Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây vào khoảng từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ VI trước Công nguyên tại một số trung tâm văn minh cổ đại của nhân loại như Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp. Người Trung Quốc hiểu triết học là sự truy tìm bản chất của đối tượng, triết học chính là trí, là sự hiểu biết sâu sắc của con người.
303 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2188 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Triết học và vai trò trong cuộc sống, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
), nhà
280
duy lý vĩ đại đã nêu lên một mệnh đề nổi tiếng: "Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại"
là điểm xuất phát cho hệ thống triết học của mình. Dù triết học của Đềcáctơ
mang tính duy tâm và nhị nguyên, nhưng đã thể hiện sự coi trọng đặc biệt
trí tuệ con người, đề cao tư duy khoa học, lý luận. Hơn nữa, nó khẳng định
vai trò chủ thể độc lập của con người trong tư duy. Chính vì vậy, luận đề
này có ý nghĩa tích cực to lớn, cổ vũ sự phát triển của các khoa học lý
thuyết và mở ra một thời đại mới của triết học. V.I.Lênin đã từng nhận xét
rằng: “Chủ nghĩa duy tâm thông minh gần với chủ nghĩa duy vật thông
minh hơn chủ nghĩa duy vật ngu xuẩn. Chủ nghĩa duy tâm biện chứng thay
cho chủ nghĩa duy tâm thông minh; siêu hình, không phát triển, chết cứng,
thô bạo, bất động thay cho ngu xuẩn”1. Nhận xét này giúp ta đánh giá đúng
đắn hơn cái hạt nhân hợp lý của triết học đã coi trọng vấn đề con người.
Nhìn chung, quan niệm về con người trong triết học của thế kỷ Ánh
sáng khá phong phú và có những bước tiến quan trọng. Những quan điểm
duy vật về con người trong thời kỳ này trở thành cơ sở, nền tảng cho các
khoa học nghiên cứu con người về sau này.
Triết học cổ điển Đức (thế kỷ XVIII- XIX) là đỉnh cao của triết học
phương Tây cận đại. Các nhà triết học tiêu biểu của nền triết học này đã có
cách nhìn mới về các hiện tượng tự nhiên và tiến trình lịch sử nhân loại. Do
đó, họ có những bước tiến trong quan niệm về khả năng và hoạt động của
con người. Từ I. Cantơ (1724-1804) đến G.V.Ph. Hê-ghen (1770-1831) đều
đề cao sức mạnh trí tuệ và hoạt động của con người. Con người được coi là
chủ thể đồng thời là kết quả của toàn bộ nền văn minh do chính mình tạo
ra. Tiến trình lịch sử của nhân loại được các triết gia cổ điển Đức xem xét
như một quá trình phát triển biện chứng. Đó là những tư tưởng có ý nghĩa
tích cực đã ảnh hưởng to lớn đến triết học hiện đại. Tuy nhiên, hạn chế của
1 V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva 1981, t. 29, tr 293.
281
họ là ở chỗ đã đề cao ý thức của con người tới mức cực đoan, tuyệt đối hoá
vai trò của ý thức.
Đối lập với Hêghen, L.Phoiơbắc (1804-1872), nhà duy vật tiền bối
của triết học Mác, người có công khôi phục chủ nghĩa duy vật cho rằng:
con người là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả phát triển của tự nhiên. Ông
phủ nhận sự tách biệt giữa linh hồn và thể xác. Ông khẳng định con người
là chủ thể của tư duy, tư duy là thuộc tính, là chức năng của bộ óc người -
một khí quan vật chất.
Ông còn cho rằng con người khi hoạt động một cách không tự giác,
không tự chủ thì nó thuộc về giới tự nhiên cũng như ánh sáng, khí trời,
nước, lửa... Như vậy, L.Phoiơbắc đã phân biệt giữa con người tự nhiên,
sinh vật, với con người ý thức. C.Mác và Ph.Ăngghen đã đánh giá cao việc
L.Phoiơbắc phê phán quan điểm duy tâm, thần bí của tôn giáo khi ông cho
rằng: không phải chúa đã tạo ra con người theo hình ảnh của chúa mà chính
con người đã tạo ra chúa theo hình ảnh của con người.
Hạn chế của L.Phoiơbắc là đã trừu tượng hoá con người, xem xét bản
chất con người chỉ như mọi thực thể sinh vật thuần tuý, ở bên ngoài các
điều kiện lịch sử-xã hội, không thấy được bản chất xã hội của con người
cũng như tính năng động và sáng tạo của nó trong hoạt động nhận thức và
cải tạo thế giới. Quan niệm về con người của L.Phoiơbắc cũng chỉ dừng lại
ở một con người sinh vật, tự nhiên, "con người nhân bản" của chủ nghĩa
duy vật nhân bản.
Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Với sự phát
hiện quan niệm duy vật lịch sử, C.Mác và Ph. Ăngghen đã tiếp thu có phê
phán những thành tựu lý luận quá khứ , khái quát lịch sử phát triển của xã
hội để xây dựng học thuyết khoa học và cách mạng - học thuyết về sự giải
phóng con người. Về quan niệm con người, triết học Mác đã tạo nên được
bước tiến căn bản so với tất cả các trào lưu triết học thời trước. Đó là
282
những con người hiện thực - xã hội.
Triết học Mác vạch rõ mối quan hệ biện chứng giữa con người với
hoàn cảnh, và khẳng định bản chất con người là bản chất xã hội. Con
người và bản chất con người được xem xét trong tính thống nhất biện
chứng giữa thực thể tự nhiên và thực thể xã hội. Triết học Mác ra đời đã
nâng cao hơn vị trí của vấn đề con người trong triết học. Nó trở thành cơ sở
lý luận khoa học cho hoạt động nghiên cứu và giải quyết các vấn đề con
người, vì mục đích cao nhất là giải phóng con người.
II. VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC- LÊNIN
1. Vấn đề bản chất của con người
a) Một số quan niệm ngoài mácxít về bản chất con người
Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và các tôn giáo:
Các tôn giáo đều lý giải nguồn gốc con người là do các lực lượng
siêu nhiên như thượng đế, chúa, hay một đấng sáng tạo nào đó tạo nên.
Theo đó bản chất con người là do các đấng tạo hoá quyết định. Các học
thuyết triết học duy tâm đều tuyệt đối hoá hoạt động của đời sống tinh thần,
coi toàn bộ thế giới tinh thần của con người bao gồm tư tưởng, tình cảm,
khát vọng... như một thực thể độc lập. Họ quy đặc trưng bản chất của con
người vào lĩnh vực ý thức tư tưởng, hoặc là cái có sẵn từ những lực lượng
siêu tự nhiên. Trong hệ thống triết học duy tâm của Hêghen, con người
được xem như là hiện thân của "ý niệm tuyệt đối". V.I. Lênin nhận xét:
"Hêghen biến con người thành con người của tự ý thức, mà lẽ ra phải biến
tự ý thức thành tự ý thức con người, - của con người thực, tức là con người
sống trong một thế giới hiện thực, thế giới đối tượng và do thế giới đối
tượng chi phối"1.
Quan niêm của chủ nghĩa duy vật nhân bản của L.Phoiơbắc.
1 V.I. Lênin: Sđd, tr197.
283
Chủ nghĩa duy vật nhân bản tuy đã giải thích một cách duy vật yếu tố
sinh vật ở con người, song khi lý giải vấn đề bản chất con người lại chia
cắt con người khỏi các quan hệ xã hội hiện thực. Do đó, quan niệm con
người cũng hết sức trừu tượng, phi lịch sử. C.Mác đã phê phán L.Phoiơbắc:
"bản chất con người chỉ có thể được hiểu là "loài" là tính phổ biến nội tại,
câm, gắn bó một cách thuần tuý tự nhiên đông đảo cá nhân lại với nhau"1.
