- Khuyến khích và tạo mọi điều kiện đăng ký và tham gia nghiên cứu, thực
hiện các đề tài khoa học, trong đó chú trọng các đề tài liên quan bảo vệ, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc., chủ động xây dựng tác phong, lối sống đẹp, sống có ích. và động viên, khuyến khích các bạn trẻ hưởng ứng.
• Giáo dục
- Hình thành thói quen tự học và chủ động xây dựng kế hoạch học tập. Đây
là một trong nhiều điều cơ bản, khác với phương pháp học tập ở bậc phổ thông, ở ĐH, SV phải tự mình lập kế hoạch để làm chủ toàn bộ quỹ thời gian học tập. Ngoài bài giảng ở trên lớp, phải dành thời gian, ít nhất bằng hai lần thời gian trên lớp, để học và nghiên cứu tài liệu. Cần phân bổ thời gian học tập đều mỗi ngày thì mới thực sự lĩnh hội được kiến thức”.
19 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 1049 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Triết học - Phân tích quan điểm của đảng về xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I: PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường
Cơ chế quản lí kinh tế thời kỳ trước đổi mới
a) Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp
Thứ nhất, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới. Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp phát vốn vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho Nhà nước. Lỗ thì Nhà nước bù, lãi thì nhà nước thu.
Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất và pháp lí đối với các quyết định của mình.
Thứ ba, quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là chủ yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ “cấp phát – giao nộp”.
Thứ tư, bộ máy quản lí cồng kềnh , nhiều cấp trung gian vừa kém năng động, vừa sinh ra đội ngũ quản lí kém năng lực , phong cách cửa quyền , quan liêu nhưng lại được hưởng quyền lợi cao hơn người lao động
Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu sau:
Bao cấp qua giá: Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hóa thấp hơn nhiều lần so với giá trị thực của chúng trên thị trường.
Bao cấp qua chế độ tem phiếu: Nhà nước quy định chế độ phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên theo định mức qua hình thức tem phiếu.
Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách, nhưng không có chế tài ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn.Điều đó vừa làm tăng gánh nặng đối với ngân sách , vừa làm cho việc sử dụng vốn kém hiệu quả, nảy sinh cơ chế “xin-cho”
Trong thời kì kinh tế còn tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng thì cơ chế này có tác dụng nhất định, nó cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế vào các mục tiêu chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể. Nhưng nó lại thủ tiêu tính cạnh tranh kìm hãm sự phát triển của tiến bộ khoa học- công nghệ, triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao động kìm hãm phát triển
b) Nhu cầu đổi mới cơ chế quản lí kinh tế
Đề cập sự cần thiết đổi mới cơ chế quản lí kinh tế, Đại hội VI khẳng định: “Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lí kinh tế. Cơ chế quản lí tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác ” Vì vậy , việc đổi mới cơ chế quản lí kinh tế trở thành nhu cầu cần thiết và cấp bách
Sự hình thành tư duy của Đảng về kinh tế thị trường thời kỳ đổi mới
a) Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội VI đến Đại hội VIII
Kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phat triển chung của nhân loại
Chủ nghĩa tư bản không sản sinh ra kinh tế hàng hóa , do đó , kinh tế thị trường với tư cách là kinh tế hàng hóa ở trình độ cao không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại
Kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trước đổi mới, do chưa thừa nhận trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường nên chúng ta đã xem kế hoạch là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế xã hội chủ nghĩa, đã thực hiên phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu.
b) Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IX đến Đại hội XI
Đại hội XII xác định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước . Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lí của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
Về mục đích phát triển: Mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm thực hiện “dân giàu , nước mạnh , dân chủ , công bằng, văn minh” giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân , đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo
Về phương hướng phát triển: Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu , nhiều thành phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành phần kinh tế .
Về định hướng xã hội và phân phối : Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển , tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội , văn hóa ,giáo dục và đào tạo.
Về quản lý: Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lí, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng .
Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Mục tiêu và quan điểm cơ bản
Thể chế kinh tế và thể chế kinh tế thị trường
Thể chế kinh tế là một bộ phận cấu thành của hệ thống thể chế xã hội, tồn tại bên cạnh các bộ phận khác như thể chế chính trị, thể chế giáo dục Thể chế kinh tế nói chung là một hệ thống các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các chủ thể kinh tế, các hành vi sản xuất kinh doanh và các quan hệ kinh tế. Nó bao gồm các yếu tố chủ yếu là các đạo luật, quy chế, quy tắc, chuẩn mực về kinh tế gắn với các chế tài về xử lý vi phạm, các tổ chức kinh tế, các cơ quan quản lí nhà nước về kinh tế, truyền thống văn hóa và văn minh kinh doanh, cơ chế vận hành nền kinh tế.
