Công thức bạch cầu
Khi xác định công thức bạch cầu của lợn
mắc PED, chúng tôi thấy bạch cầu trung tính và
bạch cầu ái toan tăng cao so với lợn khoẻ mạnh,
còn bạch cầu ái kiềm, bạch cầu đơn nhân lớn và
lymphocyte lại giảm so với lợn khoẻ (p<0,05).
Như vậy có sự thay đổi rất rõ về công thức
bạch cầu giữa lợn mắc PED và lợn khoẻ mạnh.
Như chúng ta đã biết, bạch cầu trung tính có
khả năng thực bào mạnh, chúng thường có mặt
sớm nhất và hầu như có số lượng lớn nhất trong
bệnh PED, chúng có tính hoá ứng động dương
với các tổ chức viêm hoại tử. Chức năng chính
của chúng là thực bào: nuốt, trung hoà và có thể
tiêu huỷ dị vật. Điều này cũng có thể thấy trong
kết quả nghiên cứu của chúng tôi được trình bày
tại bảng 4. Kết quả cho thấy ở lợn khoẻ mạnh,
tỷ lệ bạch cầu trung tính là 42,64 ± 0,36%, trong
khi đó ở lợn mắc bệnh PED là 52,77 ± 0,22%.
Về tỷ lệ lymphocyte ở lợn khoẻ và lợn bệnh, tỷ
lệ lymphocyte ở lợn mắc PED (38,98 ± 0,23%)
thấp hơn so với lợn khoẻ (49,05 ± 0,44%). Hiện
tượng lymphocyte giảm ở lợn mắc PED là biểu
hiện khả năng miễn dịch bị giảm sút khi độc lực
virus gây suy thoái các tổ chức của cơ thể. Theo
Trần Cừ và cs. (1975), Tạ Thị Vịnh (1995) thì
lợn khoẻ có tỷ lệ bạch cầu trung tính thấp hơn
tỷ lệ lymphocyte, tuy nhiên khi lợn bị viêm ruột
thì tỷ lệ bạch cầu trung tính tăng cao hơn so với
lymphocyte
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Triệu chứng lâm sàng và chỉ tiêu sinh lý máu của lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (porcine epidemic diarrhea - Ped) nuôi tại tỉnh Thanh Hóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
14
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 5 - 2019
TRIEÄU CHÖÙNG LAÂM SAØNG VAØ CHÆ TIEÂU SINH LYÙ MAÙU CUÛA
LÔÏN MAÉC DÒCH TIEÂU CHAÛY CAÁP (PORCINE EPIDEMIC DIARRHEA - PED)
NUOÂI TAÏI TÆNH THANH HOAÙ
Hoàng Văn Sơn1, Phạm Ngọc Thạch2, Nguyễn Thị Lan2
TÓM TẮT
Nghiên cứu nhằm xác định những biểu hiện lâm sàng và một số đặc điểm sinh lý máu của lợn mắc
dịch tiêu chảy cấp (Porcine Epidemic Diarrhea - PED) để so với lợn khỏe nuôi tại tỉnh Thanh Hóa.
Kết quả nghiên cứu cho thấy triệu chứng lâm sàng điển hình của lợn mắc PED là ủ rũ, mệt mỏi; ỉa
chảy phân màu vàng xám, nhiều nước và lợn gầy sút nhanh (100%); nằm chồng lên nhau (82,50%);
bỏ bú, bỏ ăn (42,50%); nôn (40,00%). Lợn mắc PED có số lượng và tỷ khối hồng cầu (7,76x106/µL
và 43,84%) cao hơn so với lợn khoẻ (6,51 x106/µL và 37,30%), hàm lượng huyết sắc tố, nồng độ
huyết sắc tố trung bình ở lợn mắc PED cao hơn so với ở lợn khoẻ (p<0,05). Số lượng bạch cầu ở lợn
mắc PED (20,43 x103/µL) cao hơn so với ở lợn khoẻ (14,70 x103/µL), tuy nhiên số lượng bạch cầu đơn
nhân lớn và lymphocyte ở lợn mắc PED lại thấp hơn so với ở lợn khoẻ (p<0,05).
