4.1. Về đặc điểm bệnh nhân trong hai nhóm
nghiên cứu
Bệnh nhân trong hai nhóm nghiên cứu được
đánh giá độ đồng đều về tuổi, điểm ASA, thời
gian nằm viện trước mổ, lý do chỉ định mổ lấy
thai và thời gian phẫu thuật. Kết quả nghiên cứu
cho thấy cả hai nhóm đều có phân bố độ tuổi tập
trung từ 18 – 44 tuổi. Tuổi trung bình của nhóm
KSDP và nhóm chứng lần lượt là 28,8±4,9 và
28,8±5,3 tuổi, sự khác biệt không có ý nghĩa
thống kê. Độ tuổi của các bệnh nhân mổ lấy thai
trong nghiên cứu phù hợp với độ tuổi sinh đẻ và
phù hợp nghiên cứu của Tống Văn Khải và
Nguyễn Huy Tuấn [5-6]. Phần lớn bệnh nhân
trong cả nhóm KSDP và nhóm chứng đều có
điểm ASA = 1. Với điểm số nguy cơ này, bệnh
nhân trong cả hai nhóm đều không nằm trong
nhóm có nguy cơ cao gặp nhiễm khuẩn sau mổ.
Về lý do chỉ định mổ lấy thai, lý do bất thường
đường sinh dục từ mẹ chiếm tỷ lệ cao nhất (chủ
yếu do tử cung có sẹo mổ cũ), 58,0% ở nhóm
KSDP và 50,0% ở nhóm chứng. Thời gian phẫu
thuật trung bình không khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa nhóm KSDP (69,8±10,6 phút) so
với nhóm đối chứng (72,9±9,3 phút). Phẫu thuật
mổ lấy thai trong nghiên cứu là loại phẫu thuật
sạch nhiễm với thời gian mổ ngắn, phù hợp với
việc sử dụng kháng sinh dự phòng [2].
Các kết quả trên cho thấy, sự khác nhau về
đặc điểm bệnh nhân giữa hai nhóm sử dụng
KSDP và nhóm đối chứng là không có ý nghĩa
thống kê.
4.2. Về hiệu quả sử dụng kháng sinh trên lâm sàng
Hiệu quả sử dụng kháng sinh trên lâm sàng
của cả hai nhóm được đánh giá theo các tiêu chí
bao gồm: tỷ lệ phải chuyển đổi phác đồ, tình
trạng nhiễm khuẩn vết mổ sau 30 ngày phẫu
thuật (bao gồm NKVM nông, NKVM sâu, NK
khoang cơ thể). Kết quả nghiên cứu cho thấy
2/100 bệnh nhân (chiếm 2%) phải chuyển đổi
phác đồ. Đây là tỷ lệ chấp nhận được vì bên cạnh
việc sử dụng kháng sinh dự phòng để tránh
nhiễm khuẩn cần phải tuân thủ nghiêm ngặt quy
trình chăm sóc bệnh nhân sau mổ. Cả 2 nhóm
đều có 2 bệnh nhân chuyển đổi phác đồ hoặc tái
nhập viện trong vòng 30 ngày sau mổ. Ngoài các
yếu tố liên quan đến chăm sóc, sử dụng thuốc,
còn do nguyên nhân từ tình trạng bệnh lý của
bệnh nhân. Thời gian nằm viện sau mổ trung
bình của nhóm KSDP là 4,8 ngày thấp hơn so
nhóm đối chứng là 5,5 ngày, sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê. Tổng hợp từ kết quả nghiên cứu
cho thấy việc sử dụng kháng sinh dự phòng
ampicilin + sulbactam đạt được hiệu quả trên
lâm sàng tương đương so với khi sử dụng kháng
sinh điều trị thường quy. Hiệu quả của việc áp
dụng kháng sinh dự phòng trên bệnh nhân mổ lấy
thai cũng đã được chỉ ra từ tổng quan hệ thống
của F.M. Smaill và cộng sự [7].
