Việt Nam là 33.091.093 ha, trong đó đất Lâm nghiệp là 12.055.239 ha chiếm tỷ lệ 36,7%. Đất chưa sử dụng là 12.168.219 ha chiếm tỷ lệ 37,1%; trong đó đất có khả năng nông lâm nghiệp là 7.795.909,9 ha. Trong đó: - Đất lâm nghiệp là 12.055.239 ha chiếm tỷ lệ 36,7%. - Đất chưa sử dụng là 12.168.219 ha chiếm tỷ lệ 37,1%, trong đó đất có khả năng Lâm nghiệp là 7.795.909,3 ha. Tài liệu này đã phân tích quyền sử dụng đất Lâm nghiệp theo 2 lĩnh vực: Nhà nước (4.938.359 ha) và đất giao cho hộ gia đình quản lý (840.970,5 ha). Tổng của 2 hình thức quản lý này là 5.779.329,5 ha. Vậy diện tích còn lại? Tài liệu “Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững” (Tập 1, Tuyển tập báo cáo khoa học của Chương trình Khoa học Lâm nghiệp cấp Nhà nước tại Hội nghị Khoa học về Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững của nhiều tác giả, Hà nội tháng 9/1995) đã nêu rõ hiện trạng sử dụng tài nguyên đất ở Việt Nam (trang 3-7) và đã đưa ra những nhận xét rất rõ ràng. Theo tài liệu này, tổng quỹ đất của Việt Nam là 33.099.093 ha, xếp thứ 55 trong số 200 nước, nhưng dân số lại xếp thứ 12 trên Thế giới, cho nên bình quân đất đai là 0,46 ha/người (bằng 1/6 mức bình quân của Thế giới) xếp thứ 120/200 nước. Trong tổng diện tích 33.099.093 ha đất thì đang sử dụng vào mục đích Nông Lâm nghiệp/Đất chuyên dùng/Đất thổ cư là 18.881.246 ha (57,04%) còn lại đất chưa sử dụng là 42,96% (14.217.854 ha). Riêng đất Lâm nghiệp, cả nước có 9.641.100 ha, đất có rừng tự nhiên là 8.841.700 ha và rừng trồng là 799.400 ha, chiếm 57,06%. Đất đang  sử dụng chiếm 29,12% tổng diện tích đất tự nhiên. Điều này có thể cho thấy rằng: Việt Nam là một nước đất không rộng, người lại đông mà việc khai thác sử dụng tài nguyên đất đai còn rất hạn chế. Quỹ đất còn rất nhiều, chưa được đưa vào sử dụng.Tuy nhiên khi nói đến việc sử dụng đất lâm nghiệp cần nhấn mạnh sâu sắc vai trò của rừng trong việc bảo vệ tài nguyên đất đai và môi trường, coi việc giữ rừng/phát triển rừng như là một biện pháp quan trọng nhất của việc sử dụng đất đai hợp lý/bền vững. Phát triển nông thôn (PTNT) nói chung và phát triển Lâm nghiệp xã hội (LNXH) nói riêng ở Việt Nam trước hết là việc quản lý và sử dụng đất đai-một loài tài nguyên vô cùng quý giá cho mọi sản xuất của người dân nông thôn/miền núi. Nó là một yếu tố tự nhiên gắn liền với sự phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn với hơn 80% dân số Việt Nam. Vì vậy, tìm hiểu vấn đề quản lý tài nguyên đất lâm nghiệp là việc làm không thể thiếu được đối với các hoạt động LNXH. Quản lý đất lâm nghiệp luôn gắn với tính đặc thù của nghành sản xuất lâm nghiệp được thể hiện qua các khía cạnh sau đây. - Đối tượng sản xuất lâm nghiệp là cây rừng có chu kỳ sinh trưởng và phát triển rất dài, có thể tới hàng chục có thể hàng trăm năm và sở hữu đất đai là của chung. - Địa bàn sản xuất rộng lớn, phức tạp, đi lại khó khăn, do đó việc quản lý tài nguyên cũng như áp dụng những tiến bộ của khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất lâm nghiêp gặp nhiều khó khăn trở ngại. - Sản xuất lâm nghiệp không những có ý nghĩa mang lại lợi ích kinh tế, mà nó còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ môi trường sinh thái. Hiện nay, quan điểm về quản lý sử dụng đất đai và tài nguyên rừng đang dần dần quán triệt trên nguyên tắc phát triển bền vững, đó là “Sự phát triển nhằm thoả mãn mọi nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến những khả năng phát triển để thoả mãn những nhu cầu thế hệ tiếp theo” [2]. Phát triển bền vững phải đảm bảo sử dụng đúng mức và ổn định các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ được môi trường sống. Đó không chỉ phát triển nền