Từ khóa: Biểu hiện lâm sàng, các chỉ tiêu sinh lý máu, PED.
Clinical symptoms and blood physiological parameters of porcine
epidemic diarrhea (PED) infection pigs raising in Thanh Hoa province
Hoang Van Son, Pham Ngoc Thach, Nguyen Thi Lan
SUMMARY
The study were conducted to determine the clinical manifestations and some blood physiological
characteristics of the Porcine Epidemic Diarrhea (PED) infection pigs in comparison with the
healthy pigs raising in Thanh Hoa province. The studied results showed that the typical clinic
symptoms included yellow liquid diarrhea, moodiness, tiredness, thinning (100%); laying on
abdomen of the mother or overlap together (82.50%); anorexia (42.50%); vomiting (40.00%).
The PED infection pigs had a number of erythrocytes and hematocrit (7.76x106/µL and 43.84%)
higher than that of the healthy pigs (6.51 x106/µL and 37.30%). The average hemoglobin content
and concentration in the PED infection pigs was higher than that of the healthy pigs (p<0.05).
The number of leukocytes in the PED infection pigs (20.43 x103/µL) was higher than that of the
healthy pigs (14.70 x103/µL), however, the number of the big mononuclear leukocytes and the
lymphocytes were lower than that of the healthy pigs (p<0.05).
Keywords: Clinical manifestations, blood physiological parameters, PED.
1. Trường Đại học Hồng Đức
2. Học viện Nông nghiệp Việt Nam
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Dịch tiêu chảy cấp trên lợn hay còn gọi là
PED (Porcine Epidemic Diarrhea) do virus
thuộc nhóm Coronavirus gây ra. Trên đàn lợn
con dưới một tuần tuổi có những triệu chứng tiêu
chảy gây chết nhanh và rất khó hồi phục, thiệt
hại có thể đến 100% đàn. Bệnh được ghi nhận
ở nhiều nước như Anh, Bỉ, Nhật, Trung Quốc
và nhiều nước châu Âu. Hiện nay bệnh phân bố
khắp nơi trên thế giới (Andreas Pospischil et al.,
2002; Song và Park, 2012).
15
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 5 - 2019
Ở Việt Nam, dịch PED được phát hiện lần
đầu tiên vào năm 2008 và đã gây nhiều thiệt
hại cho ngành chăn nuôi lợn cả nước (Nguyễn
Tất Toàn và cs., 2012; Nguyễn Trung Tiến và
cs., 2015). Đã có nhiều công trình nghiên cứu
về dịch bệnh PED (Nguyễn Trung Tiến và cs.,
2015; Nguyễn Thị Hoa và cs., 2018; Nguyễn
Thị Thơm và cs., 2018), nhưng thường chỉ tập
trung nghiên cứu về các đặc điểm sinh học của
virus gây bệnh mà chưa có các nghiên cứu về
biểu hiện lâm sàng và đặc điểm sinh lý máu của
lợn mắc bệnh.
Các chỉ tiêu huyết học đóng vai trò quan
trọng trong chẩn đoán, tiên lượng bệnh và các
dạng ảnh hưởng trong nghiên cứu bệnh học
(Everds, 2006; Forbes et al., 2009). Thành phần
của máu là biểu hiện của những đáp ứng có hệ
thống với các thử nghiệm tiền lâm sàng và lâm
sàng cũng như với các tác nhân gây bệnh, các
thuốc trị liệu (Reagan et al., 2010). Do đó, các
đặc điểm sinh lý máu chính là tấm gương phản
chiếu tình trạng sức khỏe của vật nuôi (Nguyễn
Xuân Tịnh và cs., 1996).