Thể chế kinh tế thị trường là một tổng thể bao gồm các bộ quy tắc, luật lệ và hệ thống các thực thể, tổ chức kinh tế được tạo lập nhằm điều chỉnh hoạt động giao dịch, trao đổi trên thị trường.
Thể chế kinh tế thị trường bao gồm:
Các quy tắc về hành vi kinh tế diễn ra trên thị trường- các bên tham gia thị trường với tư cách là các chủ thể thị trường.
Cách thức thực hiện các quy tắc nhằm đạt được mụa tiêu hay kết quả mà các bên tham gia thị trường mong muốn.
Các thị trường – nơi hàng hóa được giao dịch, trao đổi trên cơ sở các yêu cầu, quy định của luật lệ (các thị trường quan trọng như hàng hóa và dịch vụ, vốn, lao động, công nghệ, bất động sản).
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hiểu là thể chế kinh tế thị trường, trong đó các thiết chế, công cụ và nguyên tắc vận hành được tự giác tạo lập và sử dụng để phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Đại hội IX (4-2001), khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mới được chính thức sử dụng trong các văn kiện của Đảng. Và cũng từ đại hội này, Đảng xác định mô hình nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời làm rõ một số khía cạnh liên quan đến nội hàm mô hình kinh tế này:
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội.
Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; đều được khuyến khích phát triển trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm.
Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển.
Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân.
Các quan điểm nói trên về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được Đại hội XI (01-2011) của Đảng khẳng định và cụ thể hóa thêm trên một số phương diện gắn với việc giải quyết các nhiệm vụ cấp bách của nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay và mục tiêu phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Đại hội khẳng định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là một hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”.
Mục tiêu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Mục tiêu cơ bản của hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là làm cho các thể chế phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường, thúc đẩy kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu này yêu cầu phải hoàn thành cơ bản vào năm 2020. Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tiền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng ổn định kinh tế vĩ mô, là một trong ba đột phá chiến lược trong 10 năm tới.”
Để hoàn thành được những mục tiêu lâu dài, trước mắt Đảng và Nhà nước ta phải đạt được những mục tiêu sau:
Một là, từng bước xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, bảo đảm cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển thuận lợi.Phát huy vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước đi đôi với phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp.Hình thành một số tập đoàn kinh tế, các tổng công ty đa dạng,áp dụng mô hình quản trị hiện đại,có năng lực cạnh tranh quốc tế.
Hai là, đổi mới cơ bản mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công.
Ba là, phát triển đồng bộ, đa dạng các loại thị trường cơ bản thống nhất trong cả nước, từng bước liên thông với thị trường khu vực và thế giới.
Bốn là, giải quyết tốt hơn các mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa xã hội, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
Năm là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị xã hội và nhân dân trong quản lý, phát triển kinh tế xã hội.
Quan điểm về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
- Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện của Việt Nam, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế, giữa các yếu tố thị trường và các loại thị trường; giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị, xã hội; giữa Nhà nước,thị trường và xã hội. Gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ công bằng xã hội, phát triển văn hóa và bảo vệ môi trường.
- Kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại và kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta, chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
- Chủ động, tích cực giải quyết vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng, bức xúc, đồng thời phải có bước đi vững chắc, vừa làm vừa tổng kết rút kinh nghiệm.
- Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu qủa quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Một số chủ trương tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
a) Thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
- Kinh tế thị trường là phương tiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Là cơ sở kinh tế để phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa
- Là nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi các yếu tố để đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa.
b) Hoàn thiện thể chế về sở hữu và các thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất kinh doanh.
- Pháp luật cần quy định về sở hữu để đảm bảo cho các quyền và lợi ích của accs chủ thể sở hữu. Nhất là các loại sở hữu như: sở hữu trí tuệ, cổ phiếu, tài nguyên nước
- Khẳng định đất đai là sở hữu của toàn dân, mà đại diện là nhà nước, đồng thời đảm bảo và tôn trọng các quyền của người sử dụng đất.
- Tách biệt vai trò của nhà nước với tư cách là bộ máy công quyền quản lý nền kinh tế xã hội với vai trò chủ sở hữu tài sản vốn với chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp.
- Quy định rõ về quyền của chủ sở hữu và những người liên quan đối với các loại tài sản, đồng thời quy định rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của họ đối với xã hội.