kinh tế -  văn hoá - xã hội một cách vững chắc nhờ vào khoa học công nghệ tiên tiến, mà còn đảm bảo ổn định và cải thiện những điều kiện tự nhiên mà con người đang sống trong đó và chính sự phát triển đang dựa vào đó để ổn định bền vững... Do đó, trong mỗi điều kiện hoàn cảnh cụ thể và môi trường tài nguyên, con người phải tìm ra hướng phát triển tối ưu của mình, nhằm bảo đảm lợi ích tổng hợp trên tách cả các mặt: Kinh tế, xã hội, và môi trường sinh thái. Đất lâm nghiệp có địa hình phức tạp, đồi núi dốc là đối tượng chủ yếu trong sản xuất kinh doanh lâm nghiệp, do đó vấn đề quan trọng trước tiên đặt ra là phải xác định được các biện pháp quản lý và sử dụng đất dốc thích hợp, hạn chế xói mòn chống thái hoá đất, bảo vệ môi trường vì mục tiêu phát triển lâu bền. Để đảm bảo sử dụng tài nguyên theo hướng bền vững, ở mỗi nước mỗi khu vực đều tìm tòi lựa chọn cho mình một chiến lược và chính sách quản lý thích hợp. Nhìn tổng quát, có xu hướng chung là gắn liền đất đai và tài nguyên rừng với cư dân địa phương, phát triển một nền lâm nghiệp vì con người.  Trong những thập kỷ qua, việc quản lý bảo vệ và xây dựng một chiến lược phát triển lâm nghiệp ở các quốc gia trên thế giới có nhiều chuyển biến, có thể tóm tắt những xu hướng trên thế giới trong những thời gian gần đây như sau: - Chuyển từ nền lâm nghiệp khai thác lợi dụng rừng là chính sang thực hiện mục tiêu lợi dụng rừng kết hợp cả ba lợi ích: kinh tế - xã hội - môi trường sinh thái, chú trọng nhiều hơn mục tiêu phát huy tác dụng sinh thái của rừng. - Phi tập trung hoá phân cấp quản lý Nhà nước về rừng chuyển giao dần trách nhiệm quyền lực về quản lý rừng từ cấp trung ương xuống cấp địa phương và cơ sở. - Đẩy mạnh giao đất giao rừng cho các hộ nông dân và cộng đồng giảm bớt sự can thiệp của Nhà nước tạo điều kiện cho việc quản lý rừng năng động hơn. - Thu hút sự tham gia của các nhóm cộng đồng dân cư được hưởng lợi từ rừng. Khuyến khích họ tham gia vào công tác quản lý rừng, phát huy rừng, các chương trình lâm nghiệp cộng đồng, các khu rừng bảo tồn thiên nhiên, làng, bản.  Giao đất giao rừng cho các chủ thể địa phương là một trong những xu hướng chung của các nước trên thế giới, trong đó có nước ta. Tuy nhiên ở mỗi nước, vấn đề này được triển khai thực hiện ở một mức độ khác nhau và đem lại những kết quả khác nhau. Tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế - chính trị - xã hội, điều kiện tự nhiên, phong tục tập quán canh tác của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia mà mỗi nước hình thành nên mỗi hệ thống quản lý, sử dụng đất đai khác nhau. * Ở Thái Lan, sử dụng đất đai được thông qua chương trình làng rừng, hộ nông dân được giao đất nông nghiệp, đất thổ cư, đất để trồng rừng. Người nông dân có trách nhiệm quản lý đất, không được chặt hoặc sử dụng cây rừng. Người nông dân nhận đất được Chính phủ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên đất rừng của Nhà nước ở những nơi phù hợp trồng cây nông nghiệp lưu niên, chính phủ Thái Lan hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng như đường, trạm y tế... Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp phát, đã làm tăng mức độ an toàn cho người thuê đất trong thời gian sử dụng. Do vậy đã ảnh hưởng tích cực đến việc khuyến khích đầu tư và tăng sức sản xuất của đất [3]. * Ở NêPal Nhà nước cho phép chuyển giao một số khu rừng có diện tích lớn ở vùng núi trung du cho các cộng đồng, thông qua tổ chức chính quyền cấp cơ sở, thành lập các thành viên uỷ ban về rừng cam kết bảo vệ các khu rừng ở địa phương [3]. * Ở Ấn Độ vào những năm 70 của thế kỷ 20 Ấn độ đã phát triển lâm nghiệp xã hội (LNXH), năm 1986 Ấn Độ đã hoàn thành mục tiêu phát