Xác định các triệu chứng điển hình và các chỉ
tiêu sinh lý máu của bệnh PED để chẩn đoán,
đồng thời có thêm cơ sở khoa học cho việc xây
dựng các biện pháp xử lý, giảm bớt thiệt hại do
PED gây ra trên đàn lợn ở Việt Nam nói chung
và ở Thanh Hóa nói riêng, là vấn đề cấp thiết.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Lấy mẫu bệnh phẩm
- Lợn lai 3 máu (♂Dur x ♀LY/YL) ở 2 tuần
tuổi nuôi tại Thanh Hoá
- Lấy mẫu bệnh phẩm (phân, ruột) từ những
đàn lợn có triệu chứng và dương tính khi sử dụng
test kit PED Ag, cho vào trong túi nylon hoặc
các hộp chuyên dụng vô trùng, bảo quản (2-40C)
và vận chuyển ngay về phòng thí nghiệm trong
vòng 24 giờ. Xác định sự có mặt của virus PED
bằng phương pháp RT-PCR.
- Lấy máu vịnh tĩnh mạch cổ lợn mắc PED và
lợn khoẻ mạnh vào sáng sớm trước khi cho bú
để xác định các chỉ tiêu sinh hoá máu. Máu lấy
xong đưa nhanh vào ống chống đông EDTA lắc
nhẹ, bảo quản ở nhiệt độ 2-80C, đưa về phòng
thí nghiệm.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Tiến hành theo dõi trên 40 lợn khoẻ mạnh và
40 lợn mắc PED là lợn lai 3 máu (♂Dur x ♀LY/
YL) ở tuần tuổi thứ 2. Lợn thí nghiệm là con của
các lợn nái đã được tiêm phòng các loại vacxin
phòng bệnh như Dịch tả lợn cổ điển, PRRS,
PCV2, Tụ - Dấu, Phó thương hàn; có kết quả
RT-PCR âm tính với Dịch tả lợn cổ điển, PRRS
và kết quả PCR âm tính với PCV2.
Xác định lợn mắc bệnh PED
- Lợn có biểu hiện triệu chứng lâm sàng điển
hình;
- Kết quả thử test kit PED Ag dương tính;
- Thực hiện phương pháp RT-PCR theo
quy trình chẩn đoán bệnh tiêu chảy ở lợn do
Coronavirus trong TCVN 8400-38-2015, được
công nhận phù hợp ISO/IEC 17025:2005 và cho
kết quả dương tính.
- Có số lượng các loại vi khuẩn E. coli,
Salmonella và Cl. perfringens/g phân nằm dưới
ngưỡng bệnh lý.
Xác định các biểu hiện lâm sàng của lợn
bệnh: Bằng theo dõi, quan sát và ghi chép hàng
ngày. Sau khi có kết quả dương tính từ phương
pháp RT-PCR, chúng tôi hồi cứu và tổng hợp lại
những triệu chứng lâm sàng đã được ghi chép
trước đó.
Xác định các chỉ tiêu sinh lý máu
Lợn thuộc đối tượng lấy máu được tách mẹ
(không cho bú) từ 1 giờ sáng, đến 6 giờ sáng
lấy máu. Trừ yếu tố thí nghiệm, các yếu tố khác
như: giống, tuổi, giới tính, nuôi dưỡng... có
điều kiện tương đương nhau. Máu lấy xong đưa
nhanh vào ống chống đông EDTA, lắc nhẹ, bảo
quản ở nhiệt độ 2-80C, đưa về phòng thí nghiệm
để xác định các chỉ số sinh lý.
Các mẫu máu được xác định chỉ số sinh lý
16
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 5 - 2019
máu: RBC, MCV, HCT, HGB, MCH, MCHC,
WBC, NEU, LYM, MONO, EOS và BASO bằng
máy phân tích huyết học Abbott Cell-Dyn 3700.
2.3. Địa điểm nghiên cứu
- Mẫu được lấy từ lợn lai 3 máu (♂Dur x
♀LY/YL) ở 2 tuần tuổi nuôi tại Thanh Hoá.
- Xét nghiệm được thực hiện tại Phòng thí
nghiệm trung tâm – Học viện Nông nghiệp Việt
Nam.
2.4. Phương pháp xử lý số liệu
Các kết quả thu được trong các thí nghiệm
được thu thập, quản lý bằng Microsoft Excel và xử
lý thống kê bằng phần mềm SAS 9.1.3 Portable.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Nghiên cứu tập trung chủ yếu khâu xác định
triệu chứng lâm sàng điển hình của bệnh và các
chỉ tiêu sinh lý máu của lợn mắc dịch tiêu chảy cấp
(PED). Tiến hành theo dõi chi tiết 80 lợn 3 máu ở
2 tuần tuổi, trong đó có 40 lợn khoẻ và 40 lợn mắc
dịch tiêu chảy cấp (PED), các kết quả thu được
chúng tôi trình bày ở các phần dưới đây.
