(4) Người phản biện, thẩm định, đánh
giá. Đây là “cánh cửa” rất quan trọng, thậm
chí “định đoạt” số phận của tác phẩm là phải
sửa lại hay hủy bỏ. Bằng kinh nghiệm, kỹ
năng của mình người giữ vai trò này có quyền
đặt ra câu hỏi, truy vấn đến cùng những điều
họ cho là bất thường hay những nội dung
chưa thật sự thuyết phục, qua đó có thể phát
hiện những sai sót trong trích dẫn mà phần
mềm máy tính không thể phát hiện được.
(5) Dư luận xã hội (thông qua mạng xã
hội, báo chí, phát thanh, truyền hình ”. Đây
là những kênh quan trọng, góp phần hỗ trợ
đắc lực trong việc bảo vệ QTG nói chung.
Bốn bậc ngăn ngừa trên mang tính nội bộ
nhưng khi sản phẩm đến xã hội cũng đồng
nghĩa là chịu sự phản biện, giám sát của dư
luận nên khó vượt qua, nếu thực sự có vi
phạm. Các vụ vi phạm trích dẫn, đạo văn
trong thời gian qua bị phanh phui chủ yếu
bởi truyền thông hay cư dân mạng.
(6) Các biện pháp xử lý vi phạm QTG.
Biện pháp xử lý trước hết mang tính chất
trừng phạt người vi phạm QTG phải gánh
chịu những hậu quả, tổn thất nhất định.
Đồng thời, nếu vi phạm xảy ra liên quan
nhiều người, phải thiết lập các biện pháp
mang tính “Cộng đồng và liên đới trách
nhiệm”. Chẳng hạn, trong trường hợp, nhóm
đồng tác giả nghiên cứu có người vi phạm
thì chủ biên và các đồng tác giả khác cũng
phải chịu trách nhiệm ở những mức độ khác
nhau; hoặc học viên thực hiện đề tài vi
phạm, giáo viên hướng dẫn, hội đồng bảo vệ
cũng phải có trách nhiệm, nếu chứng minh
có dung túng, thiếu trách nhiệm. Như vậy,
qua việc răn đe còn có tác dụng phòng,
chống, ngăn ngừa, tức buộc người học phải
trung thực, người dạy, người hướng dẫn phải
nâng cao trách nhiệm.
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 246 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Trích dẫn hợp lý tác phẩm - Thực tiễn trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập ở bậc Đại học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 14 (414) - T7/202032
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
1. Đặt vấn đề
Hoạt động nghiên cứu, giảng dạy ở bậc
đại học Việt Nam hướng đến mục tiêu“Đào
tạo người học có khả năng sáng tạo và giải
quyết những vấn đề thuộc ngành được đào
tạo”1. Nước ta hiện có 237 trường đại học,
học viện; bao gồm: 172 trường công lập, 60
trường ngoài công lập, 5 trường có 100%
vốn nước ngoài (ngoài ra còn có 37 Viện
nghiên cứu khoa học được giao nhiệm vụ
đào tạo trình độ tiến sĩ) với 74.991 giảng
viên (59.232 công lập và 15.759 ngoài công
lập). Ở đó, có hơn 1,5 triệu sinh viên đại học
hệ chính chính quy (chưa kể hàng trăm ngàn
học viên hệ vừa học vừa làm)2. Để hướng
đến mục tiêu sáng tạo, giảng viên và sinh
TRÍCH DẪN HỢP LÝ TÁC PHẨM - THỰC TIỄN TRONG NGHIÊN CỨU,
GIẢNG DẠY VÀ HỌC TẬP Ở BẬC ĐẠI HỌC
Trần Quang Trung
ThS. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Trích dẫn tác phẩm, trích dẫn
hợp lý tác phẩm, môi trường giáo dục
đại học.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 26/5/2020
Biên tập : 16/6/2020
Duyệt bài : 19/6/2020
Article Infomation:
Key words: Quotations; appropriate
quotations; higher education
environment.
Article History:
Received : 26 May. 2020
Edited : 16 Jun. 2020
Approved : 19 Jun. 2020
Tóm tắt:
Trong môi trường giáo dục đại học, trích dẫn là việc rất phổ biến
trong nghiên cứu khoa học, giảng dạy và học tập. Tuy nhiên, vì
nhiều lý do khác nhau, sinh viên, học viên, kể cả giảng viên thực
hiện trích dẫn rất tùy tiện, nhất là vi phạm trích dẫn hợp lý. Điều
này gây tác động tiêu cực và ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy
tín, chất lượng giáo dục đại học. Trong phạm vi bài viết này, tác
giả phân tích thực trạng, nguyên nhân vi phạm trích dẫn hợp lý
trong môi trường giáo dục đại học và đề xuất một số giải pháp
khắc phục tình trạng này.
Abstract:
The quotation is very common in scientific studies, teaching and
learning in higher education. However, for different reasons, the
students, the learners, even the teachers make quotations in a
very arbitrary manner, especially in violation of quotation rules,
which gives a negative impact on the reputation and quality of
the higher education. Within the scope of this article, the author
analyzes the current situation, the cause of violation of the
quotation rules in higher education, and proposes
recommendations to overcome this situation.
1 Điều 5 Luật Giáo dục đại học năm 2013 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2018.
2 https://giaoduc.net.vn/giao-duc-24h/nhung-con-so-noi-bat-cua-giao-duc-dai-hoc-viet-nam-post201566.gd.
33Số 14 (414) - T7/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
viên đều tham gia vào các hoạt động nghiên
cứu, giảng dạy, học tập. Các sản phẩm
nghiên cứu trong giảng dạy, học tập ở bậc
đại học có thể là tập bài giảng, giáo trình,
sách chuyên khảo, sách tham khảo (gọi
chung là sách) hoặc đề tài khoa học, đồ án,
luận văn, luận án, báo cáo thuyết trình, tham
luận khoa học hoặc một sản phẩm cụ thể
khác (gọi chung là đề tài). Trong quá trình
thực hiện, các chủ thể luôn tìm tòi, nghiên
cứu, học hỏi lẫn nhau nên việc trích dẫn nội
dung từ tác phẩm này vào tác phẩm khác là
việc hết sức bình thường. Để tránh việc trích
dẫn gây ra những hệ lụy tiêu cực (như gian
dối, chiếm đoạt tri thức) xâm hại quyền và
lợi ích chính đáng của tác giả, pháp luật có
những quy định điều chỉnh hành vi trích dẫn.
Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, các quy
định này vẫn chưa phát huy hết hiệu quả,
khiến môi trường giáo dục đại học rất dễ rơi
vào tình trạng kém chất lượng. Vi phạm trích
dẫn có nhiều cách thức, mức độ khác nhau
như: trích dẫn không hợp lý, không ghi tên
tác giả, nguồn gốc xuất xứ tác phẩm
2. Quy định của pháp luật về trích dẫn
hợp lý tác phẩm
Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 đã được
sửa đổi, bổ sung năm 2009 và năm 2019
(Luật SHTT) dành 57/ 222 Điều quy định về
quyền tác giả (QTG) và cùng với đó, nhiều
văn bản dưới luật cũng được ban hành. Tuy
các văn bản này có quy định về “trích dẫn”
nhưng không định nghĩa thế nào trích dẫn?
Có thể hiểu nôm na rằng, trích dẫn là việc
lấy nội dung, ý tưởng ngôn ngữ, dữ liệu hay
các thông tin từ tác phẩm hình thành trước
đưa vào tác phẩm hình thành sau. Mặc dù
không định nghĩa nhưng Luật SHTT có 05
quy định về trích dẫn, trong đó hai lần quy
định “trích dẫn hợp lý”. Điểm b khoản 1
Điều 25 Luật SHTT quy định: “Trích dẫn
hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả
để bình luận hoặc minh họa trong tác phẩm
của mình”; và điểm c khoản 1 Điều 32 cho
phép việc trích dẫn hợp lý nhằm mục đích
cung cấp thông tin không phải xin phép,
không phải trả tiền nhuận bút, thù lao. Để thi
hành những điều khoản này, Điều 23 Nghị
định số 22/2018/NĐ-CP3 quy định:
Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không
làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh
họa trong tác phẩm của mình quy định
tại điểm b khoản 1 Điều 25 của Luật
SHTT phải đáp ứng đủ hai điều kiện sau:
- Phần trích dẫn chỉ nhằm mục đích giới
thiệu, bình luận hoặc làm sáng tỏ vấn đề
được đề cập trong tác phẩm của mình;
- Phần trích dẫn từ tác phẩm được sử
dụng để trích dẫn không gây phương hại đến
quyền tác giả đối với tác phẩm được sử dụng
để trích dẫn; phù hợp với tính chất, đặc điểm
của loại hình tác phẩm được sử dụng
để trích dẫn.
Từ những luận cứ trên, có thể thấy, trích
dẫn hợp lý tác phẩm là hành vi hợp pháp,
được pháp luật cho phép và có một số nội
dung cơ bản sau:
Về mặt nội dung, việc trích dẫn lại một
đoạn, một phần văn bản (mà không phải toàn
bộ) tác phẩm hoặc ý tưởng nhưng phải bảo
đảm tính chính xác tuyệt đối.
Về mặt kỹ thuật, việc trích dẫn phải tạo
ra sự khác biệt đoạn văn bản được trích dẫn
với các nội dung xung quanh bằng các hình
thức định dạng cụ thể.
Về mục đích, việc trích dẫn chỉ nhằm
mục đích giới thiệu, bình luận hoặc làm sáng
tỏ vấn đề được đề cập trong tác phẩm của
3 Nghị định số: 22/2018/NĐ-CP được ban hành ngày 23/02/2018 nhằm quy định chi tiết một số điều và biện
pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ
năm 2009 về quyền tác giả, quyền liên quan.
Số 14 (414) - T7/202034
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
mình. Có thể hiểu rằng, phần trích dẫn
không được trở thành phần chính hay nội
dung trọng tâm của tác phẩm mới.
Về yêu cầu, việc trích dẫn không làm sai
ý tác giả, không gây phương hại quyền tác
giả có tác phẩm được trích dẫn; phù hợp với
tính chất, đặc điểm của loại hình tác phẩm
được sử dụng để trích dẫn.
Như vậy, hành vi trích dẫn hợp lý tác
phẩm chịu sự điều chỉnh của pháp luật và
phải tuân theo những chuẩn mực nhất định.
Trong môi trường giáo dục đại học, tuân thủ
các quy định trích dẫn hợp lý có ý nghĩa cự
kỳ quan trọng, cụ thể:
Một là, bảo đảm tính khoa học của tác
phẩm cũng như uy tín, đạo đức của người
thực hiện tác phẩm: một cuốn sách, đề tài
hàng chục, hàng trăm trang mà không có bất
kỳ nguồn tài liệu tham khảo, trích dẫn hay
trích dẫn mơ hồ thì liệu có bảo đảm tính
khoa học? Tác phẩm đó liệu có tạo ra sự tin
tưởng đối với người đọc, người học không,
nhất là đối với các tác phẩm có tính hàn lâm
hoặc chứa đựng nhiều thông tin mang tính
dữ liệu? Do đó, việc công khai minh bạch
những nội dung trích dẫn không những nâng
cao giá trị khoa học cho chính tác phẩm, mà
còn bảo đảm nguồn kiểm chứng rõ ràng. Bên
cạnh đó, hành vi trích dẫn hợp lý thể hiện ý
thức pháp luật, thái độ làm việc nghiêm túc,
đạo đức và trung thực; phản ánh trình độ,
năng lực của người nghiên cứu cũng như, thể
hiện sự tôn trọng đối với tác giả có tác phẩm
được trích dẫn.
Hai là, đối với người sử dụng tác phẩm
là sinh viên, khi được tiếp xúc với tác phẩm
có giá trị về mặt khoa học, bao gồm những
trích dẫn hợp lý sẽ giúp sinh viên được định
hướng kỹ năng nghiên cứu khoa học. Qua
đó, biết cách trích dẫn, khai thác, sử dụng
thông tin tư liệu trong sách, đề tài phục vụ
việc học tập, nghiên cứu. Ngoài ra, việc trích
dẫn hợp lý còn định hình tính trung thực
trong học tập, thi cử cũng như việc hành
nghề sau này. Bởi lẽ, tính trung thực trong
môi trường giáo dục đại học phải được bắt
đầu từ những hành vi cụ thể, mà trước hết là
thông qua việc trích dẫn.
Ba là, đối với tác phẩm cũng như tác
giả có tác phẩm được trích dẫn: Việc trích
dẫn hợp lý tác phẩm góp phần bảo đảm
quyền và lợi ích vật chất, tinh thần cũng như
uy tín khoa học và thành quả lao động, sáng
tạo của tác giả có tác phẩm được trích dẫn.
Để dễ hình dung hơn, chúng ta thử đặt vào
bối cảnh khi mình có một tác phẩm nhưng
được nhiều, rất nhiều tác giả khác trích dẫn
hợp lý ở những khía cạnh, mức độ khác nhau
sẽ thấy rất rõ ý nghĩa của việc trích dẫn đối
với tác giả có tác phẩm được trích. Nói cách
khác, tác phẩm có chỉ số, tỷ lệ được trích dẫn
khác nhau phản ánh được nhiều vấn đề của
tác phẩm cũng như tác giả4.