triển LNXH ở những bang khác nhau. Ấn Độ coi trọng cộng đồng như một đối tác quản lý những vùng đất rừng của Chính phủ [3]. * Ở Trung Quốc: Sau 20 năm thực hiện cải cách và mở cửa lâm nghiệp Trung Quốc đã phát triển theo hướng chủ yếu sau: Chuyển dịch từ chế độ kinh doanh lâm nghiệp chỉ dựa trên chế độ sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể sang kinh doanh lâm nghiệp dựa trên nền kinh tế nhiều thành phần (Nhà nước, tập thể, cá nhân, hợp vốn kinh doanh, hợp tác....). Phát triển nhiều ngành công nghiệp chế biến lâm sản, nâng cao hiệu suất sử dụng tài nguyên rừng, chuyển từ giai đoạn lấy gỗ làm mục đích sang coi trọng các mặt môi trường sinh thái hữu ích xã hội. Những chính sách đổi mới về lâm nghiệp bao gồm: Cải cách và thay đổi chế độ sản quyền về rừng, từ tháng 3/1981 Trung Quốc đã đề ra chính sách “tam định” nhằm xác định rỏ ba vấn đề : Xác định quyền sử dụng đất đồi núi (sơn quyền); xác định rừng (lâm quyền) và hoạch định diện tích đất lâm nghiệp để lại cho các hộ nông dân sử dụng (tự lưu sơn). Trong đó xác định đất đồi núi là hạt nhân căn bản. Trong 4 năm, đã hoàn thành cơ bản về chính sách “tam định” tiến hành cấp giấy chứng nhận lâm quyền 96,67 triệu ha đất lâm nghiệp, hơn 56 triệu hộ được giao, hơn 31,33 triệu ha được tự lưu sơn, hơn 50,66 triệu đất đồi núi đã được giao đến hộ. Đến cuối 1996 đã hoàn thành cấp giấy chứng nhận lâm quyền được 192 triệu ha. Trên cơ sở đó đã phát triển nhiều hình thức trao đổi quyền sử dụng đất rừng, để khắc phục tình trạng đất đai, rừng núi bị phân tán Trung Quốc đã ban hành nhiều luật pháp, chính sách kinh tế để tạo điều kiện thực hiện tốt việc lưu chuyển và trao đổi quyền sử dụng đất lâm nghiệp [3]. * Ở Philíppin từ những năm 1970 Chính phủ đã quan tâm đến phát triển LNXH. Năm 1982 Chính phủ xây dựng dự án LNXH quốc gia chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài cho cộng đồng. Một dạng hợp đồng sử dụng của cộng đồng là hợp đồng thuê quản lý rừng được ký với các hộ gia đình, cộng đồng hoặc các nhóm. Trong thời hạn thực hiện hợp đồng các chủ nhân của hợp đồng thuê quản lý rừng được phép thu hoạch, chế biến sản phẩm, bán hoặc các hình thức sử dụng khác. Một dạng thứ hai của hợp đồng cộng đồng Phi líp pin là công nhận quyền quản lý của dân tộc thiểu số trên mảnh đất tổ tiên họ để lại, người dân được ký hợp đồng với Chính phủ trong 25 năm và cũng có thể kéo dài trong 25 năm tiếp theo [3]. Vấn đề giao đất giao rừng giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển có sự khác nhau rất nhiều. Tại các nước phát triển dân số tăng chậm, trái lại năng suất công nghiệp, nông nghiệp lại tăng nhanh nên không có nạn thiếu đất cho nông nghiệp mà trái lại, ở các nước Tây Âu đang có vấn đề rút bớt đất nông nghiệp để trả lại cho lâm nghiệp. Chế độ tư hữu ở các nước đó đã sản sinh ra một tầng lớp tiểu chủ đông đảo về rừng. * Ở Pháp rừng tư nhân chiếm khoảng 10 triệu ha, trong khi đó rừng Nhà nước chỉ chiếm khoảng 4 triệu ha. Trong đó 10 triệu ha rừng tư nhân thì có một nữa thuộc về 1,5 triệu tiểu chủ đồn điền đất đai. * Ở Thụy Điển 25% rừng và đất rừng thuộc về Nhà nước, 25% thuộc về các Công ty lớn còn 50% thuộc về tư nhân, cá thể. Ở đây vấn đề giao đất giao rừng cho nông dân không được nêu lên. * Ở Phần Lan có khoảng 2/3 tổng diện tích đất lâm nghiệp thuộc về quyền sở hữu tư nhân, khoảng 430.000 chủ rừng và mỗi chủ rừng ước tính khoảng 33 ha. Ở Phần Lan sở hữu cá nhân về rừng và đất rừng mang tính truyền thống [3]. 