3.1. Triệu chứng lâm sàng của dịch tiêu chảy
cấp (PED) trên đàn lợn ở tỉnh Thanh Hoá
Bằng phương pháp mô tả, quan sát, phân tích
rồi thống kê số liệu khi theo dõi lợn bệnh tại một
số trang trại ở tỉnh Thanh Hoá, kết quả được thể
hiện ở bảng 1.
Bảng 1. Triệu chứng lâm sàng của lợn mắc PED nuôi tại tỉnh Thanh Hoá
STT Triệu chứng Số lợn nghiên cứu (con)
Số lợn biểu hiện
(con)
Tỷ lệ
(%)
1 Tiêu chảy phân lỏng màu vàng xám 40 40 100
2 Ủ rũ, mệt mỏi 40 40 100
3 Gầy sút, giảm ăn 40 40 100
4 Nằm dồn đống 40 33 82,50
5 Bỏ bú, bỏ ăn 40 17 42,50
6 Nôn 40 16 40,00
Qua theo dõi, quan sát cũng như ghi chép
hàng ngày, chúng tôi thấy:
Hiện tượng lợn tiêu chảy phân màu vàng
xám nhiều nước, ủ rũ, mệt mỏi, gầy sút nhanh là
những triệu chứng chính, đặc trưng và điển hình
của bệnh và có tần suất xuất hiện là 100%; và
triệu chứng nằm dồn đống (chồng lên nhau) có
tần suất xuất hiện 82,5%.
Ngoài ra trong quá trình quan sát, chúng tôi
nhận thấy lợn bị tiêu chảy còn có các triệu chứng
khác như bỏ ăn, bỏ bú có tần suất là 42,50%, lợn
nôn có tần suất là 40%.
Khi nghiên cứu các biểu hiện lâm sàng ở lợn
mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) trên đàn lợn thuộc
các tỉnh phía Nam, Do Tien Duy et al. (2011)
cho biết: các triệu chứng lâm sàng chủ yếu ở lợn
mắc PED là: chán ăn, nôn mửa, tiêu chảy, tỷ lệ
chết cao ở lợn con theo mẹ.
Nguyễn Văn Điệp và cs. (2014) khi theo dõi
dịch tiêu chảy cấp gây ra trên đàn lợn con theo
mẹ tại huyện Văn Lâm, Hưng Yên cho thấy
những lợn con mắc PED thường có biểu hiện
kém ăn, bỏ ăn, tiêu chảy, phân nhiều nước màu
vàng, lợn bệnh thường có hiện tượng nằm dồn
đống lên nhau, thích nằm trên bụng mẹ. Pensaer
(1992) cũng cho biết triệu chứng lâm sàng chủ
yếu của PED là tiêu chảy, phân màu vàng nhiều
nước, mất nước
Như vậy, kết quả nghiên cứu của chúng tôi
cũng phù hợp với các kết quả nghiên cứu của
các tác giả trên và những triệu chứng chính, đặc
trưng và điển hình của PED là mệt mỏi, ỉa chảy
phân màu vàng xám nhiều nước, lợn gầy sút
nhanh và nằm dồn đống (chồng lên nhau).
17
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 5 - 2019
3.2. Kết quả xét nghiệm các chỉ tiêu sinh lý
máu
3.2.1. Một số chỉ tiêu về hồng cầu
- Số lượng hồng cầu (RBC: 106/µL)
Số lượng hồng cầu ở các loài gia súc là
khác nhau, trong cùng một loài, số lượng hồng
cầu thay đổi theo giống, giới tính, chế độ dinh
dưỡng. Khi gia súc bị bệnh, số lượng hồng cầu
có thể tăng hay giảm.