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Triển khai chương trình kháng sinh dự phòng trong mổ lấy thai tại bệnh viện trung ương Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 68-74
68
Original Article
Implementation of Antibiotic Prophylaxis Program for
Cesarean Section at Thai Nguyen National Hospital
Nguyen Thi Thu Thuy1, Nguyen Thanh Hai1, Nguyen Xuan Bach2,
Hoang Thi Thu Huong3, Nguyen Chi Cuong3, Pham Thi Thuy Van1,*
1Hanoi University of Pharmacy, 13-15 Le Thanh Tong, Hoan Kiem, Hanoi, Vietnam
2VNU University of Medicine and Pharmacy, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
3Thai Nguyen National Hospital, 479 Luong Ngoc Quyen, Phan Dinh Phung, Thai Nguyen, Vietnam
Received 28 July 2020
Revised 17 August 2020; Accepted 13 October 2020
Abstract: This study aims to evaluate the effectiveness of the use of antibiotic prophylaxis in
cesarean section at Thai Nguyen National Hospital as a first pilot activity of a surgical prophylaxis
program. In the study, a randomized controlled trial was designed with two groups: intervention
group and control group. Patients characteristics and effectiveness of prophylactic antibiotics for
caesarean section were compared. The study results show that the patients’ ages ranged from 18 to
44 years; most of the patients had ASA score of 1; and mean hospital length of stay was statistically
significant between the two groups (p<0.05). Regarding the indication of caesarean section, the
reason of genital tract abnormalities accounted for the highest proportion. The percentage of the
patients switching from prophylactic antibiotic regimens to therapeutic antibiotics in the intervention
group was 2%. There was no patient with superficial and/or deep incisional surgical site infections
in both groups. The difference in mean number of injections in the two groups was statistically
significant (p<0.05). The average cost of antibiotics for each patient in the intervention group and
control group were 267.720 VND and 543.871 VND, respectively. The study concludes that the
effectiveness of antibiotics prophylaxis for caesarean section: 99% of the patients were without
wound infection; hospital length of stay in the intervention group was shorter than the control group;
and using prophylactic antibiotics was not only more economical but could also reduce the workload
of medical staff, costs of antibiotics and medical supplies.
Keywords: Antibiotics prophylaxis, caesarean section, Thai Nguyen National Hospital.*
________
* Corresponding author.
E-mail address: vanptt@hup.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1132/vnumps.4261
N.T.T. Thuy et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 68-74 69
Triển khai chương trình kháng sinh dự phòng trong mổ lấy
thai tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên
Nguyễn Thị Thu Thủy1, Nguyễn Thành Hải1, Nguyễn Xuân Bách2,
Hoàng Thị Thu Hương3, Nguyễn Chí Cường3 Phạm Thị Thúy Vân1,*,
1Trường Đại học Dược Hà Nội, 13-15 Lê Thánh Tông, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam
2Trường Đại học Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội,144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
3Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên, 479 Lương Ngọc Quyến, Phan Đình Phùng, Thái Nguyên, Việt Nam
Nhận ngày 28 tháng 7 năm 2020
Chỉnh sửa ngày 17 tháng 8 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 13 tháng 10 năm 2020
Tóm tắt: Triển khai chương trình kháng sinh dự phòng là một trong những cấu phần quan trọng của
chương trình quản lý sử dụng kháng sinh tại bệnh viện. Tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên,
kháng sinh dự phòng trong ngoại khoa vẫn chưa được áp dụng thường quy. Do vậy nghiên cứu này
được thực hiện với mục tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng kháng sinh dự phòng (KSDP) trong mổ lấy
thai tại Khoa Sản, Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên, như là một hoạt động thí điểm đầu tiên cho
chương trình kháng sinh dự phòng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu lâm sàng
ngẫu nhiên có đối chứng tiến hành trên 2 nhóm bệnh nhân: nhóm dùng KSDP và nhóm đối chứng.
Các chỉ tiêu được so sánh giữa hai nhóm bao gồm: đặc điểm bệnh nhân, tính hiệu quả của KSDP
trong mổ lấy thai. Kết quả: độ tuổi bệnh nhân mổ lấy thai từ 18 – 44 tuổi. Số bệnh nhân có điểm
ASA = 1 chiếm tỷ lệ cao nhất. Sự khác biệt về thời gian nằm viện giữa nhóm sử dụng KSDP và
nhóm đối chứng có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Lý do chỉ định mổ lấy thai của 2 nhóm do bất
thường đường sinh dục chiếm tỷ lệ cao. Nhóm sử dụng KSDP có 2% bệnh nhân phải chuyển đổi
sang kháng sinh điều trị. Không có bệnh nhân nào nhiễm khuẩn vết mổ nông và sâu ở cả 2 nhóm.