4.3. Các giai đoạn quản lý Lâm nghiệp Các chính sách lâm nghiệp ảnh hưởng rất lớn đến việc quản lý đất lâm nghiệp, đặc biệt là trách nhiệm và quyền lợi của các bên có liên quan trong quản lý tài nguyên rừng và đất rừng. Tuy nhiên các chính sách luôn luôn thay đổi hoặc chỉnh sữa cho phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, vì vậy chúng ta có thể chia ra các giai đoạn lịch sử để phân tích tác động của các chính sách như sau: Thời kỳ 1968 - 1982 Đây là thời kỳ phát triển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trên cơ sở phát triển kinh tế quốc doanh và hợp tác xã. Đất nông nghiệp, lâm nghiệp được giao cho hai thành phần kinh tế cơ bản là quốc doanh và hợp tác xã (kể cả tập đoàn sản xuất sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng), chưa giao đất cho hộ gia đình. - Các lâm trường quốc doanh (LTQD) là loại chủ rừng chủ yếu, được Nhà nước đầu tư để trồng rừng và giữ quyền sở hữu chủ yếu khoảng 70% tổng diện tích rừng trồng tập trung theo kế hoạch của Nhà nước. - Các hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN) thời kỳ này đã tham gia trồng khoảng 29% diện tích rừng trồng tập trung. HTXNN trồng rừng chủ yếu để nhận tiền công lao động do Nhà nước trả là chính. Chưa có quyền sở hữu rừng trồng và chưa quan tâm đến kết quả rừng mình gây trồng nên. Tuy vậy, cũng có một số ít HTXNN sử dụng nhân lực và nguồn vốn của mình để trồng rừng, nên có quyền sở hữu một số khu rừng và đã có thu nhập từ rừng trồng do hợp tác xã đầu tư. Thời kỳ 1982 - 1992  Vào những năm đầu 1980 là thời kỳ Nhà nước đang nghiên cứu thử nghiệm cải tiến quản lý hợp tác xã. Trong ngành Lâm nghiệp, Nhà nước ta đã có chính sách giao đất giao rừng cho hợp tác xã và các hộ gia đình trong hợp tác xã để sản xuất nông, lâm nghiệp, nhất là vào giai đoạn cuối của thời kỳ này, chủ trương, chính sách giao đất khoán rừng đến hộ gia đình đã cụ thể và đẩy mạnh hơn. Ngày 06/11/1982 Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định số 184 về việc đẩy mạnh giao đất, giao rừng cho tập thể và nhân dân trồng cây, gây rừng. Ban chấp hành Trung Ương Đảng ra chỉ thị số 29/CT-TƯ (12/11/1983) về việc đẩy mạnh giao đất giao rừng, xây dựng rừng và tổ chức kinh doanh theo nông lâm kết hợp. Từ sau đại hội Đảng toàn quốc khoá VI (1986) Đảng và Nhà nước chủ trương đổi mới nền kinh tế từ cơ chế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, phát triển kinh tế hàng hoá gắn với kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự quản lý của Nhà nước, chú trọng phát triển kinh tế hộ gia đình, coi kinh tế hộ gia đình là đơn vị kinh tế cơ bản tự chủ. Thông tư liên Bộ số 01/TT/LB của Bộ lâm nghiệp và tổng cục quản lý ruộng đất ngày 6/02/1991 đã hướng dẫn việc giao rừng và đất trồng rừng cho các tổ chức, cá nhân để sử dụng vào mục đích lâm nghiệp. Ngày 15/9/1992 Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng đã ra quyết định số 327-CT về một số chủ trương, chính sách sử dụng đất trống, đồi núi trọc, bải bồi ven biển và mặt nước, trong đó ban hành chính sách hổ trợ 40% tổng vốn đầu tư dần cho các hộ gia đình vay theo nguyên tắc không lấy lãi. Việc hoàn trả vốn vay bắt đầu từ lúc có sản phẩm. Ngày 22/7/1992 Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng đã ra quyết định số 264/CT về chính sách đầu tư phát triển rừng. Quyết định này giải quyết khó khăn về vốn cho nhân dân gây trồng cây lâm nghiệp ở vùng định canh định cư, Nhà nước hổ trợ cho vay vốn không lấy lãi và cũng  từ đây ngành lâm nghiệp đã cùng với các địa phương vận dụng và thực hiện giao đất giao rừng đến các hộ dân, công nhân trong lâm trường. Vì vậy, công tác giao đất, giao rừng trong thời kỳ này đã có những tiếp bộ đáng kể mang lại những khởi sắc cho nghề rừng nước ta. Ở những nơi thực hiện đúng chính sách giao đất giao rừng, thì rừng đã có người làm chủ cụ thể không còn tình trạng chủ rừng chung chung mà thực chất