Số lượng hồng cầu ở lợn khoẻ trung bình là
6,51± 0,10x106/µL, dao động từ 5,28 - 7,52x106/
µL. So với kết quả nghiên cứu của tác giả Hồ
Văn Nam và cs. (1997), số lượng hồng cầu lợn
trung bình là 6,5 x106/µL, dao động từ 6 - 8x106/
µL; theo Quách Đăng Bắc (2006) là 6,78 ± 0,14
x106/µL thì kết quả nghiên cứu của chúng tôi là
phù hợp với kết quả nghiên cứu của các tác giả
trên. Quách Đăng Bắc (2006) cho biết số lượng
hồng cầu ở lợn con viêm ruột tiêu chảy cấp là
7,90 ± 0,08x106/µL.
Khi lợn bị bệnh đã xuất hiện triệu chứng tiêu
chảy mãnh liệt và giảm bú, lượng nước trong cơ
thể lợn giảm mạnh, vì vậy, máu lợn sẽ bị cô đặc
nên lượng hồng cầu/µL tăng.
- Tỷ khối hồng cầu (HCT: %)
Ở lợn khoẻ mạnh có tỷ khối hồng cầu trung
bình là 37,30 ± 0,38 %. So với kết quả nghiên
cứu của các tác giả Bush et al. (1955) là 34,7 ±
1,07 %, dao động từ 29,5 - 40,5 % thì kết quả
nghiên cứu của chúng tôi là tương đồng.
Ở lợn bệnh, tỷ khối hồng cầu trung bình là
43,84 ± 0,26 %, dao động từ 40,08 – 45,98 %,
tăng so với tỷ khối hồng cầu của lợn khoẻ mạnh
(p<0,05). Nguyên nhân của việc tăng tỷ khối
hồng cầu là do số lượng hồng cầu/µL tăng đã
dẫn đến thể tích hồng cầu so với thể tích máu
toàn phần tăng.
- Thể tích trung bình của một hồng cầu
(MCV: fL)
Thể tích của hồng cầu ở lợn khoẻ trung bình
là 57,73 ± 0,91fL. Bush et al. (1955) cho biết
thể tích bình quân của hồng cầu lợn dao động từ
50 - 68 fL. Ở lợn mắc PED, thể tích trung bình
của hồng cầu là 56,76 ± 0,70 fL. Số liệu trên cho
thấy ở lợn bệnh, thể tích bình quân của hồng cầu
có sự thay đổi không đáng kể so với lợn khoẻ và
sự sai khác này ở mức rất nhỏ, không có ý nghĩa
về mặt thống kê (p>0,05).
Hình 1. Phân lợn màu vàng Hình 2. Phân lợn màu xi măng
Hình 3. Lợn gầy sút Hình 4. Lợn nằm chồng lên nhau
18
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 5 - 2019
3.2.2. Một số chỉ tiêu về Hemoglobin
- Hàm lượng huyết sắc tố (Hemoglobin –
HGB:g/L)
Xác định hàm lượng huyết sắc tố của
40 lợn khoẻ, hàm lượng huyết sắc tố trung
bình là 122,16 ± 1,83g/L, dao động từ 10,34
- 14,28g/L. Theo Lê Văn Thọ và Đàm Văn
Tiện (1992), hàm lượng huyết sắc tố trung
bình ở lợn khoẻ là 123g/L và dao động từ 100
- 140g/L. Craft et al. (1994), cho biết hàm
lượng huyết sắc tố trung bình là 130g/L. Ở
lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED), hàm lượng
huyết sắc tố tăng lên là: 139,78 ± 1,84g/L và
dao động từ 123,2 – 162,5 g/L.
Như vậy, khi lợn mắc dịch tiêu chảy cấp
(PED), hàm lượng huyết sắc tố cao hơn lợn
khoẻ là 17,62g/L (p<0,05). Nguyên nhân của
sự tăng này là do số lượng hồng cầu/μl tăng
do nước trong cơ thể giảm vì tiêu chảy. Phạm
Ngọc Thạch (2004) cho biết, hàm lượng
huyết sắc tố trung bình ở lợn khoẻ từ 110
- 130g/L và lợn mắc bệnh phù đầu từ 150 -
185g/L.