Sự khác biệt về số mũi tiêm trung bình ở 02 nhóm có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Chi phí về kháng
sinh trung bình mỗi bệnh nhân của nhóm KSDP và nhóm đối chứng lần lượt là 267.720 đồng và
543.871 đồng. Kết luận: về hiệu quả của sử dụng KSDP, bệnh nhân không có nhiễm khuẩn vết mổ
NKVM là 99%, 1% bệnh nhân có NKVM. Thời gian nằm viện sau mổ trung bình của nhóm KSDP
thấp hơn so nhóm đối chứng. Sử dụng kháng sinh dự phòng đạt hiệu quả kinh tế cao hơn, tiết kiệm
công lao động và vật tư tiêu hao.
Từ khóa: Kháng sinh dự phòng, mổ lấy thai, Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên.
1. Mở đầu*
NKVM là một trong những nhiễm khuẩn
thường gặp, đứng hàng đầu trong các nhiễm
khuẩn bệnh viện hiện nay. Ước tính hàng năm có
khoảng 2% số bệnh nhân phẫu thuật bị NKVM
và tỷ lệ này còn cao hơn trên nhóm bệnh nhân có
________
* Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: vanptt@hup.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1132/vnumps.4261
nguy cơ cao. Một trong những can thiệp nhằm
hạn chế số ca NKVM là sử dụng kháng sinh dự
phòng (KSDP) [1]. Kháng sinh dự phòng là một
trong các nội dung quan trọng trong chương trình
quản lý kháng sinh. Tại Việt Nam, một số bệnh
viện tuyến Trung ương đã bắt đầu áp dụng KSDP
trong phẫu thuật cắt túi mật, cột sống, tiêu hóa,
N.T.T. Thuy et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 68-74 70
mổ lấy thai, nhưng biện pháp này chưa áp
dụng tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên.
Tại bệnh viện, mổ lấy thai (loại phẫu thuật có thể
áp dụng được KSDP) chiếm tỷ lệ lớn trong số
bệnh nhân được phẫu thuật nhưng các hướng dẫn
sử dụng KSDP trong phẫu thuật mổ lấy thai vẫn
còn nhiều điểm chưa đồng thuận về phác đồ ưu
tiên, thời điểm dùng thuốc [2-4]. Chính vì lý do
này, bệnh viện đã triển khai xây dựng phác đồ và
từng bước áp dụng kháng sinh dự phòng trong
mổ lấy thai và trong báo cáo này, chúng tôi tập
trung đánh giá hiệu quả sử dụng kháng sinh dự
phòng trong mổ lấy thai tại Khoa Sản, Bệnh viện
Trung ương Thái Nguyên.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân có thai đủ tuần, được mổ lấy thai
tại Khoa Sản, Bệnh viện Trung ương Thái
Nguyên từ ngày 01 tháng 3 năm 2018 đến ngày
01 tháng 5 năm 2018.
Kháng sinh trong nghiên cứu:
Kháng sinh dự phòng (kháng sinh được lựa
chọn theo ý kiến đồng thuận cao nhất của bác sĩ):
ampicilin + sulbactam 1,5g với biệt dược
Unasyn của hãng Haupt pharma Latina S.R.L,
sản xuất tại Ý.
Kháng sinh điều trị: Ceftizoxim 1g với biệt
dược Ceftibiotic của hãng Tenamyd pharma, sản
xuất tại Việt Nam, là kháng sinh đang áp dụng
thường quy tại khoa.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu tiến hành
trên 100 bệnh nhân được áp dụng KSDP và 100
bệnh nhân ở nhóm chứng dùng phác đồ thường
quy của bệnh viện. Tùy theo phân nhóm ngẫu
nhiên, bệnh nhân sẽ được sử dụng kháng sinh
theo phác đồ sau:
Nhóm I (Nhóm KSDP): bệnh nhân được
tiêm tĩnh mạch chậm 1 liều 2 lọ ampicilin +
sulbactam 1,5g (Unasyn) trước lúc rạch da 3-5
phút (trước khi gây tê tủy sống). Sau đó được
nhắc lại 2 liều, mỗi liều 1 lọ ampicilin +
sulbactam 1,5g sau mỗi 6 giờ. Bệnh nhân không
dùng thêm bất cứ kháng sinh nào cho đến khi ra
viện hoặc khi có chẩn đoán nhiễm khuẩn vết mổ.