là vô chủ. Vì vậy người nông dân đã yên tâm đầu tư vào việc kinh doanh rừng và bồi bổ đất đai. Nhiều nơi đã có sản phẩm hàng hoá, diện tích đất trống đồi núi trọc đã được đưa vào khai thác sử dụng ngày càng tăng, nhiều mô hình sản xuất theo phương thức nông lâm kết hợp, làm vườn rừng trang trại khá phổ biến ở nhiều địa phương. Qua nhận đất nhận rừng đời sống nông dân được nâng lên khá rõ rệt. Những hộ nông dân và công nhân lâm trường nhận đất, nhận rừng thu hoạch từ rừng vài chục triệu đồng hàng năm không còn là hiện tượng hiếm thấy, đó là những tiến bộ bước đầu đáng khích lệ của công tác giao đất khoán rừng trong gai đoạn này, làm tiền đề cho chuyển hướng ngành lâm nghiệp, từ lâm nghiệp quốc doanh sang lâm nghiệp xã hội ở nước ta. Thời kỳ 1993 - 2003 Từ đầu năm 1993 Đảng và Nhà nước ta đã ban hành các nghị quyết, chủ trương và chính sách nhằm thực hiện triệt để công tác giao đất giao rừng. Nghị quyết trung ương lần thứ 5 (1993) về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nông thôn, đã nhấn mạnh: “Đổi mới cơ chế quản lý ngành lâm nghiệp, thực hiện phổ biến việc giao khoán rừng và đất rừng phù hợp với quy hoạch và phương thức phát triển từng vùng, từng loại rừng” - Luật đất đai đã được Quốc hội thông qua ngày 14/7/1993 và có hiệu lực từ ngày 15/10/1993. Đây là một sắc luật quan trọng về đất đai, cụ thể hoá điều 17,18 hiến pháp năm 1992, nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc Quốc hội thông qua luật đất đai, vừa đảm bảo phát huy quan hệ sở hữu toàn dân về đất đai, vừa phù hợp với cách vận hành mới của một nền kinh tế hàng hoá, bắt đầu tiếp cận với cơ chế thị trường hiện đại. Nghiên cứu tổng quát những sửa đổi bổ sung về chính sách đất đai thời kỳ này có thể thấy những vấn đề nổi bật cần chú ý sau đây: + Cũng cố tăng cường sở hữu toàn dân về đất đai, tăng cường vai trò quản lý thống nhất của Nhà nước. + Nhà nước giao quyền sử dụng đất cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng lâu dài vào mục đích do Nhà nước quy định. + Nhà nước xác định giá các loại đất để tính thuế chuyển quyền sử dụng đất thu tiền khi giao đất hoặc cho thuê đất, tính giá tài sản khi giao đất, bồi thường thiệt hại về đất khi bị thu hồi. + Các  quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất đã được xác định tạo cơ sở pháp lý về những lợi ích cụ thể để người sử dụng đất thực sự làm chủ về sản xuất kinh doanh trên đất được giao. Tiếp theo đó Chính phủ đã ban hành Nghị định 64-CP (1993) về giao đất nông nghiệp, Nghị định 02/CP (1994) về giao đất lâm nghiệp cho tổ chức hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích nông lâm nghiệp. Quyết định số 202/TTg (1994) về khoán quản lý bảo vệ rừng, nghành lâm nghiệp đã có thông tư số 06-LN/KL(1994) về giao đất lâm nghiệp. Nghị định số 01/CP (01/11/1995) về giao khoán và sử dụng vào mục đích nông lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản, trong các doanh nghiệp Nhà nước. Quyết định 661/QĐ - TTg (29/7/1998) về chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng. Nghị định số 163/CP (16/11/1999) thay thế cho Nghị định 02/CP về giao đất cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức hộ gia đình cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp. Người dân được nhận đất lâm nghiệp có quyền sử dụng, thừa kế chuyển nhượng, thế chấp và chuyển đổi quyền sử dụng đất lâm nghiệp theo quy định của pháp luật, hạn mức giao đất cho thuê đất cho hộ gia đình cá nhân do Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh quyết định nhưng không vượt quá 30 ha. Thời hạn giao đất cho thuê đất cho tổ chức hộ gia đình cá nhân là 50 năm, hết thời hạn này nếu tổ chức, hộ gia đình, cá nhân vẫn có nhu