4 “Chỉ số trích dẫn (citation index) của một ấn phẩm, do Eugene Garfield đề xuất năm 1995, là số lần ấn phẩm
này được trích dẫn, được tham khảo trong tất cả các ấn phẩm khác. Từ đó đến nay, chỉ số trích dẫn đã được
dùng làm một độ đo quan trọng để đánh giá các công trình nghiên cứu, là cơ sở để định nghĩa các độ đo
khác cho các tạp chí và nhà khoa học. Câu hỏi có thể làm ta ngạc nhiên là tại sao một chỉ số đơn giản như
vậy lại được dùng rộng rãi cho đến nay để đo chất lượng và giá trị các công trình khoa học? Có thể nói, chỉ
số trích dẫn được “tin dùng” do dựa trên một giả định được thừa nhận rộng rãi, là các nhà khoa học có ảnh
hưởng hơn, các công trình quan trọng và có giá trị sử dụng hơn thường được trích dẫn nhiều hơn. Nói nôm
na, chỉ số trích dẫn đo mức độ “Hữu xạ tự nhiên hương” của các ấn phẩm”. Xem thêm: Hồ Tú Bảo: bài viết
“Đánh giá định lượng kết quả nghiên cứu khoa học”, đăng trên trang thông tin điện tử của “Hội đồng giáo
sư Nhà nước” ngày 12/03/2019 (đường link
nghien-cuu-khoa-hoc-425).
35Số 14 (414) - T7/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
Bốn là, đối với các cơ sở giáo dục đại
học cũng như nền giáo dục đại học. Trước
hết, khác với giáo dục phổ thông, ở bậc học
đại học vừa giáo dục, vừa đào tạo nên đề cao
tính chủ động, tinh thần sáng tạo, tự học, tự
nghiên cứu với yêu cầu:“Sinh viên, học viên
có nhiệm vụ học tập, nghiên cứu khoa học,
rèn luyện theo quy định”5. Đối với giảng
viên không chỉ thực hiện việc giảng dạy
thuần túy mà còn có nghĩa vụ “Nghiên cứu,
phát triển ứng dụng khoa học và chuyển
giao công nghệ, bảo đảm chất lượng đào
tạo”6. Ngoài ra, theo Nghị định số
73/2015/NĐ-CP7, một trong những tiêu chí
quan trọng nhất để xếp hạng cơ sở giáo dục
đại học là hoạt động nghiên cứu khoa học
của giảng viên và sinh viên. Như vậy, trong
bối cảnh pháp luật đề cao vai trò nghiên cứu
khoa học trong giáo dục đại học, việc nâng
cao nhận thức và tuân thủ pháp luật QTG trở
nên cấp thiết. Bởi lẽ, hoạt động nghiên cứu
khoa học luôn đòi hỏi tư duy độc lập, sáng
tạo kết hợp tham khảo, kế thừa, phát triển
những tri thức đã có nhưng tuyệt nhiên phải
bảo đảm tôn trọng pháp luật QTG bằng
những hành vi cụ thể, trong đó có hành vi
trích dẫn. Nền giáo dục liêm chính và khai
phóng phải tuyệt đối ngăn chặn những kiểu
hành vi “Sáng tạo lại trên sự sáng tạo của
người khác” bằng những thủ thuật bất chấp
đạo lý, đạo đức, pháp luật. Qua đó, chúng ta
tạo dựng được niềm tin với bạn bè quốc tế,
nâng cao vị thế của nền giáo dục đại học Việt
Nam trên trường quốc tế; thu hút vào Việt
Nam các nguồn lực giáo dục quốc tế có chất
lượng, trình độ cao.
3. Thực trạng vi phạm trích dẫn hợp lý
trong nghiên cứu, giảng dạy ở bậc đại học
Như trên đã đề cập, trích dẫn trong
nghiên cứu, giảng dạy, học tập ở bậc đại học
là việc cần thiết, phổ biến. Tuy nhiên, vì
nhiều lý do khác nhau dẫn đến việc trích dẫn
vi phạm quy định về QTG, cũng như quyền
và lợi ích hợp pháp của tác giả. Có thể điểm
qua thực trạng vi phạm trích dẫn hợp lý với
một số biểu hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, trích dẫn nội dung là thành
phần chính trong tác phẩm khác để hình
thành tác phẩm mới. Nghiên cứu khoa học
có hai dạng, gồm nghiên cứu cơ bản và
nghiên cứu ứng dụng. Kết quả nghiên cứu
cơ bản có thể hình thành các lý thuyết,
những quan niệm, định nghĩa mới về bản
chất của sự vật, hiện tượng. Trong khi đó,
nghiên cứu ứng dụng thường có kết quả bao
gồm các giải pháp, biện pháp do tác giả đề
xuất nhằm hoàn thiện lĩnh vực nào đó trong
đời sống xã hội. Những quan niệm, lý thuyết
mới hay các giải pháp, kiến nghị luôn là nội
dung trọng tâm, thành phần chính của đề
tài/tác phẩm nghiên cứu. Do vậy, sẽ là trích
dẫn không hợp lý, nếu một người “Chiếm
đoạt” cơ sở lý thuyết, giải pháp từ tác phẩm
khác đưa vào tác phẩm mình đang thực hiện
và xem đó là của mình, trừ khi những nội
dung trích dẫn đó nhằm minh họa cho những
giải pháp, kiến nghị do mình nghĩ ra. Mặt
khác, cần lưu ý thêm, vi phạm trích dẫn hợp
lý trong trường hợp trên thường đi kèm với
vi phạm không ghi rõ tác giả, nguồn gốc tác
phẩm có nội dung được trích. Tháng 1/2017,
Nội san của Trường Đại học Sư phạm kỹ
5 Khoản 2 Điều 5 Luật Giáo dục đại học năm 2013 đã được sửa đổi , bổ sung năm 2018.
6 Khoản 2 Điều 55 Luật Giáo dục đại học năm 2013 đã được sửa đổi , bổ sung năm 2018.
7 Nghị định số 73/2015/NĐ-CP ban hành ngày 08 tháng 09 năm 2015 về “Tiêu chuẩn phân tầng khung xếp
hạng tiêu chuẩn xếp hạng cơ sở giáo dục đại học”.
Số 14 (414) - T7/202036
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
thuật thành phố Hồ Chí Minh (TP. HCM)
đăng bài viết của học viên cao học với tựa
đề “Khảo sát đánh giá mức độ ô nhiễm môi
trường do khí thải của mô tô xe máy tại TP.
HCM”. Tuy nhiên, sự việc ngay sau đó được
phát hiện là một nửa bài báo này lấy lại phần
đề xuất giải pháp trong văn luận văn thạc sĩ
khác (của trường Đại học Bách khoa TP.
HCM bảo vệ năm 2015) nhưng không ghi
nguồn tham khảo8. Một ví dụ khác, cuốn
“Xây dựng và bảo vệ Hiến pháp – Kinh
nghiệm thế giới và Việt Nam” do Nhà xuất
bản Giáo dục Việt Nam xuất bản năm 2010
cũng bị một tác phẩm vi phạm trích dẫn 153
dòng, trong đó rất nhiều kiến nghị, đề xuất
được trích dẫn nhưng không ghi rõ tác giả,
nguồn gốc, xuất xứ tác phẩm9.