L.Phoiơbắc quy bản chất con người vào tính tộc loại và đi tìm đặc trưng
cho tính tộc loại đó trong tình cảm đạo đức, tôn giáo và tình yêu. Vì vậy,
con người trong triết học của L.Phoiơbắc là con người chung chung, trừu
tượng, phi lịch sử. Theo đó, quan điểm của L.Phoiơbắc về bản chất của con
người cũng không thoát khỏi chủ nghĩa duy tâm. Chính vì vậy, khi phân
tích các vấn đề lịch sử, xã hội, Phoiơbắc không còn giữ được lập trường
duy vật nữa. Đánh giá về L.Phoiơbắc, C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết: "Khi
Phoiơbắc là nhà duy vật thì ông không bao giờ vận dụng đến lịch sử, còn
khi tính đến lịch sử thì ông không phải là nhà duy vật”.
Quan niệm sinh vật hoá con người biểu hiện ở những người theo chủ
nghĩa Đác uyn xã hội và chủ nghĩa Sinh vật tự nhiên. Họ đã lý giải các hiện
tượng xã hội, các hoạt động xã hội của con người bằng quy luật sinh học.
Theo quan điểm này, mọi quá trình hình thành và phát triển của xã hội;
mọi hoạt động, mọi quan hệ xã hội của con người và nhân cách của nó đều
do yếu tố sinh học quyết định.Tiêu biểu cho khuynh hướng sinh vật hoá là
thuyết phân tâm của S.Freud (1856 - 1939). Học thuyết này đã có ảnh
hưởng to lớn trong đời sống xã hội và học thuật ở phương Tây. Theo
Freud: Trong con người sống tồn tại những bản năng. Xu hướng của những
bản năng này là luôn luôn bùng lên kích thích con người hoạt động nhằm
thoả mãn những ham muốn, những khoái lạc mang tính sinh vật của nó.
Trong lý thuyết phân tâm năng lực tình dục giữ vai trò quyết định đối với
1 C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, t.3, tr 11.
284
hoạt động của con người.
V.I.Lênin đã từng phê phán: "Việc vận dụng những khái niệm sinh
học nói chung vào lĩnh vực các khoa học xã hội là một câu trống rỗng. Dù
cho sự vận dụng ấy là do ý định "tốt" hoặc là do ý muốn xác nhận những
kết luận xã hội học sai lầm chăng nữa, thì câu trống rỗng vẫn cứ là câu
trống rỗng" 1
Hạn chế và sai lầm của các cách tiếp cận trên đây là đã không thấy
được mối liên hệ nội tại giữa cái sinh vật và cái xã hội trong một chỉnh thể
thống nhất là con người. Nó còn biểu hiện ở tính chất siêu hình coi bản chất
con người là cái vốn có, trừu tượng, hoặc quy về bản tính tự nhiên, do đó
nó trở thành bất biến. Chính vì vậy, các quan niệm trên không đem lại ý
nghĩa tích cực cho việc nghiên cứu con người và ngày càng bộc lộ hạn chế
trước sự phát triển của khoa học, của thực tiễn và nhận thức.
Triết học Mác ra đời đã khắc phục tính chất trừu tượng, duy tâm, siêu
hình trong quan quan niệm bản chất con người với cách tiếp cận mới.
b) Quan niêm mácxít về bản chất con người
Triết học Mác-Lênin đã đề cập đến con người hiện thực.
Theo C.Mác, tiền đề đầu tiên của lịch sử nhân loại là những con
người sống, cùng với những hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt
vật chất của họ, những điều kiện có sẵn và điều kiện do chính hoạt động
của họ sáng tạo ra. C.Mác, khi phê phán quan điểm sinh vật nhân bản của
L.Phơ bách về con người đã đưa ra một luận đề nổi tiếng"... Bản chất của
con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan
hệ xã hội"2.
Từ tiếp cận con người hiện thực, triết học Mác đã chỉ ra rằng con người
1 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát xcơ va 1980, t.18, tr.407.
2 C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1997, t.3, tr. 11.
285
là một chỉnh thể sinh vật - xã hội, là thực thể song trùng tự nhiên-xã hội:
Con người trước hết là một thực thể tự nhiên, một sinh vật sống với
tất cả những đặc điểm sinh lý, cấu trúc cơ thể và những nhu cầu tự nhiên
của nó. Về mặt tự nhiên, con người chịu sự chi phối của các quy luật sinh
học như: quy luật về sự phù hợp giữa cơ thể với môi trường, quá trình trao
đổi chất, biến dị và di truyền... Khi xem xét con người, C. Mác không phủ
nhận mặt tự nhiên, sinh vật ở con người mà coi giới tự nhiên là "thân thể vô
cơ của con người", "con người là một bộ phận của giới tự nhiên". Xuất phát
từ quan điểm duy vật lịch sử, Mác và Ăngghen coi yếu tố sinh học là tiền
đề, là cơ sở cho sự xuất hiện con người và hoạt động của nó. Con người
trước khi trở thành người, là một động vật. Nhờ có lao động con người
thoát khỏi tình trạng loài vật. Nhưng khi thoát ra khỏi giới tự nhiên không
có nghĩa là con người đoạn tuyệt với giới tự nhiên, vì tất cả xương, thịt,
máu và bộ não của chúng ta đều thuộc về giới tự nhiên. Là một thực thể tự
nhiên, sinh vật nên con người cũng tồn tại cùng với những bản năng tự
nhiên và những nhu cầu tự nhiên như ăn uống, ở, đi lại, sinh con đẻ cái
v.v... Quan niệm duy vật biện chứng về con người và lịch sử của nó đã
khẳng định con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật ( tự
nhiên ) và mặt xã hội. Mặt sinh vật ở con người chính là cơ thể của con
người và là quan hệ của con người với môi trường tự nhiên trong đó con
người tồn tại, cùng với những nhu cầu, những ham muốn tự nhiên của một
sinh vật sống. Đó là kết quả của sự tiến hoá theo quy luật sinh học "Bản
thân cái sự kiện là con người từ loài động vật mà ra, cũng đã quyết định
việc con người không bao giờ hoàn toàn thoát ly khỏi những đặc tính vốn
có của con vật, thành thử bao giờ cũng chỉ có thể nói đến những đặc tính ấy
có nhiều hay ít, đến sự chênh lệch về mức độ thú tính và tính người mà
thôi"1.
1 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, t.3, tr.146.
286
Con người là sản phẩm cao nhất trong sự phát triển của giới tự nhiên.
Nhưng con người không phải là một sinh vật thuần tuý, mà là một sinh vật
- xã hội.
Sự tồn tại của con người trong giới tự nhiên khác hẳn sự tồn tại của
những sinh vật thuần tuý. Sự tồn tại của con vật là tồn tại bản năng, hoàn
toàn lệ thuộc vào môi trường và hoàn cảnh. Con người gắn bó với tự nhiên,
bản thân con người là "một phần của tự nhiên". Nhưng con người không
những chỉ biết khai thác tự nhiên, khám phá tự nhiên mà còn tác động vào
tự nhiên, sáng tạo thêm những cái mà tự nhiên không có. Thông qua hoạt
động lao động của mình con người đã sáng tạo ra một tự nhiên thứ hai, theo
cách nói của Mác: Con người đã biến đổi và nhào nặn tự nhiên theo "quy
luật của cái đẹp", sáng tạo ra một tự nhiên thứ hai như là một tác phẩm
nghệ thuật của chính mình.