cầu sử dụng đất đúng mục đích, thì được nhà nước giao tiếp, nếu các loài cây trên 50 năm thì sau 50 năm Nhà nước sẽ giao tiếp đến khi thu hoạch sản phẩm chính. Thời kỳ 2003 đến nay Trên quan điểm tiếp cận quản lý nguồn tài nguyên có sự tham gia, đặc biệt quản lý nguồn tài nguyên dựa vào cộng đồng. Đối với ngành lâm nghiệp trong chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2001-2010, Bộ NN & PTNT đã đề ra các giải pháp về  cơ chế chính sách; trong đó có một số điểm liên quan đến phát triển LNXH như sau:          Xác định rõ quyền sử dụng đất đai và tài nguyên rừng cho các Tổng công ty, Công ty lâm nghiệp, các lâm trường quốc doanh, các thành phần kinh tế khác và các hộ gia đình ... để ổn định sản xuất lâu dài.       Từng bước tiến hành giao đất và phát triển rừng cộng đồng trên cơ sở nghiên cứu cơ chế và ban hành các quy định cụ thể trong việc bảo vệ, phát triển, sử dụng và kinh doanh các loại hình rừng này.       Trong phần đất lâm nghiệp giao cho từng gia đình, thúc đẩy phát triển nông lâm kết hợp, góp phần xoá đói giảm nghèo.       Mở rộng và củng cố quyền của người được giao đất, thuê đất cũng như làm rõ và đơn giản hoá thủ tục để có thể thực hiện các quyền của người sử dụng. Định hướng của chính sách lâm nghiệp đã được đề cập trong giai đoạn này nhằm mục đích:      Bảo vệ và quản lý nguồn tài nguyên rừng và đất rừng hiện tại và tương lai một cách bền vững trên cơ sở đáp ứng các nhu cầu của quốc gia về sản phẩm và bảo vệ môi trường.      Nâng cao sản lượng và cải tiến khai thác, vận xuất, vận chuyển, chế biến, hệ thống thị trường các sản phẩm từ rừng để giảm lãng phí, nâng cao lợi ích kinh tế, xã hội và xuất khẩu.      Nâng cao sự tham gia của người dân và có sự cam kết của tất cả các thành phần kinh tế (Nhà nước, hợp tác xã, hộ gia đình, công ty tư nhân, và cá nhân) trong bảo vệ, sản xuất và sử dụng hợp lý các sản phẩm rừng và các lợi ích về môi trường.      Góp phần cải tiến điều kiện sống và thu nhập của người dân nông thôn và đặc biệt là người dân và các cộng đồng dân tộc miền núi. Mục đích cuối cùng là các chính sách lâm nghiệp được chấp nhận bởi người dân và các cơ quan Nhà nước sẽ chia sẽ quyền và trách nhiệm đối với các khu rừng sản xuất và phòng hộ. Với mỗi vùng kinh tế cần tạo ra cơ hội để có được sự tham gia một cách đầy đủ trong phân chia lợi ích của các sản phẩm và môi trường từ tài sản rừng quốc gia. Các mục tiêu và chiến lược của chính sách lâm nghiệp quốc gia là: Xây dựng lâm phận quốc gia gồm có rừng và đất rừng, nuôi dưỡng và quản lý chúng phù hợp với mục đích xã hội và môi trường của quốc gia, tuân theo các chính sách lâm nghiệp và Luật bảo vệ và phát triển rừng Xây dựng kế hoạch bảo vệ và quản lý rừng cho các nguồn tài nguyên rừng quốc gia, và đáp ứng được nhu cầu lập kế hoạch và quản lý cho từng địa phương. Có sự cam kết tuân theo các chính sách lâm nghiệp, luật và các quy chế của tất cả các thành phần xã hội trong các hoạt động quản lý tài nguyên rừng Cải tiến việc khai thác, vận chuyển, chế biến và thị trường các sản phẩm từ rừng để giảm sự lãng phí và nâng cao hiệu quả sử dụng trong nước, nhập và xuất khẩu. Xây dựng các cơ chế hành chính, tổ chức để thực hiện bảo vệ môi trường và phát triển ngành lâm nghiệp bền vững Thực hiện và duy trì một mức tài chính và đầu tư thích đáng cho ngành lâm nghiệp từ nguồn nhà nước và tư nhân để hoàn thành mục đích và các mục tiêu của chính sách lâm nghiệp quốc gia. Ưu tiên cao về bảo vệ môi trường trong quản lý tất cả các loại rừng và đất rừng Hợp tác giữa các ngành để cải tiến điều kiện sống của người dân sống trong và gần rừng Nhà nước, đặc biệt  là ở các vùng miền núi Trong 19 triệu ha đất rừng: Hơn 13 triệu ha đã bị bị tàn phá, đang bị bỏ hóa, đất đai bị xói mòn và không sản xuất được  Nguyên nhân: sự gia tăng dân số đã gây nên áp lực lớn đến tài nguyên rừng, khai thác gỗ bất hợp pháp, canh tác nương rẫy, khai thác gỗ củi...