- Nồng độ huyết sắc tố trung bình của hồng
cầu (MCHC: g/L)
Nồng độ huyết sắc tố trung bình của
lợn khoẻ là 319,09 ± 1,83g/L, dao động từ
258,4 - 383,4g/L. Khi lợn mắc PED, nồng
độ huyết sắc tố bình quân tăng lên 335,89
± 4,80g/L. Lợn mắc PED có nồng độ huyết
sắc tố bình quân tăng do tiêu chảy mạnh
nên máu bị cô đặc so với máu ở lợn khoẻ
(p<0,05). Như vậy, khi lợn mắc PED thì chỉ
số HGB và MCHC tăng, đây là dấu hiệu
bệnh lý có thể sử dụng trong chẩn đoán và
hỗ trợ điều trị bệnh.
Bảng 2. Số lượng, tỷ khối và thể tích bình quân của hồng cầu ở lợn khoẻ và lợn mắc
PED nuôi tại tỉnh Thanh Hoá
Đối
tượng
Số
lượng
(con)
Số lượng hồng cầu
(106/µL)
Tỷ khối hồng cầu
(%)
Thể tích bình quân
hồng cầu (fL)
M±SE Dao động M±SE Dao động M±SE Dao động
Lợn khoẻ 40 6,51 ± 0,10b 5,28 - 7,52 37,30 ± 0,38b 31,85 - 41,93 57,73 ± 0,91 48,66 – 70,71
Lợn bệnh 40 7,76 ± 0,09a 5,79 - 8,65 43,84 ± 0,26a 40,08 – 45,98 56,76 ± 0,70 48,31 – 69,22
P 0,05
Ghi chú: Các chữ cái khác nhau biểu hiện sai khác có ý nghĩa giữa các giá trị so sánh trong cùng cột
Bảng 3. Hàm lượng huyết sắc tố, nồng độ huyết sắc tố trung bình, lượng huyết sắc tố trung
bình của hồng cầu ở lợn khoẻ và lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) nuôi tại Thanh Hoá
Đối
tượng
Số lượng
(con)
Hàm lượng huyết sắc tố
(g/L)
Nồng độ huyết sắc tố
trung bình (g/L)
Lượng huyết sắc tố
trung bình trong một
hồng cầu (pg)
M±SE Dao động M±SE Dao động M±SE Dao động
Lợn
khoẻ 40 122,16 ± 1,83
b 103,40 –
142,80 319,09 ± 1,83
b 258,40 –
383,40 18,92 ± 0,38
13,97 –
23,97
Lợn
bệnh 40 139,78 ± 1,84
a 123,20 –
162,50 335,89 ± 4,80
a 277,00 –
386,40 18,13 ± 0,36
15,01 –
24,42
P 0,05
Ghi chú: Các chữ cái khác nhau biểu hiện sai khác có ý nghĩa giữa các giá trị so sánh trong cùng cột
19
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 5 - 2019
- Lượng huyết sắc tố trung bình của hồng
cầu (MCH: pg)
Ở lợn khoẻ mạnh có lượng huyết sắc tố trung
bình là 18,92 ± 0,38pg, dao động từ 13,97 –
23,97pg. Theo Nguyễn Thị Tường Vy và Đinh
Văn Dũng (2016), lượng hemoglobin trung bình
của lợn lai 3 máu sơ sinh từ 19,57 - 21,09 pg.
So với lượng huyết sắc tố trung bình của lợn
mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) thì chỉ số này ở
lợn mắc PED thấp hơn 0,79 pg, tuy nhiên sự
sai khác này không có ý nghĩa về mặt thống kê
(p>0,05). Phạm Ngọc Thạch (2004) cho biết,
ở lợn mắc bệnh phù đầu do độc tố E.coli làm
tan máu nên MCH ở lợn bệnh (27,3 – 45,4pg)
rất cao so với lợn khoẻ (16,5 – 21,3pg). Qua
đây cho thấy, độc lực virus gây PED không ảnh
hưởng đến việc tồn tại và tái tạo hồng cầu.