V.I.Lênin cũng nhấn mạnh rằng: "Thế giới không thoả mãn con
người, và con người quyết định biến đổi thế giới bằng hành động của
mình"1. Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người đã làm biến đổi chính
bản thân mình: Con người trở thành con người xã hội cùng với những hoạt
động, những quan hệ xã hội của nó. Sự tồn tại của con người trong giới tự
nhiên hay phần tự nhiên trong con người (mặt sinh vật) chỉ là tiền đề cho
hoạt động bản chất của con người là hoạt động sáng tạo. Trước những tác
động của con người, giới tự nhiên đã được nhân loại hoá. Mặt sinh vật (tự
nhiên) ở con người là cơ sở tồn tại của mặt xã hội, là mặt sinh vật - xã hội.
Nó không còn là mặt sinh vật thuần tuý. Ngay trong những hoạt động mang
tính tự nhiên nhất của con người như ăn, uống, sinh con đẻ cái, sinh hoạt
tình dục, không phải chỉ là những hoạt động bản năng. Chính những hoạt
động thoả mãn nhu cầu tự nhiên ấy của con người lại là chỗ nó cần phải thể
1 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát xcơ va 1981, t.29, tr..229.
287
hiện tinh tế nhất cái bản chất xã hội của mình với tư cách là một con người,
hơn nữa là một chủ thể người mang nhân cách, đạt tới một trình độ phát
triển nhất định của văn hoá và văn hoá làm người. Con người là một sinh
vật mang bản chất xã hội. Theo tiến trình phát triển lịch sử, cái sinh vật - tự
nhiên ấy ngày càng được xã hội hoá.
Chỗ khác biệt giữa con người với con vật còn là ở chỗ: con vật tồn tại
thuần tuý bản năng. Còn bản năng của con người là bản năng được ý thức.
Tồn tại của con người là tồn tại mang tính xã hội. Trong quá trình sống, cả
con người và con vật đều phải quan hệ với môi trường và chịu sự chi phối
của nó. Nhưng con vật thì hoàn toàn phụ thuộc vào môi trường, con người
ngoài việc khai thác tự nhiên, còn cải tạo tự nhiên, sáng tạo thêm những cái
mà tự nhiên không có
Như vậy, cùng với đời sống hiện thực của con người, mặt tự nhiên,
sinh vật ở con người luôn là tiền đề, là điều kiện cần thiết cho sự hình
thành và hoạt động của con người. Cái tự nhiên đó không bao giờ mất đi.
Nó là cái sinh vật, cái hiện thực vật chất sinh lý của con người. Vấn đề là
phải làm thế nào cho cái sinh vật ngày càng được nhân tính hoá, nhân loại
hoá.
Con người không phải là một sinh vật thuần tuý mà là một thực thể
vật chất hoạt động có ý thức, có khả năng sáng tạo theo yêu cầu của mình.
Từ Aristôt đến các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII đều nhận thấy con người
là một sinh vật - xã hội, con người là một sinh vật mang bản chất xã hội.
Bản chất xã hội của con người thể hiện trong đời sống hiện thực của nó, tức
là trong hoạt động mà trước hết là hoạt động lao động sản xuất ra của cải
vật chất. Mác coi hoạt động lao động là hành vi lịch sử đầu tiên, nhờ đó con
người tách ra khỏi giới động vật. Mác viết: "Bản thân con người bắt đầu
phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liêụ
288
sinh hoạt của mình"1.
Hoạt động lao động sản xuất là một hoạt động sáng tạo, không những
chỉ là phương tiện, là cách thức duy trì đời sống sinh vật của mỗi cá nhân
mà là phương thức biểu hiện nội dung sống của con người với tư cách là
Người. Mác gọi đó là hoạt động bản chất của con người hiện thực.
Từ hoạt động lao động sản xuất con người đã chế tạo công cụ lao
động, cải tạo đối tượng lao động theo yêu cầu của mình. Đồng thời con
người cũng sáng tạo ra những mối quan hệ giữa Người với Người (những
quan hệ kinh tế, quan hệ chính trị, tinh thần...).
C.Mác và Ph. Ăngghen đã từng nhấn mạnh: Con người chỉ tồn tại với
tư cách là Người trong mối quan hệ với con người, với cộng đồng, với thế
giới xung quanh nó. Hệ thống các mối quan hệ xã hội của con người được
hình thành trong quá trình con người tham gia hoạt động thực tiễn, tham
gia vào đời sống xã hội. Tổng hoà các mối quan hệ ấy, đến lượt nó lại quy
định đời sống xã hội quy định bản chất xã hội của con người.
Như vậy, quan hệ xã hội là yếu tố cấu thành, là đặc trưng bản chất
của con người. Đó là một bản chất xã hội dựa trên tiền đề cơ sở là thực thể
tự nhiên.
Quan niệm của Mác –Lênin về bản chất của con người là một quan
niệm khoa học. Phạm trù “Con người hiện thực” của triết học Mác là sự
mới mẻ về chất, vượt qua những hạn chế hoặc sai lầm của chủ nghĩa duy
tâm, chủ nghĩa duy vật siêu hình. Việc xác định quan hệ xã hội là yếu tố
cấu thành bản chất của con người, hơn nữa vạch ra bản chất con người
trong tính hiện thực trực tiếp là một bước chuyển về chất trong nhận thức
về con người của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đó là cơ sở nghiên cứu những
điều kiện và con đường đúng đắn để đi đến giải phóng con người khỏi tình
trạng bị áp bức, bóc lột, nô dịch dẫn tới sự tha hoá bản chất con người.
1 C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, t. 3, tr.29.
289
C.Mác, khi khẳng định con người mang bản chất xã hội thì cũng đã chỉ ra
rằng: Cái bản chất không có nghĩa là cái toàn bộ, mà là dấu hiệu đặc trưng
nhất, hơn nữa là khẳng định cái bản chất xã hội của con người hiện thực
trực tiếp và cụ thể. Con người trong tính hiện thực của nó trước hết là một
thực thể sinh vật tự nhiên. Con người hiện thực "đó là những con người
đang sống, cùng với những hoạt động và những điều kiện sinh hoạt (vật
chất và tinh thần) do chính hoạt động lao động của con người sản xuất ra".
Bản chất của con người không phải là bất biến, không phải là trừu tượng
mà được hình thành và phát triển trong những hoàn cảnh cụ thể, trong môi
trường xã hội và những giai đoạn lịch sử trong đó con người tham gia hoạt
động thực tiễn. Bản chất con người không phải là cái khép kín mà vận
động, biến đổi theo sự biến đổi tác động của hoàn cảnh, môi trường sống,
thông qua sự tiếp nhận và chuyển hoá của mỗi cá nhân.
C.Mác nói: "Xã hội sản sinh ra con người" và Ph.Ăngghen nhấn
mạnh: "Lao động sáng tạo ra con người". Quá trình con người cải tạo tự
nhiên cũng là quá trình con người tự hoàn thiện để trở thành con người xã hội.
Triết học Mác –Lênin xem xét con người trong mối quan hệ: tự nhiên
- con người - xã hội. Con người vừa là sản phẩm của tự nhiên và xã hội
đồng thời là chủ thể cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội. Vì thế trong sự phát
triển con người, tự nhiên và xã hội là hai mặt thống nhất (không thể tách
rời hay biệt lập).