- Tạo cơ chế khuyến khích sự lien kết giữa các loại hình sở hữu, làm cho sở hữu cố phần, sở hữu hôn hợp trở thành hình thức sở hữu chủ yếu của các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
- Ban hành các văn bản pháp lý về sở hữu của doanh nghiệp, tổ chức, các nhân nước ngoài tại Việt Nam.
Hoàn thiện thể chế về phân phối: hoàn thiện lập pháp, cơ chế, chính sách về phân bổ nguồn lực và phân phối lại để đảm bảo tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.
- Các nguồn lực phải phân bổ theo cơ chế thị trường kết hợp với sự quản lý của nhà nước.
- Chính sách phân phối và phân phối lại phải đảm bảo kết hợp hài hòa lợi ích. Để thực hiện điều đó cần:
+ Đổi mới phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế.
+ Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế cua nhà nước để các đơn vị sự nghiệp công lập phát triển mạnh và có hiệu quả.
c) Hoàn thiện thể chế bảo đảm đồng bộ các yếu tố thị trường và phát triển đồng bộ các loại thị trường.
Các yếu tố của thị trường :
- Hoàn thiện thể chế về giá, cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh.
- Hoàn thiện cơ chế giám sát, điều tiết thị trường, xúc tiến thương mại và đầu tư phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa, vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường và tăng cường kiểm tra chất lượng hàng hóa dịch vụ và xử lý sai phạm.
Phát triển đồng bộ các loại hình thị trường :
- Thị trường hang hóa dịch vụ
- Thị trường chứng khoán
- Thị trường bảo hiểm
- Thị trường bất động sản
- Thị trường sức lao động
- Thị trường khoa học - công nghệ
d) Hoàn thiện thể chế gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường.
- Thực hiện chính sách khuyến khích làm giàu đi đôi với tích cực thực hiện giảm nghèo, đặc biệt ở các vùng nông thôn, miền núi, vùng dân tộc, và các căn cứ cách mạng trước đây.
- Xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa dạng và linh hoạt phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Hoàn thiện luật pháp, chính sách về bảo vệ môi trường, có chế tài đủ mạnh đối với các trường hợp vi phạm và thực thi tốt trong thực tế.
e) Hoàn thiện thể chế về vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và sự tham gia của các tổ chức quần chúng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội
Vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện rõ ở chỗ chỉ đạo nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để xác định rõ, cụ thể và đầy đủ hơn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt nhứng nội dung định hướng xã hội chủ nghĩa để tạo ra sự đồng thuận trong xã hội.
Đổi mới và nâng cao vai trò, hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước. Vai trò kinh tế của Nhà nước thể hiện rõ ở chỗ phát huy mặt tích và hạn chế, ngăn ngừa phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả.
Các tổ chức dân cư, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp và nhân dân có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để phát huy vai trò của họ, Nhà nước phải tiếp tục hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để các hình thức tổ chức và nhân dân tham gia tích cực và có hiệu quả vào quá trình hoạch định, thực thi, giám sát thực hiện luật pháp, các chủ trương phát triển kinh tế - xã hội.
Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân
a) Kết quả và ý nghĩa:
Một là, sau hơn 20 năm đổi mới, nước ta đã chuyển đổi thanh công từ thể chế kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu- bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, chế độ sở hưu với nhiều hình thức và cơ cấu kinh tế nhiều thanh phầnđược hình thành.
Ba là, các loại thị trường cơ bản đã ra đời và từng bược phát triển thống nhất trong cả nước, gắn với thị trường khu vự và thế giới.
Bốn là, việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết ccs vấn đề xã hội, xóa đói, giảm nghèo đạt nhiều kết quả tích cực.
b) Hạn chế và nguyên nhân:
Hạn chế:
Quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thi trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chậm, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế.
Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa đầy đủ chưa đồng bộ và thống nhất.
Vấn đề sơ hữu, quản lý và phân phối trong doanh nghiệp nhà nước chưa giải quyết tốt, gây khó khăn cho sự phát triển và làm thất thoát tài sản nhà nước nhất là khi cổ phần hóa.
Thị trường tài chính, bất động sản, khoa học và công nghệ phát triển chậm, quản lý nhà nước dối với các loại thị trường còn nhiều bất cập.
Phân bố nguồn lực quốc gia chưa hợp lý.
Cơ chế “xin- cho” chưa được xóa bỏ triệt để. Chính sách tiền lương còn mang tính bình quân.
Cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành của bộ máy nhà nước còn nhiều bất cập, hiệu quả, hiệu lực quản lý còn thấp. Cải cách hành chính chậm, chưa đạt yêu cầu mục tiêu đề ra. Tệ tham nhũng lãng phí, quan lieu vẫn nghiêm trọng.
Cơ chế, chính sách phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội còn đổi mới chậm, chất lượng dịch vụ y tế giáo dục, đào tạo còn thấp. Khoảng cách giàu nghèo giữa các các tầng lớp dân cư và các vùng ngày càng lớn. Hệ thống an sinh xã hội còn sơ khai. Nhiều vấn đề bức xúc trong xã hội và bảo vệ mội trường chưa được giải quyết tốt.
Nguyên nhân:
Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều hạn chế.
Năng lực thể chế hóa và quản lý, tổ chức thực hiện nhà nước còn chậm.
Vai trò tham gia hoạch định chính sách hực hiện và giám sát của cá cơ quan dân cử, mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể hành chính, các tổ chức xã hôi, nghề nghiệp còn yếu.
Vai trò của sinh viên
Cần làm cho hiện tại
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vừa tuân
theo các quy luật của kinh tế thị trường vừa chịu sự chi phối của các yếu tố đảm bảo tính định hướng XHCN. Nói cách khác, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là công cụ hướng dẫn các chủ thể trong nền kinh tế vận động theo đuổi mục đich kinh tế- xã hội tối đa, chứ không đơn thuần là mục tiêu lợi nhuận tối đa. Vào thời kỳ đổi mới, chúng ta ngày càng nhận rõ có thể dùng cơ chế thị trường làm cơ sở phân bố các nguồn lực kinh tế, dùng tín hiệu giá cả để điều tiết chủng loại và số lượng hàng hóa, điều hòa quan hệ cung cầu, điều tiết tỷ lệ sản xuất thông qua cơ chế cạnh tranh, thúc đẩy cái tiến bộ, đào thải cái lạc hậu, yếu kém. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận thấy trước mắt còn vô số những khó khăn và thách thức để có thể hoàn thành được mục tiêu đặt ra. Đảng và nhà nước qua một quá trình lâu dài đã hoạch định ra con đường đúng đắn là thực hiện kinh tế thị trường định hướng XHCN, còn chúng ta, tầng lớp học sinh, sinh viên là người thực hiện và hoàn thành những mục tiêu đó. Ở một khía cạnh nào đó thì sinh viên đặc biệt là sinh viên kinh tế lại đóng một vai trò quan trọng trong quá trình này.
Trước hết, tầng lớp trí thức và sinh viên nói riêng là lực lượng xã hội hung
hậu, có sức khỏe, có trình độ học vấn, có tiềm năng sáng tạo, có khả năng tiếp cận và làm chủ khoa học hiện đại. Hiện nay, nhiều trí thức và sinh viên được cử ra nước ngoài học tập, họ đem lại những kiến thức và tay nghề, công nghệ mới tiếp thu được từ các nước tiên tiến để phục vụ sự phát triển của kinh tế nước ta.
Sinh viên phải nhận thức đúng đắn về Kinh tế thị trường “ không được lầm
tưởng rằng, kinh tế thị trường chỉ gắn liền với chủ nghĩa tư bản, còn chủ nghĩa xã hội thì không”, từ đó tiếp nhận một cách có chọn lọc để thừa kế và khai thác có hiệu quả các lợi thế của nền kinh tế thị trường để phát triển phùy hợp với định hướng của Đảng và nhà nước.
Nước ta đang từng bước hòa nhập với nền kinh tế và văn hóa thế giới tuy
nhiên tốc độ phát triển của nước ta còn chậm so với mặt bằng chung,lại là nước đi đầu đưa nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa nên mỗi chúng ta cần nắm vững các quy luật kinh tế,thể chế chính sách,Pháp luật của Nhà nước để phân bổ và sử dụng tối ưu các nguồn lực. Là sinh viên cần nắm rõ các điều luật nhà nước từ đó vận động tuyên truyền những hành động ý thức đúng đắn cho mọi người.
Việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa là
vấn đề mới và phức tạp do vậy hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách chưa đầy đủ, thiếu thống nhất còn nhiều lỗ hổng vậy nên mỗi sinh viên chúng ta cần cố gắng phấn đấu học tập,thi đua, hoàn thiện bản thân,chung tay cùng nhà nước giải quyết các vấn đề trên.Lên án tố cáo các hành vi chống đối, phá hoại, xuyên tạc quan điềm của đảng và nhà nước.