3.2.3. Một số chỉ tiêu về bạch cầu
- Số lượng bạch cầu (WBC: 103/µL)
Bảng 4 cho thấy số lượng bạch cầu ở lợn
khoẻ trung bình là 14,70 ± 0,29x103/µL, dao
động từ 13,39 - 16,24 x103/µL. Số lượng
bạch cầu ở lợn khoẻ là 8- 16 x103/µL (Hồ
Văn Nam và cs., 1997). Trong khi lợn mắc
PED có số lượng bạch cầu trung bình ở lợn
bệnh là 20,43 ± 0,17x103/µL, dao động từ
19,77- 21,19 x103/µL (p<0,05). Quách Đăng
Bắc (2006) nghiên cứu chỉ tiêu này ở lợn con
theo mẹ hướng nạc bị viêm ruột ỉa chảy là
19,93± 0,24 x103/µL.
- Công thức bạch cầu
Khi xác định công thức bạch cầu của lợn
mắc PED, chúng tôi thấy bạch cầu trung tính và
bạch cầu ái toan tăng cao so với lợn khoẻ mạnh,
còn bạch cầu ái kiềm, bạch cầu đơn nhân lớn và
lymphocyte lại giảm so với lợn khoẻ (p<0,05).
Như vậy có sự thay đổi rất rõ về công thức
bạch cầu giữa lợn mắc PED và lợn khoẻ mạnh.
Như chúng ta đã biết, bạch cầu trung tính có
khả năng thực bào mạnh, chúng thường có mặt
sớm nhất và hầu như có số lượng lớn nhất trong
Bảng 4. Số lượng bạch cầu, công thức bạch cầu của lợn khoẻ và lợn mắc PED
nuôi tại tỉnh Thanh Hoá
Chỉ tiêu theo dõi
Đối tượng
PLợn khoẻ Lợn bệnh
Số lượng lợn theo dõi (con) 40 40
Số lượng bạch cầu (nghìn/mm3)
M±SE 16,89 ± 0,19b 23,41 ± 0,30a <0,05
Dao động 15,03 – 18,89 20,16 – 26,99
Công
thức
bạch cầu
Bạch cầu ái toan
EOS (%)
M±SE 2,99 ± 0,02b 4,20 ± 0,07a <0,05
Dao động 2,70 – 3,20 3,38 – 4,81
Bạch cầu ái kiềm
BASO (%)
M±SE 0,73 ± 0,01a 0,57 ± 0,01b <0,05
Dao động 0,65 – 0,79 0,49 – 0,63
Bạch cầu trung tính
NEU (%)
M±SE 42,64 ± 0,36b 52,77 ± 0,22a <0,05
Dao động 38,04 – 45,97 50,29 – 55,02
Đơn nhân lớn
MONO (%)
M±SE 4,58 ± 0,05a 3,49 ± 0,03b <0,05
Dao động 4,00 – 5,00 3,21 – 3,85
Lymphocyte
LYM (%)
M±SE 49,05 ± 0,44a 38,98 ± 0,23b <0,05
Dao động 45,04 – 54,60 36,53 – 47,19
Ghi chú: Các chữ cái khác nhau biểu hiện sai khác có ý nghĩa giữa các giá trị so sánh trong cùng hàng
20
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 5 - 2019
bệnh PED, chúng có tính hoá ứng động dương
với các tổ chức viêm hoại tử. Chức năng chính
của chúng là thực bào: nuốt, trung hoà và có thể
tiêu huỷ dị vật. Điều này cũng có thể thấy trong
kết quả nghiên cứu của chúng tôi được trình bày
tại bảng 4. Kết quả cho thấy ở lợn khoẻ mạnh,
tỷ lệ bạch cầu trung tính là 42,64 ± 0,36%, trong
khi đó ở lợn mắc bệnh PED là 52,77 ± 0,22%.