Bằng những hoạt động sáng tạo của cải vật chất và tinh thần, con
người đã xác lập vai trò làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ chính
bản thân mình. ở con người, tự nhiên không còn là tự nhiên thuần tuý và xã
hội là xã hội gắn với tự nhiên. Con người là một chỉnh thể thống nhất tự
nhiên - xã hội.
Quan niệm của Mác về bản chất con người cần phải được nhận thức
đầy đủ, đúng đắn. Nếu chỉ nhấn mạnh mặt này hay mặt khác, hoặc giãn
290
lược quan hệ xã hội vào quan hệ giai cấp, quan hệ chính trị, hoặc quy tất cả
những gì thuộc về con người vào bản chất của nó thì đều là nhận thức sai
lầm và xuyên tạc triết học Mác.
Mặt khác, cần nhận thức các quan hệ xã hội quy định bản chất của
con người được triết học Mác- Lênin xem xét không tách rời, cô lập với
quan hệ sản xuất là cơ sở luôn ở trong quá trình vận động và biến đổi cùng
với quan hệ giữa con người với tự nhiên. Vì vậy bản chất con người không
phải là cái bất biến. Nó luôn vận động, biến đổi và phát triển theo xu hướng
ngày càng hoàn thiện hơn.
2. Mối quan hệ cá nhân và xã hội
a) Một số khái niệm
Các khái niệm "con người", “cá nhân” "cá thể", "cá tính", "nhân
cách" có mối liên hệ mật thiết, giữa chúng có sự đan xen lẫn nhau nhưng
không phải là những khái niệm đồng nhất.
"Con người": là một thực thể sinh vật - xã hội mang bản chất xã hội,
là chủ thể của hoạt động nhận thức và thực tiễn, của những quan hệ xã hội
và giao tiếp. Khái niệm Con người dùng để chỉ một chỉnh thể sinh học - xã
hội. Cơ thể con người là một thực thể sinh vật, ở bậc thang cao nhất của sự
tiến hoá vật chất. Là một loài sinh vật, con người có những đặc thù cấu trúc
cơ thể là tiền đề vật chất cho mọi sự phát triển của nó. Yếu tố sinh học
trong con người là "những yếu tố hữu sinh, hữu cơ, những cái về mặt phát
sinh gắn bó với tổ tiên động vật của con người".1 Đặc biệt, bộ não phát
triển là tổ chức vật chất cao nhất trong điều kiện tồn tại xã hội của con
người, có khả năng phản ánh thế giới, có khả năng tiếp thu và truyền đạt
cho người khác những kinh nghiệm lịch sử xã hội.
1 Nguyễn Trọng Chuẩn: (1992), “Một số vấn đề cần được quan tâm: Mối quan hệ giữa các yếu tố
sinh học và các yếu tố xã hội trong con người”, Triết học (9), tr.13
291
Ph.Ăngghen đã viết: "lao động sáng tạo ra con người" với hàm ý lao
động là yếu tố quyết định nhất trong quá trình chuyển biến từ con vượn
thành con người có ý thức ".Trước hết là lao động; sau lao động và đồng
thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh
hưởng đến bộ óc của con vượn, làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển
thành bộ óc của con người", và "khi bộ óc phát triển, thì các công cụ trực
tiếp của bộ óc, tức là các giác quan, cũng song song phát triển theo”2.
Con người là chủ thể của ý thức mà ý thức đã là sản phẩm xã hội.
Yếu tố xã hội trong con người là "tất cả những quan hệ, những biến
đổi xuất hiện do ảnh hưởng của các điều kiện xã hội khác nhau, những quy
định về mặt xã hội tạo nên cá nhân con người"1. Những đặc trưng cơ bản
của con người khẳng định con người là đỉnh cao của sự phát triển tự nhiên
đồng thời là một thực thể xã hội: Có lao động, ý thức và ngôn ngữ. Kết quả
là con người được sinh thành như một chỉnh thể sinh học - xã hội."Cái tự
nhiên (sinh vật) và cái xã hội ở con người không phải là song song tồn tại
mà làm môi giới cho nhau, thâm nhập vào nhau và in dấu lên toàn bộ hoạt
động sống của con người"2.
Cá nhân: trước hết dùng để chỉ một con người với tất cả đặc điểm
cấu tạo cơ thể đại biểu cho loài; thứ hai là một phần tử đơn nhất của cộng
đồng xã hội”3. Là phạm trù chỉ một con người cụ thể, xác định có bản sắc
riêng để phân biệt người này với người khác. Cá nhân là một phần tử đơn
nhất của cộng đồng. Cá nhân là khái niệm dùng để chỉ một con người hiện
thực, là một thành viên của xã hội và là chủ thể mang nhân cách.
2 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1994, t.20, tr. 646
1 Nguyễn Trọng Chuẩn, Sđd, tr.13.
2 Chủ nghĩa xã hội và nhân cách. Nxb Sách Giáo khoa Mác- Lênin, Hà Nội 1983, t.2, tr .28.
3 A.G. Xpirkin: Triết học xã hội, Nxb. Tuyên huấn, Hà Nội 1989, t.2, tr. 25
292
Mỗi con người, ngay từ đứa trẻ mới sinh ra đã tiềm tàng trong nó
những điều kiện và khả năng để trở thành cá nhân như cấu tạo cơ thể, hệ
thần kinh và các giác quan... Nhưng con người được xem như là một cá
nhân khi nó đạt tới trình độ trưởng thành về mặt thể lực, trí tuệ, trưởng
thành về mặt xã hội. Con người là một cá nhân trong mối quan hệ với xã
hội, thông qua quan hệ xã hội để khẳng định cái "Tôi" có bản sắc riêng, đặc
điểm riêng và đạt được một trình độ nhận thức nhất định như là kết quả
phát triển nội tại của chính nó. Hơn nữa, xã hội mà trong đó cá nhân hình
thành và phát triển là xã hội ở trình độ phát triển nhất định. Mỗi giai đoạn
phát triển của lịch sử xã hội sẽ có một kiểu cá nhân đặc thù của nó. Vì vậy
cá nhân là một hiện tượng mang tính lịch sử. Trong điều kiện sinh hoạt của
cộng đồng nguyên thuỷ, con người chưa thể trở thành một cá nhân. Trong
xã hội chiếm hữu nô lệ, người nô lệ chỉ tồn tại như "một con vật biết nói",
là "một công cụ" trong tay giai cấp chủ nô, do đó họ không phải là những
cá nhân. Trong xã hội phong kiến, người nông dân tuy có được một phần tự
do về thân thể, nhưng đời sống vật chất và tinh thần của họ lệ thuộc chúa
đất phong kiến. Họ không thể tồn tại và hoạt động với tư cách là một cá
nhân.
Chủ nghĩa tư bản ra đời, cùng với việc tạo ra một lực lượng sản xuất
khổng lồ so với tất cả các xã hội trước đã tạo điều kiện cho sự hình thành
những cá nhân. Nhưng nó đẩy tới chỗ chủ nghĩa cá nhân cực đoan. Con
người hoạt động vì lợi ích cá nhân mà chà đạp lên lợi ích của những người
khác, chà đạp lợi ích xã hội. Người công nhân trong xã hội tư bản có quyền
tự do không phụ thuộc vào một ông chủ cụ thể nào, nhưng đó là tự do bán
sức lao động cho một ông chủ nào đó. Về thực chất đó vẫn là một kiểu "nô lệ".