đã góp phần cho việc suy giảm diện tích rừng khoảng 200.000 ha trong một năm. Mặc khác công nghiệp chế biến gỗ chưa được phát triển mạnh, sản phẩm  chế biến giá trị thấp chưa chiếm lĩnh được thị trường xuất khẩu.  Việc bảo vệ các diện tích rừng hiện có thông qua trồng rừng, sản xuất nông lâm kết hợp và các chương trình trồng các cây khác là nhiệm vụ chính của quốc gia để tiếp tục phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Chương trình hỗ trợ ngành lâm nghiệp năm 2001 (FSSP) đã xây dựng một khung logic để hỗ trợ phát triển lâm nghiệp trong những năm đến, có 9 kết quả chính đã được dự kiến; trong đó có kết quả mong đợi thứ hai liên quan đến phát triển cơ chế chính sách liên quan đến lâm nghiệp là “Có khuôn khổ chính sách, pháp luật và thể chế để làm hài hoà các chính sách của quốc gia-tỉnh về đất rừng và sử dụng tài nguyên”. Một số chỉ thị  quan trọng trong phát triển chính sách đã được cam kết như là:       Khái niệm “lâm nghiệp nhân dân” được làm rõ và đưa vào tất cả các văn bản chính sách liên quan, đặc biệt chính sách lâm nghiệp cộng đồng được ban hành năm 2003.       Đến năm 2004 các chính sách hưởng lợi được cải cách và ban hành. Nhìn chung trong giai đoạn này, Nhà nước đã đầu tư nguồn lực để bàn hành và sữa đổi nhiều chính sách liên quan đến quản lý nguồn tài nguyên rừng và đất rừng như Luật đất đai, Luật quản lý bảo vệ và phát triển rừng. Quy chế (08) quản lý 3 loại rừng. Nghị định 178 về chế độ hưởng lợi của người dân khi tham gia bảo vệ và phát triển rừng. Nghị định 163 về giao khoán đất lâm nghiệp cho hộ gia đình và các tổ chức. Mặt khác trong quá trình tiếp cận, nhiều hoạt động đã chú trọng đến sự tham gia của cộng đồng trong quản lý nguồn tài nguyên hoặc quản lý nguồn tài nguyên dựa vào cộng đồng như QHSD đất và giao đất Lâm nghiệp có sự tham gia, quản lý rừng dựa vào cộng đồng. Những nghị quyết, quyết định và chỉ thị trên đây đã đánh dấu sự thay đổi cơ bản trong chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước ta, công nhận sự tồn tại lâu dài và tác dụng tích cực của kinh tế hộ gia đình, trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo bình đẳng quyền và nghĩa vụ trước pháp luật, bảo hộ quyền làm ăn chính đáng và thu nhập hợp pháp của các hộ gia đình, cá nhân trên diện tích đất lâm nghiệp được giao. Đây chính là động lực trực tiếp kích thích người dân yên tâm nhận đất nhận rừng để sản xuất kinh doanh, kinh tế hộ gia đình có điều kiện phát triển hơn. Mỗi người dân nói chung, đặc biệt là nông dân miền núi, rất phấn khởi thực hiện chính sách này. Chủ trương giao đất lâm nghiệp của Đảng và Nhà nước đến nay đã đi vào cuộc sống của người dân miền núi bao đời nay gắn bó với rừng. Giao đất lâm nghiệp ở nước ta được hình thành như là một cấu thành quá trình đổi mới kinh tế hiện nay. Muốn quản lý bảo vệ và phát triển rừng thì mỗi khu rừng phải có chủ rừng, và chủ rừng phải có lợi ích thực sự từ rừng và nghề rừng. Thực tế cho thấy: Thông qua kết quả giao đất giao rừng cho ở nhiều địa phương trong cả nước đã thực hiện tốt công tác bảo vệ rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc tăng độ che phủ của rừng, tạo các vùng cây công nghiệp, cây ăn quả, cây nguyên liệu tập trung, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu nhập, nâng cao đời sống nhân dân trong vùng, điển hình làm tốt như các tỉnh: Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Thanh Hoá, ... 