Nhóm II (Nhóm chứng): bệnh nhân được sử
dụng kháng sinh thường quy theo kinh nghiệm
của bác sỹ, tại thời điểm nghiên cứu kháng sinh
được sử dụng là ceftizoxim (biệt dược
Ceftibiotic) với liều dùng 1g/lần, 2 lần/ngày.
Quy trình nghiên cứu:
- Thu nhận bệnh nhân vào mẫu nghiên cứu và
bốc thăm để phân nhóm ngẫu nhiên bệnh nhân.
- Điền thông tin bệnh nhân vào phiếu thu
thập thông tin ban đầu.
- Thực hiện quy trình phẫu thuật thường quy
và thực hiện phác đồ kháng sinh tương ứng với
từng nhóm.
- Theo dõi bệnh nhân vào buổi sáng hằng
ngày trong thời gian nằm viện, thu thập thông tin
từ bệnh án và ghi hồ sơ bệnh án nghiên cứu. Ghi
lại lý do chuyển từ KSDP sang kháng sinh điều
trị (nếu có).
- Theo dõi hai nhóm bệnh nhân về tình trạng
NKVM sau khi ra viện bằng cách phỏng vấn qua
điện thoại và lấy thông tin về tình trạng tái nhập
viện từ phần mềm quản lý bệnh viện sau ngày 30
kể từ ngày mổ lấy thai.
- Nhập số liệu và xử lý số liệu.
Phương pháp thu thập và xử lý số liệu:
Số liệu được nhập và xử lý theo các thuật
toán thống kê y học, sử dụng phần mềm SPSS
20.0 để tính giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, giá
trị trung vị của các biến số, so sánh các trị số
trung bình bằng test T – student khi biến số có
phân phối chuẩn, test Kruskal Wallis khi biến số
không có phân phối chuẩn và so sánh các tỷ lệ
quan sát bằng test χ2. Sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê nếu p <0,05.
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Đặc điểm của bệnh nhân tham gia nghiên cứu
Theo đề cương, 200 bệnh nhân của 2 nhóm
đủ tiêu chuẩn lựa chọn được đưa vào nghiên cứu.
N.T.T. Thuy et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 68-74 71
Tuổi: độ tuổi bệnh nhân mổ lấy thai từ 18 –
44 tuổi. Tuổi nhỏ nhất trong nhóm KSDP là 19
tuổi, trong nhóm chứng là 18 tuổi. Tuổi lớn nhất
là 44 tuổi ở cả 2 nhóm (Bảng 1).
Bảng 1. Phân bố bệnh nhân theo tuổi
Độ tuổi Nhóm KSDP
(N=100)
Nhóm chứng
(N=100)
p
< 20 2 4
20 – 29 60 49
30 – 39 36 46
≥ 40 2 1
Trung bình (tuổi) 28,0 ± 4,9 28,8 ± 5,3 >0,05
Tuổi nhỏ nhất
Tuổi lớn nhất
19
44
18
44
Bảng 2. Thang điểm ASA đánh giá thể trạng bệnh nhân
Điểm ASA Nhóm KSDP
(N=100)
Nhóm chứng
(N=100)
p
1 88 (88,0%) 80 (80,0%) >0,05
2 12 (12,0%) 18 (18,0%)
3 0 (0%) 2 (2,0%)
Tổng 100 100
Tình trạng bệnh nhân trước mổ theo điểm
ASA: trong nghiên cứu, bệnh nhân trong cả hai
nhóm chủ yếu có điểm ASA = 1 (80% ở nhóm
chứng và 88% ở nhóm KSDP) (Bảng 2).
Thời gian nằm viện và thời gian phẫu thuật:
thời gian nằm viện ở nhóm KSDP thấp hơn có ý
nghĩa thống kê so với nhóm chứng với p < 0,05
(Bảng 3).