Xã hội sẽ vận động đến một trình độ mà ở đó sự phát triển của mỗi
người là điều kiện cho sự phát triển tự do và toàn diện của xã hội. Con
người tồn tại với tư cách một cá nhân đích thực - cá nhân mang nhân cách
293
phát triển và hoàn thiện. Đó là xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa mà sự phát triển tự nhiên và toàn diện của con người trở thành mục
đích tự thân của lịch sử- Trong mối quan hệ nội tại, cá nhân là chủ thể
mang nhân cách.Trong mối quan hệ với xã hội, con người là mục tiêu và
động lực của phát triển xã hội. Mục tiêu đó đang từng bước được thực hiện
trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội.
Với tư cách là một thành viên của xã hội, con người được cụ thể hoá
trong những cá nhân hiện thực. Nói một cách khác, mỗi cá nhân là một
chỉnh thể đơn nhất gồm cả một hệ thống những đặc điểm cụ thể, riêng biệt,
không lặp lại giữa các cá thể về hình dáng, sức khoẻ, năng lực, trí tuệ, ý
chí, tình cảm v.v.
Sự phát triển của cá nhân phụ thuộc vào sự phong phú của những
quan hệ xã hội mà cá nhân đó tham dự. Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức,
C.Mác đã viết: Chỉ trong cộng đồng cá nhân mới có những phương tiện để
phát triển toàn diện những năng khiếu cuả mình; chỉ có trong cộng đồng
mới có thể có tự do cá nhân. Vấn đề đặt ra là ở chỗ, phải tạo ra môi trường
xã hội trong đó những phẩm chất và năng lực không bị hoà tan mà được
phát triển tới trình độ tự ý thức, tự biểu hiện tự đánh giá, tự điều chỉnh hành
vi của mình với tư cách chủ thể của hoạt động, của lịch sử
Cá thể: trước hết chỉ tính chất chỉnh thể, là một đơn vị con người,
tính không thể chia nhỏ về những đặc điểm của một chủ thể vật chất là sản
phẩm của sự tiến hoá giống loài, là một cấu tạo về kiểu di truyền nhất định.
Cá thể là một đại diện của loài. Thứ hai, cá thể chỉ sự riêng biệt, cá biệt của
một chủ thể riêng lẻ với các đại biểu khác của loài. Một con người trong
mối quan hệ với xã hội thì gọi là cá nhân, trong tư cách đại diện cho loài
gọi là cá thể.
Cá tính chỉ tính cách độc đáo, tính không lặp lại ở mỗi cá nhân. Cá
tính của con người là một hiện tượng hoàn chỉnh, tổng hợp, đồng thời lại có
294
tính khác biệt (tính khác biệt là đặc trưng của cá tính). Cá tính vừa mang
những đặc trưng di truyền sinh vật, vừa là những biểu hiện tâm lý, xã hội
của cá nhân, trong các hoạt động, lao động, giao tiếp; biểu hiện những nét
đặc thù của sự phát triển của mỗi con người riêng biệt, trên cơ sở tác động
lẫn nhau giữa yếu tố di truyền và hoàn cảnh. Cá tính là cái góp phần tạo
nên bản sắc, làm hình thành cái "Tôi" độc đáo của mỗi con người với tư
cách là một nhân cách. Con người là những cá nhân với những thuộc tính
riêng, một mặt phản ánh những đặc trưng phổ biến xã hội - điển hình, mặt
khác biểu hiện nét cá tính đặc thù của nhân cách. Sự phát triển của cá tính
vừa là thước đo tính khách quan mức độ phát triển nhân cách vừa là nhân
tố của sự phát triển đó.
Nhân cách: nói lên trình độ phát triển và trưởng thành về chất lượng
xã hội của con người.
Trong cách hiểu thông thường, nhân cách thường được coi là những
phẩm chất đạo đức, những giá trị làm người của con người, là sự kết hợp
phẩm chất đạo đức và năng lực; là những con người có đủ đức và tài .
Triết học Mác- Lênin không hạn chế nhân cách trong mặt này hay
mặt khác, mà xem nhân cách như một chỉnh thể cá nhân có tính lịch sử cụ
thể.
Như vậy, Nhân cách là hệ thống giá trị làm Người mà cá nhân đạt
được với sự trưởng thành về phẩm chất và năng lực trong quá trình thực
hiện các chức năng xã hội của mình, được xã hội đánh giá và thừa nhận.
Nhân cách là một sản phẩm lịch sử xã hội xác định. Đồng thời, sản
phẩm đó lại được cá thể hoá sâu sắc ở mỗi con người với tất cả sự khác
biệt về sinh thể, về sắc thái của từng người tạo thành nét bản sắc, độc đáo,
mang tính cá biệt, tính đơn nhất.
Con người được sinh ra, còn nhân cách được hình thành. Sự hình
295
thành nhân cách của cá nhân chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố: di truyền,
hoàn cảnh (tự nhiên, xã hội) và hoạt động của họ, trong đó hoạt động của
cá nhân giữ vai trò quyết định. Sự hình thành và phát triển nhân cách của
mỗi cá nhân phụ thuộc vào các mối quan hệ xã hội mà cá nhân đó tham dự.
Cá nhân càng đi sâu vào đời sống xã hội bao nhiêu, các mối quan hệ xã hội
của cá nhân càng phong phú bao nhiêu thì nhân cách của cá nhân đó càng
phát triển phong phú, toàn diện và sâu sắc bấy nhiêu
Nhân cách của mỗi người tùy thuộc vào năng lực tiếp nhận giáo dục
xã hội và chuyển hoá thành nhu cầu và năng lực tự giáo dục của mỗi cá
nhân. Quá trình xã hội hoá cá nhân đòi hỏi cá nhân phải có tính tích cực
thực sự thể hiện trong việc thường xuyên điều chỉnh hành động, hành vi, cử
chỉ, thái độ của mình. Sự tự điều chỉnh hành vi đến lượt nó lại yêu cầu cá
nhân phải phát triển năng lực tự đánh giá, gắn liền với sự phát triển của tự ý thức.
Xã hội: theo nghĩa rộng: là một kết cấu vật chất ở trình độ phát triển
phức tạp nhất, cao nhất, là tập hợp có tổ chức của những con người hiện
thực, là tập hợp của những cá nhân.
Cộng đồng xã hội rộng nhất là xã hội loài người; các cộng đồng xã
hội hẹp hơn là quốc gia, dân tộc, giai cấp, gia đình.
b) Quan hệ biện chứng giữa cá nhân và xã hội
Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội là mối quan hệ biện chứng, tác
động lẫn nhau giữa cái chung và cái riêng, cái toàn thể với cái bộ phận. Xã
hội là tập hợp có tổ chức, liên hệ giữa các cá nhân. Xã hội tồn tại và phát
triển thông qua sự hoạt động của các cá nhân. Cá nhân là sản phẩm của xã
hội, chịu sự tác động của lịch sử xã hội. Cá nhân biểu hiện trình độ phát
triển của xã hội. Mỗi cá nhân là một thành viên của cộng đồng xã hội.
Trong mối quan hệ xã hội, cá nhân được hình thành và phát triển. Bất cứ cá
nhân nào cũng thuộc về một cộng đồng: giai cấp, dân tộc, quốc gia hay một
tổ chức xã hội nào đó. Chỉ là cá nhân trong quan hệ xã hội, không có cá
296
nhân biệt lập tách rời xã hội. Ngược lại, cũng không có xã hội chung chung
trừu tượng tồn tại bên ngoài những cá nhân.