4.4. Phân tích về một số điểm trong các chính sách liên quan Từ sau khi có Luật đất đai năm 1993, luật phát triển bảo vệ rừng và một số chính sách mang tính pháp lý đã thực sự thu hút sự quan tâm của mọi thành phần kinh tế. Nó đã đề cập và đưa ra những qui định, quyết định cần thiết, hợp ý dân trong thời kỳ đổi mới. Tuy nhiên một số tồn tại đã bộc lộ trong quá trình thực hiện chính sách như: Chính sách giao đất cho người dân đã có, nhưng tại sao thực hiện lại không có hiệu quả và Còn nhiều vướng mắc. Giữa chính sách và thực hiện có gì là bất cập? Vì sao việc cấp giấy phép về quyền sử dụng đất lại khó khăn đến vậy? Việc Nhà nước “cho thuê đất” mà đối tượng được thuê là tổ chức/hộ gia đình/cá nhân trong nước và ngoài nước.. đồng thời lại xác lập quyền cho thuê/chuyển đổi/chuyển nhượng quyền sử dụng đất ... Liệu có kẻ hở trong chính sách hay không? Có cần thêm những qui định cụ thể cho điều này? Trong 2 Nghị định 01/CP (giao khoán đất lâm nghiệp của các lâm trường cho các hộ gia đình), Nghị định 02/CP (giao đất Lâm nghiệp lâu dài cho các tổ chức và cá nhân) thì đã có tiêu chí để đưa ra khái niệm đất nông nghiệp? và đất lâm nghiệp? Hơn nữa có thể cùng 1 nơi vừa là đất nông nghiệp, vừa là đất lâm nghiệp (ví dụ vùng đất cát: Trồng rừng, trồng cây nông nghiệp? Đất để tiến hành sản xuất Nông Lâm kết hợp) Hệ thống giải pháp nào? Chính sách hỗ trợ nào? để nâng cao hiệu quả của việc sử dụng đất có sự tham gia. Chủ trương giao đất lâm nghiệp khoán rừng đã được Đảng và Nhà nước ta đề ra và thực hiện từ năm 1968, qua mỗi giai đoạn phát triển, Nhà nước lại có những điều chỉnh, bổ sung kịp thời cho phù hợp với thực tế. Vì vậy, việc giao đất, khoán rừng trong từng giai đoạn cũng có sự khác nhau về phạm vi, quy mô, mức độ và kết quả đạt được. Nhìn tổng quát kết quả về hoạt động giao đất lâm nghiệp ở nước ta đã đạt được thành quả nhất định qua các giai đoạn sau: Từ 1968-1992: Những chính sách xây dựng nhằm hoàn thiện quan hệ sản xuất ở niềm núi có nhiều mặt không phù hợp, phong trào hợp tác hoá nông nghiệp lâm nghiệp làm rập khuôn như đồng bằng là không phù hợp với tích chất và trình độ phát triển lực lượng sản xuất ở niền núi. Khoán 10 đối với đồng bào miền núi được hiểu như là sự giải thể hợp tác xã nông nghiệp, các hộ gia đình nhận lại ruộng đất, rừng của mình trước khi vào hợp tác xã tình trạng này dẫn đến tranh chấp đất đai giữa các cộng đồng đân cư trong thôn bản, giữa dân địa phương với dân miền xuôi lên xây dựng kinh tế mới.... tuy nhiên hiệu quả chính sách giao đất giao rừng trong thời kỳ này chưa cao nhưng chính sách giao đất giao rừng đã khuyến khích tạo động lực phát triển nông lâm nghiệp ở miền núi, bước đầu đã hình thành nên thị trường ở trung du, ở niền núi đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa chính sách giao đất lâm nghiệp còn nhiều hạn chế. Qua thực tế cho thấy ở nhiều nơi sau khi tập thể, hộ gia đình, cá nhân nhận rừng mà tổ chức kinh doanh đã có thu nhập từ rừng đáng kể, do xác định được cơ cấy cây trồng thích hợp với điều kiện khí hậu đất đai ở nhiều địa phương: Quế Quảng Nam, Quảng Ninh, ... Qua 24 năm thực hiện giao đất giao rừng (1968-1992) đã giao được tổng số trên 11 triệu ha trong đó 5,8 triệu ha giao cho quốc doanh, 1,3 triệu ha giao cho hộ gia đình, 3,7 triệu ha giao cho hợp tác xã nông nghiệp trên thực tế mới sử dụng 30% diện tích giao số còn lại vẫn không được khai thác bảo vệ vẫn còn hoang hoá, thực trạng này chứng tỏ chủ trương giao đất giao rừng trong giai đoạn này chưa tạo điều kiện tích cực trong việc quản lý bảo vệ rừng và phát triển tài nguyên rừng. Nguyên nhân

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docwww.ebo.vn_tri_thuc_ban_dia_bao_ve_tai_nguyen_rung.doc
Tài liệu liên quan