Bảng 3. Thời gian nằm viện và thời gian phẫu thuật
Chỉ tiêu
Nhóm KSDP
(N=100)
Nhóm chứng
(N=100)
p
Thời gian nằm viện (ngày)
Trung bình ± SD 6,1 ± 1,2 6,6 ± 1,1 0,0007
Thời gian phẫu thuật (phút)
Trung bình ± SD 69,8 ± 10,6 72,9 ± 9,3 0,0298
*Biểu diễn dưới dạng: Trung bình ± Độ lệch chuẩn (ngày)
Bảng 4. Lý do chỉ định mổ lấy thai
Lý do chỉ định, n(%)
Nhóm KSDP
(N=100)
Nhóm chứng
(N=100)
Bất thường đường sinh dục 58 (58,0%) 50 (50,0%)
Bất thường do thai 27 (27,0%) 30 (30,0%)
Bất thường do phần phụ của thai 27 (27,0%) 43 (43,0%)
Khác 4 (4,0%) 8 (8,0%)
Ghi chú: Mỗi bệnh nhân có thể có nhiều lý do chỉ định mổ lấy thai
N.T.T. Thuy et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 68-74 72
Lý do chỉ định mổ lấy thai: lý do chỉ định mổ
lấy thai do bất thường đường sinh dục chiếm tỷ
lệ cao nhất ở cả hai nhóm trong đó nhóm KSDP
chiếm 58,0%, nhóm chứng chiếm 50,0%. Vết
mổ cũ là lý do chính của chỉ định này (Bảng 4).
3.2. Hiệu quả của kháng sinh dự phòng trong mổ
lấy thai
3.2.1. Hiệu quả của KSDP trên lâm sàng của
2 nhóm bệnh nhân
Trong nhóm sử dụng kháng sinh dự phòng
có 2 bệnh nhân phải chuyển đổi sang kháng sinh
điều trị trong thời gian nằm viện. Trong cả 2
nhóm sử dụng KSDP và nhóm chứng, bệnh nhân
không có nhiễm khuẩn vết mổ chiếm lần lượt là
99% và 98%, bệnh nhân có nhiễm khuẩn khoang
cơ thể chiếm lần lượt là 1% và 2%. Không có
bệnh nhân nào nhiễm khuẩn vết mổ nông và sâu.
Thời gian nằm viện ở nhóm KSDP thấp hơn có
ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng với p < 0,05
(Bảng 5).
Các tác dụng không mong muốn và các biến
cố của KSDP trong nghiên cứu:
Qua theo dõi các đối tượng nghiên cứu trong
thời gian nằm viện cũng như 30 ngày kể từ khi
ra viện, chúng tôi không ghi nhận trường hợp nào
có tai biến tại chỗ tiêm hoặc toàn thân và gặp tác
dụng không mong muốn khi dùng kháng sinh
ampicilin + sulbactam (Unasyn). Trong nhóm
KSDP, có 2 bệnh nhân chuyển đổi phác đồ từ
dùng ngắn hạn ampicilin + sulbactam sang dùng
kháng sinh điều trị, trong đó chỉ có 1 bệnh nhân
bác sỹ kết luận là nhiễm khuẩn khoang cơ thể.
Trong nhóm chứng, chúng tôi ghi nhận 2 bệnh
nhân phải tái nhập viện vào ngày thứ 8 và ngày
thứ 17 sau khi ra viện và được bác sỹ kết luận
NKVM sau mổ lấy thai.
Bảng 5. Hiệu quả của KSDP trên lâm sàng
Tiêu chí đánh giá
Nhóm KSDP
(N=100)
Nhóm
chứng
(N=100)
p
Tỷ lệ chuyển đổi phác đồ, n (%) 2 (2%) 0 (0%)
Tình trạng nhiễm khuẩn vết mổ, n (%)
Không NKVM 99 (99%) 98 (98%)
Nhiễm khuẩn vết mổ nông 0 (0%) 0 (0%)
Nhiễm khuẩn vết mổ sâu 0 (0%) 0 (0%)
Nhiễm khuẩn khoang cơ thể 1 (1%) 2 (2%)
Thời gian nằm viện sau mổ
Trung bình (ngày) ± SD 4,8 ±1,2 5,5 ±1,0 0,00005
Bảng 6. Chi phí trung bình kháng sinh trong 2 nhóm
Kháng sinh sử dụng
Nhóm KSDP
(N=100)
Nhóm chứng
(N=100)
Tổng số kháng sinh sử dụng (lọ) 410 1312
Chi phí trung bình kháng sinh/1 bệnh nhân
(đồng)
267720 ± 1672 549572± 105075
Số mũi tiêm, trung bình ± SD 4,04 ± 0,28 12,8 ± 1,95*
Chi phí trung bình vật tư tiêu hao trên một
bệnh nhân (đồng)
3690 12180
*: p<0,05
N.T.T. Thuy et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 68-74 73
3.2.2 Hiệu quả về kinh tế
Chi phí kháng sinh và vật tư tiêu hao.