Mỗi cá nhân là một cái "tôi" sinh động gia nhập vào đời sống tập thể,
xã hội nhưng không "hoà tan" vào cái chung. Chính trong quan hệ với tập
thể, với xã hội, cá nhân tự biểu hiện, tự khẳng định cái riêng, cái bản sắc
độc đáo của mình. Gia đình là tế bào của xã hội. Những hình thức tập thể
trong đó cá nhân thực hiện hoạt động học tập, lao động, sinh hoạt... là
những cấp độ xã hội mà cá nhân gia nhập vào.
Nền tảng của mối quan hệ giữa cá nhân với tập thể, với xã hội là lợi
ích và quan hệ giữa các lợi ích; Lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã
hội. Việc tổ chức trật tự xã hội thực chất là việc sắp xếp các lợi ích nhằm
khai thác được nhiều nhất khả năng của mọi thành viên trong cộng đồng
trên cơ sở giải quyết hài hoà quan hệ lợi ích giữa cá nhân với xã hội theo
yêu cầu và điều kiện phát triển kinh tế xã hội tong từng thời kỳ.
Động lực trực tiếp thúc đẩy sự hoạt động của con người chính là nhu
cầu và lợi ích cá nhân của họ. Vì vậy quan tâm đầy đủ tới lợi ích của cá
nhân (cả lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần) là khuyến khích người lao
động phát huy tính tích cực, chủ động trong các hoạt động của họ trong đời
sống xã hội. Nhờ đó, tiềm năng sáng tạo ở mỗi con người được khai thác,
sức sản xuất xã hội được giải phóng. Đó cũng là điều kiện phát triển con
người với tư cách là cá nhân có nhân cách và phát triển xã hội.
Trong thực tế, đã có lúc chúng ta phạm sai lầm đồng nhất cá nhân với
chủ nghĩa cá nhân. Vì vậy những nhu cầu và lợi ích chính đáng của con
người trong tư cách cá nhân đã không được quan tâm thích đáng. Khát
vọng của con người về một cuộc sống sung túc, giàu có trong công bằng và
văn minh bị kìm hãm bởi chủ nghĩa bình quân trong lao động và hưởng thụ.
Hạnh phúc cá nhân thường bị xem nhẹ và không được gắn với mục tiêu
chung của tập thể, của cộng đồng. Việc xây dựng con người mới trước đây
297
chỉ đề cập đến "ý thức làm chủ tập thể", "tinh thần yêu lao động", "tinh
thần quốc tế vô sản" một cách chung chung, trừu tượng. Những điều đó đã
làm giảm đi động lực hoạt động của mỗi cá nhân. Nó kìm hãm sự phát triển
đích thực của con người, làm thui chột năng lực sáng tạo của cá nhân và xã
hội rơi vào tình trạng trì trệ kém phát triển.
Quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội xét đến
cùng là thống nhất biện chứng. Điểm xuất phát là chỗ con người vừa là chủ
thể vừa là khách thể tác động của các lực lượng xã hội và các quan hệ xã hội.
Việc quan tâm chăm sóc tới nhu cầu và lợi ích cá nhân, tạo điều kiện
phát triển năng lực phong phú và đa dạng của mỗi cá nhân là điều kiện thúc
đẩy sự phát triển của xã hội. Những cá nhân có nhân cách phát triển có sức
khoẻ, có tài năng và có trách nhiệm cao đối với xã hội sẽ tác động tích cực
đến xã hội. Ngược lại, khi lợi ích cá nhân thiết thân không được quan tâm
đúng mức sẽ làm mất đi động lực bền vững trong những hoạt động của con
người: những cá nhân kém phát triển về năng lực trí tuệ, nhân cách thoái
hoá không những chỉ là gánh nặng cho xã hội mà còn là lực cản của sự tiến
bộ xã hội.
Để giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã
hội phải dựa trên cơ sở trình độ phát triển của nền sản xuất; phải tính đến
khả năng đáp ứng nhu cầu của các thành viên trong xã hội. Mặt khác phải
xác định đúng đắn vị trí, vai trò của các nhu cầu và lợi ích trong hệ thống
nhu cầu và lợi ích hết sức phong phú, đa dạng của cá nhân và xã hội. Khi
những nhu cầu hiện có đã được thoả mãn một cách hợp lý cần phải tạo
hoàn cảnh làm nảy sinh những nhu cầu mới theo hướng có lợi cho cộng
đồng. Coi trọng lợi ích vật chất đồng thời với lợi ích tinh thần.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thường xuyên nhắc nhở: Chúng ta chống
chủ nghĩa cá nhân không phải là giày xéo lên lợi ích cá nhân.
Nếu chỉ coi trọng lợi ích cộng đồng mà không quan tâm đến lợi ích cá
298
nhân; hoặc chỉ thoả mãn lợi ích cá nhân mà chà đạp lợi ích xã hội đều là sai
lầm và gây nên những hậu quả tiêu cực cho sự phát triển của cả xã hội và
cá nhân.
Trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, việc
giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội đang đặt ra yêu cầu: Phải có
chính sách xã hội đúng đắn và đồng bộ đảm bảo kết hợp hài hoà giữa lợi
ích cá nhân và lợi ích xã hội; bảo đảm sự công bằng và nghĩa vụ của mọi
công dân. Chủ nghĩa xã hội được xây dựng theo nguyên tắc "Tất cả từ con
người và vì con người" nhằm mục đích cao nhất là giải phóng con người,
cá nhân được phát triển tự do và toàn diện.Con người vừa là mục tiêu vừa
là động lực của mọi chiến lược phát triển kinh tế, xã hội. Nghị quyết hội
nghị lần thứ hai ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khoá
VII khẳng định: Phát triển con người là cơ sở của phát triển nhanh và bền
vững.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội của Đảng ta đã chỉ rõ: "Phương hướng lớn của chính sách xã hội là:
Phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về
nghĩa vụ và quyền lợi công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ
xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa đáp ứng nhu cầu
trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài, giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng
xã hội".
Quá trình hội nhập và phát triển hiện nay đang tạo điều kiện để mỗi
cá nhân, mỗi cộng đồng, dân tộc tiếp cận nhanh chóng với những giá trị
tiến bộ của nhân loại. Mỗi con người đều được mở rộng phạm vi hoạt động
và quan hệ xã hội là điều kiện phát triển nhân cách. Sự xuất hiện những
vấn đề mang tính chất toàn cầu như vấn đề môi trường, thiên tai, bệnh tật,
dân số, chiến tranh hạt nhân... đều liên quan đến lợi ích sống còn của cá
nhân và xã hội. Nó đòi hỏi mỗi người quan tâm đến nhau hơn, quan tâm
299
đến vận mệnh dân tộc và cả nhân loại, đoàn kết đấu tranh chống tất cả
những biểu hiện phi nhân tính.
Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội ngày càng được thực hiện theo
hướng nhân đạo hoá xã hội chủ nghĩa.
3. Vai trò của quần chúng nhân dân và của cá nhân - lãnh tụ
trong sự phát triển của lịch sử
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định: lịch sử xã hội là do chính hoạt
động của con người làm nên chứ không phải do sự sáng tạo của một lực
lượng siêu nhiên nào. Đó chính là quá trình con người đấu tranh cải tạo tự
nhiên, cải tạo xã hội và tự cải tạo chính bản thân mình.
Mỗi sự kiện lịch sử, mỗi bước ngoặt cách mạng của dân tộc và thời
đại đều có sự tham gia đông đảo, tích cực và mạnh mẽ của quần chúng
nhân dân. Mỗi thời đại, mỗi dân tộc, mỗi phong trào cách mạng đều xuất
hiện những cá nhân lãnh tự kiệt xuất.