Nhận thức đầy đủ việc phát triển kinh tế bền vững và bảo vệ môi
trường, khai thác hợp lý các tài nguyên.
Sinh viên Việt nam là những tri thức tương lai của đất nước, quá trình
chuyển đổi nền kinh tế thị trường ở các nước đang phát triển đó là môi trường đòi hỏi phải có tư duy đổi mới nhanh nhạy để phù hợp, do đó từng sinh viên phải học tập rèn luyện để thích nghi ngay từ bây giờ.
Mục tiêu lâu dài
• Văn hóa: Quá trình hội nhập quốc tế đã có những tác động nhất định, làm thay đổi phương thức tư duy, lối sống của sinh viên theo hướng hiện đại và tích cực, chủ động hơn. Sinh viên nước ta biết thêm nhiều hơn về phong tục, tập quán, văn hóa và con người của các quốc gia trên thế giới. Có điều kiện khám phá thế giới, tiếp thu và làm chủ các tiến bộ khoa học -kỹ thuật hiện đại, tri thức mới...
Vậy sinh viên kinh tết cần làm gì?
Đẩy mạnh việc giáo dục tư tưởng, đạo đức, tác phong sống trong sinh viên
và coi đây là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, cần thường xuyên thực hiện tốt.
Chủ động, sáng tạo và linh hoạt trong tổ chức các hoạt động định hướng
tiếp thu những mặt tích cực, tiên tiến của văn hóa hiện đại; đồng thời khơi dậy tinh thần tự hào dân tộc, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc. Kiên quyết đấu tranh đối với những biểu hiện vô cảm; khơi dậy tinh thần tương thân, tương ái trong tuổi trẻ.
Khuyến khích và tạo mọi điều kiện đăng ký và tham gia nghiên cứu, thực
hiện các đề tài khoa học, trong đó chú trọng các đề tài liên quan bảo vệ, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc., chủ động xây dựng tác phong, lối sống đẹp, sống có ích... và động viên, khuyến khích các bạn trẻ hưởng ứng.
• Giáo dục
Hình thành thói quen tự học và chủ động xây dựng kế hoạch học tập. Đây
là một trong nhiều điều cơ bản, khác với phương pháp học tập ở bậc phổ thông, ở ĐH, SV phải tự mình lập kế hoạch để làm chủ toàn bộ quỹ thời gian học tập. Ngoài bài giảng ở trên lớp, phải dành thời gian, ít nhất bằng hai lần thời gian trên lớp, để học và nghiên cứu tài liệu. Cần phân bổ thời gian học tập đều mỗi ngày thì mới thực sự lĩnh hội được kiến thức”.
Phải tích cực trau dồi năng lực kỹ năng mềm :
Kỹ năng mềm có thể hiểu một cách cơ bản đó là:
* Kỹ năng giao tiếp
* Kỹ năng làm việc nhóm
* Kỹ năng thuyết trình
* Kỹ năng quản lý nghề nghiệp
* Kỹ năng giải quyết vấn đề
* Kỹ năng tư duy phản biện
Làm việc nhóm (Team work)
Kỹ năng làm việc nhóm là kỹ năng tương tác giữa các thành viên trong
một nhóm, nhằm thúc đẩy hiệu quả công việc việc phát triển tiềm năng của tất cả các thành viên. Một mục tiêu lớn thường đòi hỏi nhiều người làm việc với nhau, vì thế làm việc nhóm trở thành một định nghĩa quan trọng trong tổ chức cũng như trong cuộc sống.
Trong thời đại ngày nay, khi khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển thì
yêu cầu làm việc theo nhóm là cần thiết hơn bao giờ hết. Đơn giản vì không ai là hoàn hảo, làm việc theo nhóm sẽ tập trung những mặt mạnh của từng người và bổ sung cho nhau. Hơn nữa, chẳng ai có thể cáng đáng hết mọi việc. Người phương Tây luôn xem công việc và bạn bè khác nhau do đó trong khi làm việc rất thoải mái. Tuy nhiên, không khí làm việc khá căng thẳng đôi khi mâu thuẫn với nhau gay gắt do họ rất coi trọng cá nhân...
Các kỹ năng làm việc nhóm được xây dựng trong quá trình học tập trên
lớp học cũng như là làm các bài tiểu luận. Bạn Thanh Tòng (sinh viên ĐH BK) bày tỏ: “Ở khoa mình hầu như môn học nào cũng có bài tập nhóm, vì thế qua các bài tập này mình có thể thực hành và phát triển kỹ năng này. Tuy nhiên trong quá trinh làm việc nhóm cũng có nhiều rắc rối vì bất đồng quan điểm dẫn đến làm việc nhóm tạo ra tác dụng ngược vì các bạn không nắm được kỹ năng này”.