Để chống lại thực trạng vi phạm này,
quy chế thư viện nhiều trường đại học không
cho phép sinh viên/học viên sao chép, photo
kiến nghị, đề xuất trong các tác phẩm, nhất
là luận văn, luận án, đề tài khoa học...
Thứ hai, tác phẩm có tỷ lệ nội dung trích
dẫn quá lớn, dẫn đến không tương quan
giữa lượng nội dung do tác giả sáng tạo, tự
nghĩ ra với phần trích dẫn. Trong trường
hợp này, phần nội dung trích dẫn không còn
mang tính bình luận, minh họa mà nghiễm
nhiên trở thành thành phần chính của tác
phẩm. Trường Đại học Lạc Hồng đã từng
ban hành Quyết định số 841/QĐ – ĐHLH10
thi hành kỷ luật cùng lúc đối với 15 sinh viên
nghiên cứu khoa học, vì có hành vi trích một
lượng lớn thông tin từ tác phẩm của tác giả
khác, chiếm từ một nửa đến hai phần ba đề
tài nghiên cứu.
Để hạn chế vi phạm như những trường
hợp này, quy chế chống đạo văn nhiều
trường đại học giới hạn tỷ lệ nội dung trích
dẫn trong sản phẩm khoa học, kể cả trích dẫn
có ghi nguồn. Quy chế trường Đại học Lạc
Hồng11 và trường Đại học Khoa học xã hội
8 Hồng Nhung: Sao chép trong khoa học, được không? Bài đăng trên Báo Tuổi trẻ, số ra ngày 11/01/2017 09:36
GMT+7 (https://tuoitre.vn/sao-chep-trong-khoa-hoc-duoc-khong-1250308.htm): “Tháng 1 năm 2017, Nội san
của Trường ĐH Sư phạm kỹ thuật TP. HCM đăng bài viết của học viên cao học Võ Thành Nhân với tựa đề
“Khảo sát đánh giá mức độ ô nhiễm môi trường do khí thải của mô tô xe máy tại TP. HCM”. Bài viết gồm 10
trang khổ A4, (đăng trên trang 41 đến trang 50 của Nội san. Trong đó, trang đầu giới thiệu tóm tắt bài viết, trang
cuối dẫn nguồn tài liệu tham khảo, còn lại 8 trang trình bày nội dung nghiên cứu khảo sát và giải pháp kỹ thuật
cùng với các sơ đồ, biểu đồ, hình minh họa. Tuy nhiên, sự việc ngay sau đó được phát hiện là một nửa bài
báo này (từ trang 46 đến trang 49) là lấy nguyên văn luận văn thạc sĩ của một học viên trường Đại học Bách
khoa TP. HCM bảo vệ thành công năm 2015. Trưởng khoa đào tạo chất lượng cao ĐH Sư phạm kỹ thuật TP.
HCM, xác nhận: trong bài báo này, học viên Nhân chỉ làm phần khảo sát đánh giá mức độ ô nhiễm môi trường
do khí thải của mô tô xe máy tại TP. HCM, sau đó sao chép phần đề xuất giải pháp của một học viên trường Đại
học Bách khoa TP. HCM mà không ghi nguồn tham khảo”. Như vậy, việc trích dẫn trong tình huống này vi
phạm khoản 1 Điều 23 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP. Bởi lẽ, việc trích dẫn ở đây không còn nhằm mục đích
giới thiệu, bình luận hoặc làm sáng tỏ vấn đề được đề cập trong tác phẩm của mình mà toàn bộ phần trích dẫn
(chiếm tỷ lệ 50%) nghiễm nhiên trở thành thành phần chính nhất trong tác phẩm – đó là những giải pháp.
9 Các tác giả Vũ Văn Nhiêm, Nguyễn Mạnh Hùng và Lưu Đức Quang viết cuốn “Cơ chế giám sát Hiến pháp
với việc bảo đảm quyền con người” (Nxb. Giáo dục Việt Nam, năm 2012) đã trích tổng cộng 153 dòng
(tương ứng khoảng 7 trang) từ phần viết của PGS.TS. Trương Đắc Linh trong cuốn “Xây dựng và bảo vệ
Hiến pháp – kinh nghiệm thế giới và Việt Nam” nhưng hoàn toàn không có bất kỳ chú thích nào về nguồn
trích dẫn, tức không thể hiện đoạn này là trích dẫn. Sách sau đó bị thu hồi.
10 Quyết định số 841/QĐ – ĐHLH của Hiệu trưởng trường Đại học Lạc Hồng ký ngày 15/06/2010 về việc thi
hành kỷ luật đối với sinh viên đạo văn trong nghiên cứu khoa học sinh viên lần thứ 14.
11 Quyết định Số 1130/QĐ-ĐHLH ngày 31/12/2016 của trường Đại học Lạc Hồng ban hành “Quy định về
việc kiểm soát và xử lý đạo văn trong các sản phẩm học thuật” (xem khoản 2 Điều 4)
37Số 14 (414) - T7/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
12 Quyết định số 02/QĐ ĐHLHNV-TTPC-SHTT ngày 19/1/ 2018 về việc ban hành Quy định về trích dẫn và
chống đạo văn của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh (khoản 3 Điều 5).
13 Quyết định số 250/QĐ-ĐHL ngày 03/03/ 2015 của Trường Đại học Luật TP.HCM quy định về trích dẫn
và chống đạo văn (khoản 3 Điều 5).
14 Quyết định số 291/QĐ-UEF ngày 30/8/2015 ban hành Quy định về trích dẫn và chống đạo văn của Trường
Đại học Kinh tế - Tài chính Thành phố Hồ Chí Minh (khoản 3 Điều 5).
và Nhân văn12 khống chế dưới 20% (Điều
4); trong khi đó, trường Đại học Luật TP.
HCM13 và trường Đại học Kinh tế - Tài
chính TP. HCM14 khống chế dưới 50%... Sản
phẩm khoa học có tỷ lệ nội dung trích dẫn
vượt quá giới hạn đó bị xác định trích dẫn
không hợp lý. Để kiểm soát quy định này,
nhiều trường trang bị phần mềm kiểm tra tỷ
lệ trùng lắp trích dẫn. Tuy nhiên, biện pháp
này không phải là giải pháp tối ưu, nếu
người thực hiện sản phẩm khoa học trích dẫn
từ những tác phẩm không nằm trong dữ liệu
của phần mềm.
Thứ ba, trích dẫn làm sai ý tác giả.