Chi phí kháng sinh trung bình trên một bệnh
nhân của nhóm KSDP giảm bằng gần ½ so với
nhóm chứng (Bảng 6). Số mũi tiêm trung bình ở
nhóm KSDP chỉ có 4 mũi tiêm, thấp hơn có ý
nghĩa thống kê so với nhóm chứng (13 mũi) (p <
0,05), từ đó giúp giảm bớt được công việc cho
nhân viên y tế, giảm được vật tư tiêu hao đi kèm
như bông, cồn, bơm tiêm.
4. Bàn luận
4.1. Về đặc điểm bệnh nhân trong hai nhóm
nghiên cứu
Bệnh nhân trong hai nhóm nghiên cứu được
đánh giá độ đồng đều về tuổi, điểm ASA, thời
gian nằm viện trước mổ, lý do chỉ định mổ lấy
thai và thời gian phẫu thuật. Kết quả nghiên cứu
cho thấy cả hai nhóm đều có phân bố độ tuổi tập
trung từ 18 – 44 tuổi. Tuổi trung bình của nhóm
KSDP và nhóm chứng lần lượt là 28,8±4,9 và
28,8±5,3 tuổi, sự khác biệt không có ý nghĩa
thống kê. Độ tuổi của các bệnh nhân mổ lấy thai
trong nghiên cứu phù hợp với độ tuổi sinh đẻ và
phù hợp nghiên cứu của Tống Văn Khải và
Nguyễn Huy Tuấn [5-6]. Phần lớn bệnh nhân
trong cả nhóm KSDP và nhóm chứng đều có
điểm ASA = 1. Với điểm số nguy cơ này, bệnh
nhân trong cả hai nhóm đều không nằm trong
nhóm có nguy cơ cao gặp nhiễm khuẩn sau mổ.
Về lý do chỉ định mổ lấy thai, lý do bất thường
đường sinh dục từ mẹ chiếm tỷ lệ cao nhất (chủ
yếu do tử cung có sẹo mổ cũ), 58,0% ở nhóm
KSDP và 50,0% ở nhóm chứng. Thời gian phẫu
thuật trung bình không khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa nhóm KSDP (69,8±10,6 phút) so
với nhóm đối chứng (72,9±9,3 phút). Phẫu thuật
mổ lấy thai trong nghiên cứu là loại phẫu thuật
sạch nhiễm với thời gian mổ ngắn, phù hợp với
việc sử dụng kháng sinh dự phòng [2].
Các kết quả trên cho thấy, sự khác nhau về
đặc điểm bệnh nhân giữa hai nhóm sử dụng
KSDP và nhóm đối chứng là không có ý nghĩa
thống kê.
4.2. Về hiệu quả sử dụng kháng sinh trên lâm sàng
Hiệu quả sử dụng kháng sinh trên lâm sàng
của cả hai nhóm được đánh giá theo các tiêu chí
bao gồm: tỷ lệ phải chuyển đổi phác đồ, tình
trạng nhiễm khuẩn vết mổ sau 30 ngày phẫu
thuật (bao gồm NKVM nông, NKVM sâu, NK
khoang cơ thể). Kết quả nghiên cứu cho thấy
2/100 bệnh nhân (chiếm 2%) phải chuyển đổi
phác đồ. Đây là tỷ lệ chấp nhận được vì bên cạnh
việc sử dụng kháng sinh dự phòng để tránh
nhiễm khuẩn cần phải tuân thủ nghiêm ngặt quy
trình chăm sóc bệnh nhân sau mổ. Cả 2 nhóm
đều có 2 bệnh nhân chuyển đổi phác đồ hoặc tái
nhập viện trong vòng 30 ngày sau mổ. Ngoài các
yếu tố liên quan đến chăm sóc, sử dụng thuốc,
còn do nguyên nhân từ tình trạng bệnh lý của
bệnh nhân. Thời gian nằm viện sau mổ trung
bình của nhóm KSDP là 4,8 ngày thấp hơn so
nhóm đối chứng là 5,5 ngày, sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê. Tổng hợp từ kết quả nghiên cứu
cho thấy việc sử dụng kháng sinh dự phòng
ampicilin + sulbactam đạt được hiệu quả trên
lâm sàng tương đương so với khi sử dụng kháng
sinh điều trị thường quy. Hiệu quả của việc áp
dụng kháng sinh dự phòng trên bệnh nhân mổ lấy
thai cũng đã được chỉ ra từ tổng quan hệ thống
của F.M. Smaill và cộng sự [7].