Một trong những yếu tố ảnh hưởng xây dựng kỹ năng này là phương pháp
giảng dạy của các giảng viên, tuy nhiên đặc điểm của các lớp học ở Việt Nam hiện nay là quá đông nên việc ứng dụng thảo luận nhóm cho các bài giảng là khó khả thi.
Kỹ năng làm việc nhóm bao gồm các kỹ năng nhỏ:
Xây dựng vai trò chính trong nhóm- Kỹ năng quản lý hội họp.- Phát triển
quá trình làm việc nhóm- Sáng tạo và kích thích tiềm năng
Thuyết trình (Presentation)
Đây là một trong những kỹ năng quan trọng để có thể đi đến thành công
trong cuộc sống. Trước hết bạn phải cần có kiến thức nền và sau đó là những kiến thức sâu, cao hơn nữa, cần một sự tự tin, dùng những ngôn từ chính xác và cũng có thể là ngôn ngữ cơ thể, cử chỉ, giọng nói có hồn có sức hút là thứ không thế thiếu trong một bài thuyết trình để thu hụt mọi thành viên trong hội trường, không dừng lại ở đó, người thuyết trình cần có một cái đầu lạnh để phản ứng, xử lý kịp thời những tình huống ngoài sự chuẩn bị của mình. Vậy đây là một công cụ vô cùng quan trong của mội sinh viên thời hội nhập.
Giải quyết vấn đề (Problem solving)
Giải quyết vấn đề là một cách thức suy nghĩ nhằm làm rõ ràng và đưa ra
giải pháp thực thi để cải tiến cho một vấn đề. Nói dễ hiểu hơn Giải quyết vấn đề: trả lời những câu hỏi như: "Ta sẽ vượt trở ngại như thế nào?" hay "Tôi sẽ đạt làm như thế nào để mục đích của mình trong những điều kiện này?". Cốt lõi của vấn đề là tìm cách đạt được mục đích khi gặp trở ngại hoặc khi ta chỉ có những điều kiện rất hạn chế để thực hiện mục đích.
Nhiều sinh viên ra trường hiện nay gặp thất bại khi phỏng vấn bởi vì gặp
mốt số câu hỏi từ nhà tuyển dụng để kiểm tra kỹ năng giải quyết vấn đề. Bạn Lan Anh (sinh viên Đại học ngoại ngữ tin học TP.HCM) tâm sự mình đã không trả lời được một câu hỏi đưa ra từ nhà tuyển dụng “Lượng nước đá trên một sân khúc côn cầu có cân nặng là bao nhiêu?".
Đối với những tình huống như thế, bạn sẽ phải phát huy hết sự thông minh và sáng tạo của mình. Kiểu phỏng vấn này được các nhà tuyển dụng sử dụng nhằm kiểm tra mức độ hiểu biết, khả năng phân tích giải quyết vấn đề.
Kỹ năng này thường bao gồm một số nhân tố chính:
- Xác định vấn đề- Phân loại vấn đề- Mô hình hóa vấn đề- Sử dụng các công cụ giải quyết vấn đề- Qui trình giải quyết vấn đề
Kỹ năng giao tiếp (Communication)
Mục đích của giao tiếp là truyển tải được những thông điệp. Đây là quá
trình liên quan đến cả người gửi và người nhận thông điệp. Bằng cách truyền đạt được thông điệp của mình đi một cách thành công, bạn đã truyền đi được suy nghĩ cũng như ý tưởng của mình một cách hiệu quả. Khi không thành công, những suy nghĩ, ý tưởng của bạn sẽ không phản ánh được những cái đó của chính bạn, gây nên sự sụp đổ trong giao tiếp và những rào cản trên con đường đạt tới mục tiêu của bạn - cả trong đời tư và trong sự nghiệp.
Kỹ năng giao tiếp cực kì quan trọng và nó là nhân tố thể hiện rõ nhất sự
năng động của một sinh viên. Việc tham gia các câu lạc bộ Thanh niên, hoạt động Đoàn thanh niên là điều kiện nâng cao kỹ năng này.