Khoản 1 Điều 25 Luật SHTT liệt kê các
trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố tuy
không phải xin phép, không phải trả tiền
nhuận bút, thù lao nhưng không làm sai ý tác
giả, trong đó quy định rõ: Trích dẫn hợp lý
tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình
luận hoặc minh họa trong tác phẩm của mình
(điểm b); trích dẫn tác phẩm để giảng dạy
trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả,
không nhằm mục đích thương mại (điểm d).
Trong môi trường giáo dục đại học, trích dẫn
trong giáo trình, tập bài giảng làm sai ý tác
giả không chỉ khiến thông tin bị nhiễu, người
học hoang mang, mà còn gây phương hại uy
tín khoa học của tác giả. Do vậy, trích dẫn
hợp lý phải bảo đảm tính chính xác tuyệt đối
nội dung nguyên tác, ngược lại là trích dẫn
không hợp lý theo khoản 2 Điều 22 Nghị
định số 22/2018/NĐ-CP. Người thực hiện
tác phẩm có thể đồng tình, phản biện nội
dung trích dẫn, nhưng tuyệt nhiên không
được suy diễn sai ý tác giả đối với phần trích
dẫn. Mỗi câu trong tác phẩm thể hiện một ý
nào đó của tác giả; nhiều câu tạo thành một
đoạn và nhiều đoạn tạo thành tác phẩm trong
một chỉnh thể logic về nội dung, ý tưởng.
Tuy nhiên, nhiều người trích dẫn cố tình ngắt
một phần câu/đoạn nên không truyền tải hết
logic nội dung, ngữ cảnh phần trích dẫn,
cũng như ý tưởng của tác giả có tác phẩm
được trích; thậm chí chèn thêm hoặc bớt một
vài từ trong phần trích dẫn để tăng tính
thuyết phục. Trong trường hợp, trích dẫn ý
tưởng có thể viết lại nội dung trích dẫn theo
ngôn ngữ của mình, nhưng vẫn phải bảo
đảm không làm sai lệch ý tưởng của tác giả.
Thứ tư, sản phẩm khoa học được hình
thành trên cơ sở cóp nhặt từ nhiều tác phẩm
khác. Trong môi trường giáo dục đại học,
khi thực hiện sản phẩm khoa học, tác giả
phải xác định nội dung và mục tiêu vấn đề
cần giải quyết; thậm chí đối với đề tài khoa
học, luận văn, luận án... còn yêu cầu phải có
tính mới. Những điều này tạo nên nội dung
chính của tác phẩm và phải do tác giả giả
thực hiện bằng chính lao động trí tuệ, nghiên
cứu của mình. Nếu cần, có thể trích dẫn tác
phẩm khác để làm nổi bật kết quả nghiên
cứu của mình. Do vậy, không thể gọi là sản
phẩm khoa học, nếu nó được hình thành
bằng cách chắp vá, cóp nhặt mỗi tác phẩm
một ít; những nội dung tự nghiên cứu rất mờ
nhạt, thậm chí không có. Nhất là trong điều
kiện hiện nay, việc tải và sao chép quá dễ
dàng thông tin đa dạng từ mạng internet,
cộng thêm thiếu ý thức tuân thủ pháp luật
Số 14 (414) - T7/202038
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
QTG, dẫn đến vi phạm trích dẫn không hợp
lý dạng này. Không quá khó để thấy vi phạm
trích dẫn dưới hình thức này trong các bài
tiểu luận, khóa luận tốt nghiệp, báo cáo
thuyết trình của sinh viên, kể cả luận văn cao
học, luận án tiến sỹ, thậm chí sách do giảng
viên biên soạn.
Như vậy, vi phạm trích dẫn hợp lý có
bốn biểu hiện cơ bản nêu trên và phổ biến
nhất trong môi trường giáo dục đại học hiện
nay. Thực hiện nghiêm túc việc trích dẫn hợp
lý tránh tình trạng nhập nhèm “vàng thau lẫn
lộn” thể hiện sự mập mờ, thiếu minh bạch
nên không thể xác định nội dung do tác giả
sáng tạo là thành phần chính của tác phẩm,
với nội dung trích dẫn mang tính minh họa,
giới thiệu, bình luận
Thực tế có sự nhầm lẫn giữa hai hành vi
trích dẫn với sao chép tác phẩm. Khoản 10
Điều 4 Luật SHTT định nghĩa: “Sao chép là
việc tạo ra một hoặc nhiều bản sao của tác
phẩm hoặc bản ghi âm, ghi hình bằng bất kỳ
phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả
việc lưu trữ thường xuyên hoặc tạm thời tác
phẩm dưới hình thức điện tử”. Như vậy, sao
chép được hiểu là lấy lại một phần hoặc toàn
bộ nội dung tác phẩm để tạo ra bản sao và
có thể nhằm tiếp tục thực hiện hành vi trái
pháp luật QTG khác như: phân phối, lưu trữ
hay sử dụng. Trong khi đó, trích dẫn là lấy
thông tin, dữ liệu từ tác phẩm này đưa vào
tác phẩm khác. Vì không phân biệt sự khác
nhau giữa hai hành vi này nên việc xử lý
không thỏa đáng trong trường hợp xảy ra vi
phạm. Cụ thể, một nhóm giảng viên Trường
Đại học Công nghiệp TP. HCM lấy nguyên
xi tác phẩm của một học viên, lồng ghép
thêm một số nội dung trong các tác phẩm
khác để hình thành đề tài nghiên cứu khoa
học với tên gọi mới nhưng bị xử lý hành vi
sao chép trái pháp luật15.
Chúng tôi cho rằng, không thể xem
hành vi của nhóm này là sao chép tác phẩm
bởi họ không có ý tạo ra bản sao tác phẩm
của học viên. Mặt khác, việc lấy toàn bộ nội
dung tác phẩm của tác giả khác lồng ghép
nhiều tác phẩm của nhiều tác giả khác một
cách có hệ thống và chủ ý để hình thành tác
phẩm mới thì không thể cho rằng đó là hành
vi vi phạm trích dẫn hợp lý. Trong trường
hợp này, định danh hành vi này thuộc loại
vi phạm gì là câu hỏi còn bỏ ngỏ, nhưng
nhà trường xử lý vi hành vi sao chép trái
pháp luật!
4. Kiến nghị
Thứ nhất, hoàn thiện quy định của
pháp luật về SHTT
Một là, sửa đổi Luật SHTT theo hướng
bổ sung định nghĩa “trích dẫn”; theo đó, “trích
dẫn là việc tái tạo chính xác hoặc sử dụng lại
nguyên văn một câu, đoạn văn bản, thông tin
từ tác phẩm này vào tác phẩm khác”.
Trước hết, trích dẫn là tái tạo chính xác
nội dung từ tác phẩm khác vào tác phẩm của
tác giả đang thực hiện. Tức người trích dẫn
có thể diễn giải, sắp xếp ý câu hoặc lấy ý
tưởng từ tác phẩm khác và sử dụng vốn ngôn
ngữ, kỹ năng trình bày của mình để diễn đạt.