4.3. Về hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế được đánh giá dựa trên chi
phí sử dụng kháng sinh và chi phí tiêu hao vật tư
y tế. Trong nghiên cứu của chúng tôi, chi phí về
kháng sinh trung bình mỗi bệnh nhân của nhóm
KSDP và nhóm đối chứng lần lượt là 267720
đồng và 549572 đồng. Qua đây cho thấy, nếu
triển khai thành công chương trình sử dụng
KSDP cho phẫu thuật mổ lấy thai thì sẽ tiết kiệm
được một khoản khá lớn chi phí sử dụng kháng
sinh. Việc tiết kiệm này đặc biệt có ý nghĩa khi
hiện nay quỹ bảo hiểm y tế đang còn hạn chế, với
bệnh nhân không có bảo hiểm y tế, số tiền này
cũng rất đáng kể. Việc giảm số lần tiêm kháng
sinh (tổng số lọ kháng sinh trong nhóm dùng
KSDP là 410 lọ, nhóm đối chứng là 1312 lọ)
không chỉ giúp tiết kiệm được tiền thuốc mà còn
tiết kiệm được tiêu hao vật tư đi kèm như bơm
N.T.T. Thuy et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 68-74 74
tiêm, bông băng, cồn, và giảm bớt được công
việc tiêm truyền, thu gom rác thải y tế cho nhân
viên y tế, giúp giảm bớt áp lực công việc.
Như vậy, sử dụng kháng sinh dự phòng có
tính hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều so với việc
sử dụng kháng sinh điều trị thường quy.
5. Kết luận
Phác đồ kháng sinh dự phòng trong mổ lấy
thai tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên đã
có hiệu quả trên lâm sàng, khi tỷ lệ bệnh nhân có
NKVM tương đương giữa nhóm sử dụng KSDP
và nhóm dùng kháng sinh điều trị thường quy,
đồng thời giảm được số ngày nằm viện và chi phí
y tế. Việc triển khai thành công phác đồ kháng
sinh dự phòng trong thực hành lâm sàng cũng
như áp dụng các biện pháp đồng bộ chống nhiễm
khuẩn bệnh viện, sẽ mang lại nhiều lợi ích cho
bệnh viện, cho bệnh nhân và cần được áp dụng
thường quy.
Tài liệu tham khảo
[1] Viet Nam Ministry of Health, National guideline
on prevention of surgical site infection, issued with
Decision No. 3671/QD-BYT, September 27, 2012
of Viet Nam Ministry of Health, Ha Noi, 2012 (in
Vietnamese).
[2] Viet Nam Ministry of Health, National guideline
on antibiotics use, issued with Decision
No.708/QD-BYT, March 2, 2015 of Viet Nam
Ministry of Health, Ha Noi, 2015 (in Vietnamese).
[3] D.W. Bratzler, K.M. Olsen, et al., Clinical Practice
Guidelines for Antimicrobial Prophylaxis in
Surgery, American Journal of Health-System
Pharmacy 70 (2013) 195 – 283.
https://doi.org/10.2146/ajhp120568.
[4] R.F. Lamont, J.D. Sobel, et al., Current debate on
the use of antibiotic prophylaxis for caesarean
section, BJOG: An International Journal of
Obstetrics & Gynaecology 118 (2011) 193-201.
https://doi.org/10.1111/j.14710528.2010.02729.x.
[5] T.V. Khai, Infection rate of surgical incisions and
associated factors on women after cesarean section
at Dong Nai General Hospital, Scientific Research
Project of Dong Nai Hospital, 2015 (in
Vietnamese).
[6] N.H. Tuan, Study on the use of cefazolin to prevent
infection after cesarean section or uterine fibroids
surgery at the Institute of maternal and neonatal
protection, Master’s thesis, Hanoi University of
Pharmacy, 2002 (in Vietnamese).
[7] F.M. Smaill, R.M. Grivell, Antibiotic prophylaxis
versus no prophylaxis for preventing infection after
cesarean section, Cochrane Database Syst Rev 10
(2014) CD007482.
https://doi.org/10.1002/14651858.cd007482.pub3.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
trien_khai_chuong_trinh_khang_sinh_du_phong_trong_mo_lay_tha.pdf