Thông thường trong trường Đại học sinh viên thường ứng dụng kỹ năng giao tiếp qua các hoạt động sau:
Kỹ năng thuyết trình trước đám đông- Kỹ năng truyền đạt thông tin- Kỹ
năng lắng nghe và thu thập thông tin
Trong một cuộc điều tra mới đây về những thành viên mới của một công
ty với hơn 50.000 nhân viên, người ta đã cho rằng kỹ năng giao tiếp là yếu tố mang tính quyết định trong việc tuyển chọn một người quản lý. Cuộc điều tra mới đây nhất đã chỉ ra rằng các kỹ năng giao tiếp bao gồm cả việc trình bày nói và viết cũng như khả năng làm việc với người khác là những yếu tố chính tạo nên thành công trong nghề nghiệp.
Quản lý nghề nghiệp (Career management)
Trong một khảo sát mới nhất tại trường Đại học Bách khoa, gần như có tới
hơn 60% sinh viên tự nhận mình chưa định hướng nghề nghiệp đúng đắn cũng như cũng như là không biết kế hoạch nghề nghiệp cho 5 năm, 10 năm.
Thuật ngữ quản lý nghề nghiệp nếu được hiểu chính xác nó là sự kết hợp
của nhiều lĩnh vực như: đánh giá nghề nghiệp (career assessment), định hướng nghề nghiệp (career mentoring), phát triển nghề nghiệp (career development) ... Vì vậy có thể thấy rằng việc định hướng nghề nghiệp là một quá trình liên tục và kéo dài cho đến những năm cuối cùng của cuộc đời mỗi con người.
Trong giai đoạn Đại học sinh viên hiện nay sau khi đã lựa chọn ngành nghề
ở trường đại học, sinh viên năm nhất cần được tiếp tục hướng dẫn những kỹ năng cần thiết như làm thế nào có thể hòa nhập môi trường đại học, làm thế nào để có một phương pháp học đại học hiệu quả. Sinh viên năm cuối cần được đào tạo kỹ năng để tìm một công việc tốt, kiến thức xây dựng một kế hoạch nghề nghiệp cho năm năm, mười năm... Như vậy có thể thấy sinh viên cần được hướng dẫn hướng nghiệp một cách liên tục trong giai đoạn đại học.
Tư duy phản biện: (Critical thinking)
Tư duy phản biện là một quá trình tư duy biện chứng gồm phân tích và
đánh giá một thông tin đã có theo các cách nhìn khác cho vấn đề đã đặt ra nhằm làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề. Lập luận phản biện phải rõ ràng, lôgíc, đầy đủ bằng chứng, tỉ mỉ và công tâm.
Tình trạng thụ động trên giảng đường hiện nay cũng là một minh chứng
cho việc sinh viên hiện nay thiếu tư duy phản biện. Thạc sĩ Nguyễn Quang Toàn (ĐH Kinh tế TP.HCM) bày tỏ: “Mặc dù trên giảng đường tôi rất khuyến khích các bạn sinh viên bày tỏ quan điểm của mình nhưng hình như không được ủng hộ lắm, phương pháp giảng dạy mới “lấy người học làm trung tâm (learner center) khó mà áp dụng nếu không được ủng hộ từ các bạn sinh viên”.
Ngoài ra, sinh viên cần phải:
Cần chủ động và tích tham gia vào các chương trình đào tạo kỹ năng mềm
của nhà trường cũng như các tổ chức xã hội khác.
Mạnh dạn, tự tin thuyết trình trước đám đông, rèn luyện kỹ năng giao tiếp
trước nhiều người bởi đây là một trong những kỹ năng quan trọng đối với công việc sau này.
Tích cực thảo luận và làm việc nhóm, kỹ năng này giúp sinh viên tiếp cận
với cách trao đổi ý kiến trong nhóm, tích lũy kinh nghiệm giải quyết bất đồng cũng như kinh nghiệm lãnh đạo. Bên cạnh đó, việc làm việc nhóm còn giúp cho sinh viên có thể học hỏi và trao đổi kiến thức lẫn nhau.
Tham gia các hoạt động ngoại khóa, các hoạt động tình nguyện bởi những
hoạt động này không chỉ tạo môi trường cho sinh viên giải tỏa căng thẳng mà còn tạo điều kiện cho sinh viên phát triển, trau dồi đạo đức cũng như các kỹ năng cá nhân khác như kỹ năng lãnh đạo, sáng tạo, làm việc nhóm
Không ngừng học và tự học để trau dồi kiến thức chuyên môn cũng như
những kiến thức bổ trợ khác như công nghệ thông tin và đặc biệt là ngoại ngữ vì ngoại ngữ chính là sự kết nối đưa sinh viên hội nhập với quốc tế để tăng chất lượng, hiệu quả học tập cũng như công việc sau này.