Ở đây, chỉ tái tạo mà không lấy nguyên văn
phong, thông tin nhưng phải đảm bảo nội
dung chính xác tuyệt đối. Quy định như vậy
nhằm tránh trường hợp, lấy ý tưởng của tác
phẩm khác, “xào nấu” văn phong và cho đó
là nội dung sáng tạo của mình, nên không
ghi rõ nguồn.
- Trích dẫn còn có thể là sử dụng chính
xác một câu, một đoạn văn bản, thông tin.
Sử dụng chính xác ở đây được hiểu là lấy
15 https://baovephapluat.vn/van-hoa-xa-hoi/giao-duc/ung-vien-dat-chuan-pho-giao-su-2017-bi-to-sao-chep-
luan-van-50787.html, truy cập ngày 02/03/2018.
39Số 14 (414) - T7/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
nguyên nội dung, văn phong, thông tin mà
không có bất kỳ thay đổi nào về câu chữ, cấu
trúc, ngôn ngữ Mặt khác, “Một câu, một
đoạn văn bản thông tin” trong định nghĩa
này cũng có nghĩa là, khi sử dụng nhiều câu,
nhiều đoạn, thông tin vẫn được xem là trích
dẫn, tức là những lần trích dẫn khác nhau,
độc lập nhau. Do vậy, một tác phẩm mới có
thể trích dẫn nhiều lần, nhiều câu, nhiều
đoạn khác nhau trong cùng một tác phẩm
hình thành trước. Sở dĩ phải giới hạn một
câu, một đoạn nhằm loại bỏ trường hợp hành
vi lấy toàn bộ nội dung của tác phẩm này
đưa vào tác phẩm khác thì không thể xem là
trích dẫn.
Nhiều định nghĩa dừng lại đối tượng trích
dẫn là nội dung văn bản nên chưa sát thực tế.
Theo Từ điển từ và ngữ Việt Nam “trích dẫn”
là “Rút từ tác phẩm khác một câu hay một
đoạn để làm sáng tỏ lý luận của mình”16.
Theo Đại từ điển tiếng Việt “Trích dẫn” là
“Dẫn nguyên văn một câu hay một đoạn văn
để làm bằng”17. Theo định nghĩa của một tác
giả, “Trích dẫn là việc sử dụng một tác phẩm
(không đáng kể) của người khác để nêu bật ý
tác giả”18. Một định nghĩa khác, “Trích dẫn
là dẫn nguyên văn một câu hay một đoạn
văn”19. Trong khi đó, Từ điển Việt – Vietgle
định nghĩa, “Trích dẫn là dẫn nguyên văn một
câu hoặc một đoạn để làm bằng”20.
Tuy nhiên, nội dung được trích dẫn có
thể thể hiện dưới hình thức phi văn bản, nên
chúng tôi mở rộng hơn thông tin từ tác phẩm
khác. Cụ thể, chúng ta vẫn có thể trích dẫn
nội dung trên bản tin truyền hình, truyền
thanh, băng ghi âm, ghi hình bài giảng, lời
phát biểu trong hội thảo, tọa đàm Tuy
không thể hiện thành văn bản nhưng các loại
hình này vẫn là tác phẩm, được bảo hộ QTG.
Điểm b khoản 1 Điều 14 Luật SHTT xác
định bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác
thuộc loại hình tác phẩm được bảo hộ QTG.
Do vậy, việc giới hạn đối tượng trích dẫn chỉ
bao gồm các nội dung trong văn bản là hạn
hẹp và chưa tương thích với thực tế.
Hai là, sửa đổi Điều 23 Nghị định số
22/2018/NĐ-CP theo hướng quy định điều
kiện cụ thể “trích dẫn hợp lý”.
Trước đây Điều 12 Nghị định số
76/1996/NĐ-CP21 quy định:“Phần trích dẫn
tác phẩm đã công bố của người khác không
trở thành phần chính của tác phẩm mới;
phần trích dẫn này chỉ giới hạn trong phạm
vi giới thiệu, bình luận hoặc làm sáng tỏ vấn
đề trong tác phẩm của mình và phải ghi rõ
tên tác giả và nguồn gốc tác phẩm được
trích dẫn”. Quy định này hàm chứa nhiều
nội dung súc tích hơn, gồm 03 điều kiện:
Nội dung trích dẫn không được trở
thành phần chính của tác phẩm mới (tức
nghiêm cấm việc lấy phần trích dẫn làm nội
dung chính của tác phẩm mới);
Phần trích dẫn chỉ giới hạn trong phạm
vi giới thiệu, bình luận hoặc làm sáng tỏ vấn
đề trong tác phẩm của mình (tức xác định
mục đích trích dẫn);
Phải ghi rõ tên tác giả và nguồn gốc tác
phẩm được trích dẫn (nhằm tạo ra sự minh
16 Nguyễn Lân, Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb. Tổng Hợp Tp. Hồ Chí Minh, năm 2006, tr.1906.
17 Nguyễn Như Ý (chủ biên), Đại từ điển tiếng Việt (tái bản lần thứ 13), Nxb. Đại học quốc gia Tp. Hồ Chí
Minh, năm 2013, tr.1977.
18 Lê Nết: Quyền SHTT, Đại học Quốc gia, năm 2006, tr.72.
19 Viện Ngôn ngữ học: Từ điển Tiếng Việt phổ thông, Nxb. Phương Đông, 2002, tr.952.
20
21 Nghị định số 76/1996/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 29/11/1996 “Hướng dẫn thi hành một số quy
định về quyền tác giả trong Bộ luật Dân sự 1995”.
Số 14 (414) - T7/202040
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
bạch, bảo đảm cơ sở kiểm chứng và trên hết
là tôn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích của
tác giả có tác phẩm được trích).
Như vậy, so với Nghị định số
76/1996/NĐ-CP, quy định của Nghị định số
22/2018/NĐ-CP vừa thiếu, vừa thừa. Thiếu
là vì không có yêu cầu “trích dẫn phải ghi
rõ tác giả, nguồn, xuất xứ tác phẩm” và
không làm sai ý tác giả có tác phẩm được
trích”. Khoản 2 thừa đoạn “Phù hợp với tính
chất, đặc điểm của loại hình tác phẩm được
sử dụng để trích dẫn”, bởi không dễ trả lời
câu hỏi “Thế nào là tính chất, đặc điểm của
loại hình tác phẩm?”. Từ những lập luận
trên, chúng tôi đề xuất sửa đổi Điều 23 Nghị
định số 22/2018/NĐ-CP như sau:
Phần trích dẫn chỉ nhằm mục đích giới
thiệu, bình luận hoặc làm sáng tỏ vấn đề
được đề cập trong tác phẩm;
Nội dung trích dẫn không được trở
thành trở thành phần chính của tác phẩm;
Trích dẫn không được làm sai ý của tác
giả có tác phẩm được trích dẫn;
Phải ghi rõ tên tác giả và nguồn gốc,
xuất xứ tác phẩm được trích dẫn.