Tuy nhiên, vai trò của quần chúng nhân dân và của cá nhân lãnh tụ
đối với lịch sử không giống nhau. Trong lịch sử tư tưởng cũng có những
quan điểm đối lập về vấn đề này.
Quan điểm duy tâm về lịch sử coi quần chúng nhân dân chỉ là hạng
người dốt nát, hời hợt, là kẻ "tiểu nhân", là "củi mục". Đối với lịch sử họ
chỉ là lực lượng thừa hành, là một "bầy cừu" ngoan ngoãn, là công cụ trong
tay các bậc vĩ nhân để họ thực hiện ý đồ chính trị của mình. Khổng tử và
các môn hạ của ông đều coi "tiểu nhân" là hạng người đáng khinh, là những
kẻ bị trị. Còn thánh nhân, quân tử mới là người được quyền thống trị. Ông
ví quân tử như ngọn gió, tiểu nhân là ngọn cỏ, gió phải lướt trên ngọn cỏ.
Giai cấp thống trị có đặc quyền được đè đầu cưỡi cổ quần chúng lao khổ.
Theo quan niệm duy tâm, chỉ có vĩ nhân mới là người quyết định sự phát
triển của lịch sử. Họ là "cứu tinh" của thời đại, là linh hồn của thế giới.
Trong quan hệ với quần chúng họ là "đấng bề trên".
300
Thuyết "Định mệnh lịch sử" lại cho rằng: con người chỉ là những con
rối múa may trên sân khấu lịch sử. Vĩ nhân là "tượng trưng" hay là "dấu
hiệu" của các sự kiện lịch sử vì "mưu sự tại thiên, hành sự tại nhân".
Trong học thuyết duy tâm khách quan của Hê-ghen, sự phát triển của
lịch sử là do tinh thần huyền bí bên ngoài thế giới quyết định. Tinh thần ấy
điều khiển sự vận động của lịch sử bằng những khát vọng, những say mê
của con người, kể cả những con người vĩ đại. Mặc dù quan điểm của ông
về vai trò của cá nhân có chứa đựng những nhân tố hợp lý khi cho rằng: Vĩ
nhân là người thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của giai cấp, dân tộc, của thời
đại và chủ động tìm cách thoả mãn những nguyện vọng ấy; trong mục tiêu
và hành động của cá nhân vĩ đại có chứa đựng cái phổ biến và cái tất yếu;
song kết cục ông đã rơi vào thuyết định mệnh. Vì theo Ông, quần chúng
nhân dân hay những nhân vật lịch sử chẳng qua cũng chỉ là công cụ, là sự
thể hiện của "Tinh thần tuyệt đối" mà thôi.
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: quần chúng nhân dân là người
quyết định sự phát triển của lịch sử.
Quần chúng nhân dân là những bộ phận, tầng lớp dân cư có lợi ích
căn bản nhất trí với nhau, tập hợp dưới sự lãnh đạo của một lãnh tụ, một tổ
chức hay chính Đảng nào đó, tuỳ theo từng sự kiện lịch sử hay chế độ xã
hội mà xác định cụ thể. Nói chung, quần chúng nhân dân bao gồm tất cả
nhân dân lao động và các lực lượng tiến bộ trong xã hội mà hoạt động của
họ có tác động biến đổi lịch sử.
Một là, họ trực tiếp lao động sản xuất, làm ra của cải vật chất, đó là
điều kiện tồn tại và phát triển của xã hội. Trong quá trình lao động họ đã
sáng tạo ra tư liệu sản xuất. Bản thân người lao động là yếu tố cơ bản của
lực lượng sản xuất, quyết định sự vận động và phát triển của phương thức
sản xuất của lịch sử xã hội.
Hai là, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của cách mạng xã
301
hội, của các hoạt động chính trị, xã hội, văn hoá, tinh thần. Mỗi chế độ xã
hội khi mới ra đời bao giờ cũng đáp ứng được phần nào nguyện vọng, lợi
ích của quần chúng nhân dân. Khi nó không còn phù hợp với lợi ích và
nguyện vọng của quần chúng nhân dân thì quần chúng nhân dân sẽ đấu
tranh đòi thay đổi. Mọi cuộc cách mạng xã hội chuyển từ chế độ này sang
chế độ khác đều có sự tham gia tích cực, đông đảo của quần chúng nhân
dân. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Trong những ngày cách
mạng, nhân dân thể hiện sức mạnh của mình cao nhất, sáng tạo nhất. Vì
vậy, cách mạng xã hội là ngày hội của quần chúng. Mác nhấn mạnh rằng,
lịch sử càng đi sâu (phát triển) thì khối quần chúng nhân dân đông đảo
ngày càng mở rộng và cách mạng là sự nghiệp của bản thân quần chúng.
Quần chúng nhân dân là lực lượng hiện thực hoá tư tưởng, chuyển
sức mạnh tinh thần thành một sức mạnh vật chất. Tư tưởng, tự nó không
làm biến đổi xã hội. Tư tưởng chỉ có giá trị khi nó tác động làm thức tỉnh
và lôi cuốn hàng triệu, hàng triệu người hành động làm biến đổi lịch sử.
Thông qua hoạt động của quần chúng nhân dân, những tư tưởng tiến bộ và
cách mạng mới đạt được mục đích của nó là cải biến xã hội.
Những tư tưởng dẫn đến sự biến đổi lịch sử là tư tưởng đại diện cho
nguyện vọng, lợi ích, ý chí của quần chúng, thâm nhập vào quần chúng.
Tính chân lý của tư tưởng được kiểm nghiệm thông qua sự tiếp thu và hoạt
động của quần chúng. Chỉ khi đó, nó mới được chuyển thành sức mạnh vật
chất làm biến đổi xã hội.
Quần chúng nhân dân lao động cùng với những hoạt động vật chất và
tinh thần của họ luôn luôn là cơ sở, là đề tài, là nguồn cảm hứng và là nội
dung của sự sáng tạo nghệ thuật, khoa học, văn hóa tinh thần. Mọi tác
phẩm nghệ thuật, khoa học... chỉ có giá trị khi nó phục vụ nhân dân, phản
ánh tâm tư, nguyện vọng và lợi ích của quần chúng. Những cá nhân lỗi lạc
trên các lĩnh vực của đời sống xã hội bao giờ cũng được sinh ra trên một
302
cái nền của nhân dân. Nhân dân anh hùng sẽ sinh ra những anh hùng,
những lãnh tụ tiêu biểu của mình.
Trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế đến chính trị, từ
thực tiễn đến tinh thần tư tưởng, quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò
quyết định.
Khẳng định vai trò quyết định của quần chúng đối với tiến bộ và phát
triển xã hội không có nghĩa là chủ nghĩa duy vật lịch sử phủ nhận vai trò
của các cá nhân lỗi lạc, các lãnh tụ kiệt xuất, anh hùng trong lịch sử. Triết
học Mác đánh giá đúng đắn vai trò của các cá nhân đó.
Lịch sử xã hội loài người diễn ra như một quá trình lịch sử tự nhiên.
Nó không ngừng vận động và phát triển tuân theo các quy luật khách quan.
Quần chúng nhân dân là người sáng tạp chân chính của lịch sử bằng hoạt
động thực tiễn cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội. Nhưng hoạt động của họ
không phải do ý muốn chủ quan mà do những quy luật khách quan chi
phối. Nếu con người nhận thức được những quy luật đó và hoạt động của
họ phù hợp với tiến trình lịch sử thì thúc đẩy lịch sử tiến lên. Ngược lại,
nếu hoạt động của con người không phù hợp với quy luật lịch sử sẽ gây nên
tác động tiêu cực, kìm hãm sự phát triển xã hội.
Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, cá nhân lãnh tụ là
những người có tài năng, trí tuệ xuất chúng xuất hiện trong các hoạt động
chính trị, kinh tế, quân sự, khoa học, kỹ thuật v.v... Những cá nhân xuất
chúng trở thành lãnh tụ, thành vĩ nhân vì:
Họ sớm nhận thức được quy luật khách quan của quá trình kinh tế,
chính trị, xã hội. Do đó, họ nắm bắt được xu thế chung của thời đại và của
dân tộc, hướng cho hoạt động của con người phù hợp theo xu thế đó.
Họ có khả năng vạch ra chiến lược, chương trình hành động cách
mạng, đáp ứng được yêu cầu của thời đại và dân tộc, đảm bảo sự thành
công của cách mạng.
303
Họ có khả năng tập hợp, tổ chức và giáo dục quần chúng thành lực
lượng cách mạng, thống nhất hành động hướng vào mục đích chung của
lịch sử.
Họ có một ý chí mãnh liệt, có nghị lực phi thường và tinh thần dũng
cảm hơn người khác trong việc khắc phục những khó khăn, trở ngại đưa sự
nghiệp cách mạng tiến lên.
Nhờ đó, cá nhân lãnh tụ có vai trò thúc đẩy tiến trình lịch sử, đem lại
hiệu quả cao nhất cho hoạt động của quần chúng khi họ nhận thức và vận
dụng đúng đắn quy luật khách quan. Sức mạnh của lãnh tụ là ở chỗ, họ
phục vụ cho những lợi ích của những giai cấp, những tầng lớp tiến bộ, cho quần
chúng nhân dân. Vì vậy, họ được nhân dân tin tưởng và tích cực ủng hộ.
Ngược lại những cá nhân thoái hoá, biến chất, xa rời quần chúng sẽ bị
cô lập, mất dần sức mạnh. Những cá nhân đó làm suy giảm hiệu quả của
hành động cách mạng, do đó lịch sử trải qua những bước quanh co.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử xem xét vai trò to lớn của cá nhân trong
mối quan hệ mật thiết với vai trò quyết định của quần chúng nhân dân
trong lịch sử. Vai trò của quần chúng nhân dân và của lãnh tụ đối với lịch
sử tuy có khác nhau, nhưng có quan hệ biện chứng. Không có phong trào
quần chúng thì không có lãnh tụ, cá nhân vĩ đại trở thành lãnh tụ trong
phong trào quần chúng, được quần chúng suy tôn.
Khi xem xét vai trò của quần chúng nhân dân và của cá nhân lãnh tụ
trong tiến trình lịch sử, chủ nghĩa Mác –Lênin cũng chỉ ra rằng: mỗi dân
tộc, mỗi thời đại có những anh hùng riêng, có lãnh tụ riêng để giải quyết
những nhiệm vụ do lịch sử đặt ra. Vai trò của quần chúng nhân dân ở mỗi
thời kỳ, mỗi giai đoạn, mỗi thời đại lịch sử cũng khác nhau. Chỉ dưới chủ
nghĩa xã hội, nhân dân lao động thực sự là chủ thể của mọi hoạt động kinh
tế, chính trị, văn hoá, xã hội, khoa học, nghệ thuật v.v.. họ mới phát huy
cao nhất mọi năng lực của mình.
304
Những lãnh tụ của giai cấp vô sản là những người đại biểu cho lợi ích
của toàn thể nhân dân lao động, nhận thức và vận dụng quy luật phát triển
xã hội một cách tự giác và sáng tạo nhất.
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin là những cá nhân lỗi lạc nhất của
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đã để lại những dấu ấn đặc biệt
sâu đậm trong lịch sử. Đó là những nhà lý luận và nhà tổ chức thiên tài của
cả phong trào sâu rộng nhất trong các phong trào quần chúng - phong trào
cách mạng vô sản. Đó là những lãnh tụ vĩ đại không những thiên tài trí tuệ,
mà còn là những nhân cách lớn, cao thượng có ảnh hưởng sâu rộng trong
nhân dân.
Khi nhận định về ảnh hưởng của Lênin đối với các dân tộc phương
Đông, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận xét: "Không phải chỉ thiên tài của
Người mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, nếp
sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của Người thầy đã ảnh
hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á, khiến cho trái tim của họ hướng về
Người không gì ngăn cản nổi".
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là lãnh tụ kiệt xuất, là người anh
hùng dân tộc vĩ đại, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào giải phóng dân tộc và
phong trào công nhân quốc tế, mà còn là danh nhân văn hoá thế giới. Tên
tuổi của Người mãi mãi gắn liền với lịch sử hào hùng của dân tộc. Người là
lãnh tụ tiêu biểu nhất cho đạo đức mới, kết tinh những gì cao đẹp nhất của
dân tộc, thời đại và của cả nhân loại. Người là niềm tự hào, là tấm gương
cho các thế hệ mai sau noi theo.
Trong khi khẳng định vai trò to lớn của các cá nhân anh hùng lãnh tụ
đối với lịch sử, chúng ta phải kiên quyết chống sùng bái cá nhân.
Sùng bái cá nhân là tuyệt đối hoá, thần thánh hoá vai trò của cá nhân
và phủ nhận vai trò của quần chúng. Về mặt triết học, sùng bái cá nhân là
biểu hiện quan điểm duy tâm về lịch sử, đối lập với thế giới quan triết học
305
duy vật biện chứng của Mác.
Về thực tiễn chính trị - xã hội, sùng bái cá nhân là nhằm bảo vệ lợi
ích của giai cấp thống trị bóc lột. Nó làm cho quần chúng mất lòng tin vào
lực lượng của bản thân mình, làm cho họ chỉ biết phục tùng, mù quáng,
thiếu độc lập tự chủ, không phát huy được tính tích cực sáng tạo. Do đó vai
trò của quần chúng bị hạn chế.
Trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, nếu người đứng đầu
Đảng và Nhà nước mắc phải tệ sùng bái cá nhân thì sẽ gây ra hậu quả khôn
lường. Tệ sùng bái cá nhân làm những nhà lãnh đạo xa rời quần chúng, tự
cho mình đứng trên tập thể, trên mọi tổ chức, coi thường quần chúng, tự
cho mình quyền quyết định tất cả, dẫn tới độc đoán, chuyên quyền, vi phạm
chế độ tập trung dân chủ trong Đảng, dẫn đến sự chia rẽ, bè phái, phá vỡ sự
đoàn kết trong Đảng và trong nhân dân, làm mất dần sức mạnh lãnh đạo
của Đảng.
Vì vậy, Đảng ta luôn luôn xác định, rằng: để đảm đương vai trò lãnh
đạo, Đảng phải luôn luôn liên hệ mật thiết với quần chúng, lắng nghe ý
kiến của quần chúng, kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện của tệ sùng
bái cá nhân. Mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên trau dồi đạo đức
cách mạng, quán triết quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, học tập đạo đức, tác phong của Người, coi phê bình và tự phê
bình là nguyên tắc có ý nghĩa quan trọng đối với công tác xây dưụng đội
ngũ cán bộ. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã
chỉ rõ: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý ở
các cấp, vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối
sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân
dân”1…. Các cấp uỷ tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra đảng viên học tập,
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội 2001, tr.141.
306
không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị, học vấn, chuyên môn,
nghiệp vụ, kiến thức lãnh đạo, quản lý và vận động nhân dân.
307
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai1_2819.pdf