Khi cuộc sống ngày càng phát triển, môi trường làm việc ngày càng trở nên
năng động với tính cạnh tranh cao thì kỹ năng mềm là một trong những đòi hỏi qua trọng của nhà tuyển dụng. Bởi những kỹ năng này sẽ góp phần bổ trợ cho những kiến thức chuyên môn của người lao động nhằm tăng năng suất lao động tạo ra hiệu quả cao trong công việc. Ngay từ khi còn học tập trên giảng đường, sinh viên cần hiểu rõ vai trò quan trọng của kỹ năng mềm và tăng cường học tập, trau dồi những kỹ năng này. Vì thế, kỹ năng mềm cần được nghiêm túc nhìn nhận là một quá trình tích lũy. Sinh viên dựa trên những khả năng của bản thân, mục tiêu trong tương lai để xây dựng lộ trình rèn luyện các kỹ năng qua mỗi năm học; từ đó đến khi ra trường, sẽ tự tin với năng lực của mình cùng với bộ hồ sơ xin việc hoàn hảo.
• Khoa học công nghệ:
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông
để nâng cao nhận thức của, các cá nhân, doanh nghiệp và toàn xã hội về tầm quan trọng của hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ mới.
Xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án, nhiệm vụ nghiên cứu
chung trong khuôn khổ các thỏa thuận song phương, đa phương. Khuyến khích hợp tác nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ giữa doanh nghiệp, trường đại học, viện nghiên cứu, cá nhân trong nước với các đối tác nước ngoài. Thu hút nguồn kinh phí từ nước ngoài thông qua các dự án nghiên cứu tại Việt Nam. Tham gia và tham gia tổ chức và chủ trì các hội nghị, hội thảo khoa học quốc tế tại Việt Nam và tham gia các hội nghị, hội thảo khoa học ở nước ngoài. Kêu gọi tổ chức triển lãm giới thiệu các thành tựu khoa học và công nghệ mới, tiên tiến của các nước và Việt Nam.
Phát huy hiệu quả hoạt động của mạng lưới đại diện khoa học và công nghệ
Việt Nam ở nước ngoài. Thu hút các chuyên gia, nhà khoa học là người nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia các chương trình, dự án nghiên cứu, đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ, hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh ở Việt Nam, trong đó chú trọng đến các nhóm nghiên cứu khoa học trẻ.
Xây dựng và triển khai nội dung, kế hoạch hợp tác khoa học và công nghệ
tầm quốc gia với các nước mạnh về khoa học và công nghệ và là đối tác chiến lược của Việt Nam. Hình thành các trung tâm nghiên cứu khoa học xuất sắc trên cơ sở hợp tác dài hạn giữa các tổ chức nghiên cứu khoa học của Việt Nam và của nước ngoài. Thí điểm hợp tác xây dựng một số viện khoa học và công nghệ tiên tiến có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Xây dựng mạng lưới chuyên gia tìm kiếm công nghệ, xây dựng báo cáo về
thông tin công nghệ quốc tế, hồ sơ công nghệ quốc tế và các báo cáo khác liên quan đến xu hướng phát triển công nghệ ở nước sở tại và thế giới. Tổ chức nhóm chuyên gia theo từng lĩnh vực khoa học và công nghệ ưu tiên của quốc gia, kết hợp giữa chuyên gia công nghệ với chuyên gia quản trị công nghệ; tổ chức hội nghị, hội thảo khoa học; sinh hoạt chuyên đề, giao lưu giữa các nhóm chuyên gia tìm kiếm công nghệ với các doanh nghiệp, tổ chức cơ quan trong nước có nhu cầu tìm kiếm công nghệ nước ngoài; Tiến hành thí điểm cử các nhà khoa học và công nghệ trẻ Việt Nam vào làm việc trong các doanh nghiệp công nghệ của thế giới
Xây dựng danh mục đặt hàng công nghệ cần tìm kiếm (bao gồm nhu cầu
về kỹ thuật, quy trình công nghệ; mục đích sử dụng công nghệ cần tìm; nguồn sở hữu công nghệ đang tìm kiếm (quốc gia, chủ sở hữu công nghệ, đặc tính công nghệ); năng lực tiếp thu của đơn vị tiếp nhận công nghệ) và tổ chức tìm kiếm công nghệ. Xây dựng và hỗ trợ thực hiện các dự án chuyển giao công nghệ. Hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách và thông tin dữ liệu về hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phan_tich_quan_diem_cua_dang_ve_xay_dung_the_che_kinh_te_thi_truong_dinh_huong_xa_hoi_chu_nghia_o_nu.docx