Ngoài ra, cần quy định hành vi vi phạm
trích dẫn hợp lý là xâm phạm QTG. Điều 28
Luật SHTT liệt kê 34 hành vi xâm phạm
QTG nhưng không có quy định nào về trích
dẫn. Trong môi trường giáo dục đại học,
hành vi trích dẫn không hợp lý có thể gây
ảnh hưởng tiêu cực uy tín khoa học, danh dự
của tác giả, xâm phạm quyền được nêu tên
thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công
bố, sử dụng (khoản 2 Điều 19 Luật SHTT).
Ba là, sửa đổi Nghị định số
22/2018/NĐ-CP theo hướng bổ sung quy
định về hình thức và phương pháp trích dẫn,
giới hạn tỷ lệ nội dung trích dẫn hợp lý trong
tác phẩm.
Quy định tỷ lệ tối thiểu buộc người thực
hiện đề tài phải tăng cường tìm đọc, tham
khảo, nghiên cứu trích dẫn; quy định tỷ lệ tối
đa sẽ giảm thiểu tình trạng lạm dụng trích
dẫn với mục đích làm cho tác phẩm hoành
tráng hơn, tăng số trang nhiều hơn nhưng
sản phẩm ít có tính sáng tạo, kém chất lượng.
Hiện nay, tùy đặc thù mỗi trường sẽ quy định
tỷ lệ này khác nhau tạo ra sự không công
bằng cho sinh viên/học viên, bởi cùng một
chuyên ngành đào tạo nhưng nghiên cứu,
học tập ở những cơ sở khác nhau, tỷ lệ nội
dung trích dẫn khác nhau. Hiện một số
trường đã có quy định nhưng không giống
nhau và chủ yếu quy định mức tối đa như đã
nêu ở trên.
Bên cạnh đó, cần quy định “Một tác
phẩm có thể được trích dẫn nhiều lần nhưng
không quá 10% nội dung tác phẩm mới;
vượt quá có thể xem là trích dẫn không hợp
lý”. Quy định này sẽ bảo đảm phần trích dẫn
không thể trở thành thành phần chính trong
tác phẩm mới; tránh trường hợp tác phẩm
hình thành sau có quá nhiều điểm tương
đồng về nội dung với tác phẩm được trích.
Thứ hai, tăng cường giáo dục pháp
luật về bảo vệ quyền tác giả cho sinh viên,
giảng viên.
Đối với sinh viên, trước hết cần đa dạng
hóa các hình thức nhằm nâng cao hiểu biết,
nhận thức pháp luật QTG, trong đó tập trung
vào hai trụ cột chính là giáo dục và tuyên
truyền pháp luật QTG. Giáo dục pháp luật
QTG có thể hiểu là nhà trường thông qua các
hình thức, phương pháp khác nhau tác động
lên người học một cách có hệ thống, kế
hoạch với những định hướng, nguyên tắc
nhất định; qua đó hình thành ở họ tri thức,
tình cảm đối với pháp luật QTG. Trong khi
đó, tuyên truyền pháp luật QTG thông qua
các hoạt động ngoại khóa giúp sinh viên
nhận thức đúng đắn, đầy đủ hơn pháp luật
QTG, đồng thời làm chuyển biến thái độ
theo chiều hướng tích cực, thúc đẩy họ hành
động theo những điều đã nhận thức. Một
trong những ưu thế của hoạt động giáo dục,
41Số 14 (414) - T7/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
tuyên truyền pháp luật QTG trong môi
trường giáo dục đại học là mặt bằng nhận
thức khá đồng đều, các điều kiện vật chất và
nguồn nhân lực thực hiện sẵn có, có thể lồng
ghép vào chương trình đào tạo, giảng dạy,
ngoại khóa
Bên cạnh đó, đối với sinh viên tham gia
nghiên cứu khoa học, thực hiện đề tài tốt
nghiệp hay sinh viên các ngành đào tạo thiên
về xu hướng nghiên cứu, nhà trường cần tổ
chức tập huấn, giảng dạy trang bị kỹ năng
nghiên cứu, thực hành việc trích dẫn. Đây là
điều gần như còn bỏ ngỏ, chưa được sự quan
tâm đúng mức ở các trường đại học. Trong
khi đó, hiện nay nhiều trường chỉ tập trung
nguồn lực xây dựng phần mềm, ban hành
quy chế... kiểm soát đạo văn, trích dẫn
không ghi rõ nguồn.
Đối với đội ngũ giảng viên, cần nêu cao
tinh thần “liêm chính và đạo đức học thuật”
bằng những cơ chế cụ thể. Giảng viên đại
học có 02 nhiệm vụ trọng tâm là giảng dạy
và nghiên cứu nên không thể cho rằng nhiệm
vụ nào quan trọng hơn mà cả hai quan trọng
như nhau. Tuy nhiên, lâu nay chúng ta gần
như tập trung vào nhiệm vụ giảng dạy, chẳng
hạn quy định để trở thành giảng viên bắt
buộc phải tham gia khóa đào tạo nghiệp vụ
sư phạm, kỹ năng giảng dạy. Trong khi đó,
hiện không có bất kỳ điều luật nào quy định
điều kiện để trở thành giảng viên phải được
đào tạo, tập huấn chuyên sâu về kỹ năng
nghiên cứu. Do vậy, tuy là giảng viên nhưng
không phải ai cũng có thể nhận thức đầy đủ
ý nghĩa, vai trò của hoạt động nghiên cứu,
kỹ năng và ứng dụng kỹ năng nghiên cứu.
Năng lực nghiên cứu của mỗi giảng viên
được hình thành do sự trải nghiệm bản thân,
khả năng lĩnh hội kinh nghiệm từ các thế hệ
trước, được hun đúc và hình thành qua thực
tiễn, thời gian, qua quá trình tôi luyện...
Nhưng không ít giảng viên bỏ qua sự hun
đúc này lại mau chóng muốn khẳng định tên
tuổi, thể hiện năng lực của mình cộng với
việc thiếu hiểu biết phương pháp nghiên
cứu, trích dẫn nên sẵn sàng sao chép, cóp
nhặt một cách tùy tiện, cẩu thả hình thành
nên những tác phẩm, ẩn trong đó sự lừa dối
người đọc, chiếm đoạt tri thức của thầy, cô,
đồng nghiệp, thậm chí của học trò mình. Mặt
khác, một bộ phận giảng viên chạy theo
“danh và lợi” nên bất chấp đạo đức, liêm
chính học thuật. Những trường hợp này dứt
khoát phải có cơ chế mạnh mẽ, thậm chí kỷ
luật cho thôi việc và cấm vô thời hạn quyền
hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, tức cho
ra khỏi ngành vĩnh viễn. Thậm chí những
người tiếp tay, hỗ trợ cũng phải xem xét xử
lý một cách nghiêm minh.
Thứ ba, cần xác định các mức độ bảo
đảm ngăn ngừa hành vi trích dẫn trái pháp
luật cũng như sự tuân thủ pháp luật quyền
tác giả trong môi trường giáo dục đại học.
Mặc dù trong thời gian qua, nhiều
trường đã nổ lực bảo vệ QTG, chống nạn
đạo văn, vi phạm trích dẫn nhưng vẫn
chưa tạo ra sự thay đổi đột biến, mới giải
quyết phần ngọn của vấn đề và cho thấy sự
lúng túng trong việc tìm những giải pháp,
định hướng căn cơ bảo vệ QTG. Chẳng hạn,
thay vì nỗ lực ngăn ngừa hành vi vi phạm
trích dẫn ngay từ đầu thì lại tập trung vào
việc kiểm tra, xử lý việc đã rồi. Chúng tôi
cho rằng, việc bảo vệ QTG nói chung, nhất
là đối với hành vi vi phạm trích dẫn nói
riêng, cần ngăn ngừa theo các bậc với thứ tự
ưu tiên sau:
(1) Dựa vào cam kết tính trung thực,
thành thật của sinh viên, giảng viên. Chẳng
hạn, cần quy định, sinh viên, giảng viên khi
viết sách, đề tài phải cam kết mạnh mẽ trong
lời dẫn nhập/mở đầu rằng: “Sản phẩm này
là kết quả nghiên cứu nghiêm túc, trung thực
của tôi/chúng tôi; hoàn toàn không có bất kỳ
sự gian lận nào, không vi phạm về trích dẫn
cũng như pháp luật QTG và sẽ chịu mọi
trách nhiệm nếu cam kết này không đúng sự
thật”. Để những dòng này thể hiện ngay lời
nói đầu cũng là cách nhắc nhở sinh viên,
giảng viên khi sử dụng tác phẩm của tác giả
khác với sự tôn trọng, trung thực nhất.
(2) Người chủ biên (đối với sách có
nhiều tác giả) và người hướng dẫn (đối với
đề tài). Thường những giảng viên có kinh
nghiệm, có học hàm, học vị nhất định mới
có thể thực hiện những vai trò này. Do vậy,
bằng uy tín khoa học, đạo đức nghề nghiệp,
liêm chính học thuật họ tạo ra sự ảnh hưởng
rất lớn đến các đồng tác giả hoặc sinh
viên/học viên họ hướng dẫn. Bằng kinh
nghiệm, năng lực của mình và thông qua
một trao đổi, nghi vấn sẽ không khó phát
hiện những “bất thường” hay ”bình thường”
trong nội dung nghiên cứu. Qua đó, có thể
xác định những nội dung do sinh viên/học
viên, đồng tác giả nghiên cứu nghiêm túc
hay vay mượn, cóp nhặt.
(3) Sử dụng các công cụ phần mềm kiểm
tra. Tuy nhiên, các công cụ này không phải
là giải pháp hoàn toàn tối ưu mà vẫn còn
những hạn chế nhất định, nhất là vi phạm
trích dẫn, đạo văn ngày càng tinh vi và từ
nhiều nguồn tài liệu khác nhau nên không thể
phát hiện hết. Các phần mềm này chỉ nhận
diện những thông tin trùng lắp với tác phẩm
đã được mã hóa trước. Việc tác phẩm vi
phạm trích dẫn đối với những tài liệu chưa
được mã hóa hoặc trích dẫn không cụ thể, mơ
hồ các phần mềm không thể phát hiện được.
(4) Người phản biện, thẩm định, đánh
giá. Đây là “cánh cửa” rất quan trọng, thậm
chí “định đoạt” số phận của tác phẩm là phải
sửa lại hay hủy bỏ. Bằng kinh nghiệm, kỹ
năng của mình người giữ vai trò này có quyền
đặt ra câu hỏi, truy vấn đến cùng những điều
họ cho là bất thường hay những nội dung
chưa thật sự thuyết phục, qua đó có thể phát
hiện những sai sót trong trích dẫn mà phần
mềm máy tính không thể phát hiện được.
(5) Dư luận xã hội (thông qua mạng xã
hội, báo chí, phát thanh, truyền hình”. Đây
là những kênh quan trọng, góp phần hỗ trợ
đắc lực trong việc bảo vệ QTG nói chung.
Bốn bậc ngăn ngừa trên mang tính nội bộ
nhưng khi sản phẩm đến xã hội cũng đồng
nghĩa là chịu sự phản biện, giám sát của dư
luận nên khó vượt qua, nếu thực sự có vi
phạm. Các vụ vi phạm trích dẫn, đạo văn
trong thời gian qua bị phanh phui chủ yếu
bởi truyền thông hay cư dân mạng.
(6) Các biện pháp xử lý vi phạm QTG.
Biện pháp xử lý trước hết mang tính chất
trừng phạt người vi phạm QTG phải gánh
chịu những hậu quả, tổn thất nhất định.
Đồng thời, nếu vi phạm xảy ra liên quan
nhiều người, phải thiết lập các biện pháp
mang tính “Cộng đồng và liên đới trách
nhiệm”. Chẳng hạn, trong trường hợp, nhóm
đồng tác giả nghiên cứu có người vi phạm
thì chủ biên và các đồng tác giả khác cũng
phải chịu trách nhiệm ở những mức độ khác
nhau; hoặc học viên thực hiện đề tài vi
phạm, giáo viên hướng dẫn, hội đồng bảo vệ
cũng phải có trách nhiệm, nếu chứng minh
có dung túng, thiếu trách nhiệm. Như vậy,
qua việc răn đe còn có tác dụng phòng,
chống, ngăn ngừa, tức buộc người học phải
trung thực, người dạy, người hướng dẫn phải
nâng cao trách nhiệm.
Tóm lại, những giải pháp nêu trên góp
phần chấn chỉnh vấn nạn đạo văn, trích dẫn
tùy tiện trong giảng dạy, học tập, nghiên cứu
ở bậc đại học. Vấn đề còn lại là chúng ta cần
phải khẩn trương: (1) sửa đổi, bổ sung pháp
luật QTG sát thực tế nhất và (2) thực thi
pháp luật QTG một cách nghiêm túc, triệt để
nhất có thể. Trong môi trường giáo dục đại
học Việt Nam hiện nay, cần chú ý đến các
bậc ngăn ngừa vi phạm trích dẫn nói riêng,
pháp luật QTG nói chung để có lộ trình, định
hướng chiến lược và giải pháp cụ thể n
Số 14 (414) - T7/202042
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- trich_dan_hop_ly_tac_pham_thuc_tien_trong_nghien_cuu_giang_d.pdf