Về tỷ lệ lymphocyte ở lợn khoẻ và lợn bệnh, tỷ
lệ lymphocyte ở lợn mắc PED (38,98 ± 0,23%)
thấp hơn so với lợn khoẻ (49,05 ± 0,44%). Hiện
tượng lymphocyte giảm ở lợn mắc PED là biểu
hiện khả năng miễn dịch bị giảm sút khi độc lực
virus gây suy thoái các tổ chức của cơ thể. Theo
Trần Cừ và cs. (1975), Tạ Thị Vịnh (1995) thì
lợn khoẻ có tỷ lệ bạch cầu trung tính thấp hơn
tỷ lệ lymphocyte, tuy nhiên khi lợn bị viêm ruột
thì tỷ lệ bạch cầu trung tính tăng cao hơn so với
lymphocyte.
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
- Triệu chứng lâm sàng điển hình của lợn
mắc dịch tiêu chảy cấp: Ủ rũ, mệt mỏi ; ỉa chảy
phân màu vàng xám nhiều nước; lợn gầy sút
nhanh (100%); nằm dồn đống (chồng lên nhau)
(82,50%); bỏ bú, bỏ ăn (42,50%); nôn (40,00%).
- Số lượng hồng cầu, tỷ khối hồng cầu trung
bình, hàm lượng huyết sắc tố, nồng độ huyết sắc
tố trung bình ở lợn mắc PED cao hơn so với lợn
khoẻ (p<0,05). Trong khi đó thể tích bình quân
hồng cầu và lượng huyết sắc tố trung bình trong
một hồng cầu không có sự khác biệt giữa lợn
khoẻ và lợn bệnh (p>0,05).
- Lợn mắc PED có số lượng bạch cầu và các loại
bạch cầu trung tính và bạch cầu ái toan tăng cao
hơn so với lợn khoẻ mạnh (p<0,05). Tuy nhiên
lượng bạch cầu đơn nhân lớn và lymphocyte lại
giảm so với lợn khoẻ (p<0,05).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quách Đăng Bắc, 2006. Nghiên cứu một số
chỉ tiêu lâm sàng, sinh lý và sinh hoá máu ở
lợn con theo mẹ hướng nạc bị viêm ruột ỉa
chảy tại địa bàn tỉnh Bắc Giang. Luận văn
Thạc sĩ Nông nghiệp, Học viện Nông nghiệp
Việt Nam, tr. 64 - 70.
2. Bộ Khoa học & Công nghệ, 2015. Tiêu
chuẩn TCVN 8400-38-2015-Bệnh động vật.
Quy trình chẩn đoán, phần 38: Bệnh tiêu
chảy ở lợn do Coronavirus.
3. Nguyễn Văn Điệp, Nguyễn Thị Lan, Nguyễn
Thị Hoa và Yamaguchi, 2014. Một số đặc
điểm dịch tễ và bệnh lý của bệnh tiêu chảy
thành dịch trên lợn ở một số tỉnh phía bắc
Việt Nam. Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y,
Tập XXI, số 2, tr.43-55.
4. Nguyễn Thị Hoa , Nguyễn Thị Lan, Trương
Quang Lâm, Trịnh Đình Thâu và Ngô Thị
Hạnh, 2018. Nghiên cứu phân lập và xác
định một số đặc điểm sinh học của virus
PED (Porcine Epidemic Diarrhea Virus).
Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam
2018, 16(3): 257-267.
5. Phạm Ngọc Thạch, 2004. Một số chỉ tiêu lâm
sàng và chỉ tiêu sinh lý máu ở lợn mắc bệnh
phù đầu (Edema disease) trên đàn lợn ở một
số trang trại thuộc vùng phụ cận Hà Nội. Tạp
chí KHKT Nông nghiệp, Tập 2, số 1/2004.
6. Nguyễn Trung Tiến, Vũ Thị Thu Hằng,
Huỳnh Thị Mỹ Lệ, Nguyễn Bá Hiên, Lê
Văn Phan, 2015. Một số đặc điểm sinh học
phân tử của virus gây ra dịch tiêu chảy cấp
ở lợn (Porcine Epidemic Diarrhea - PED)
tại Quảng Trị, Thái Nguyên và Thái Bình từ
năm 2013 - 2014. Tạp chí Khoa học và Phát
triển 2015, tập 13, số 7: 1089-1100.
7. Nguyễn Xuân Tịnh, Tiết Hồng Ngân, Nguyễn
Bá Mùi và Lê Mộng Loan, 1996. Sinh lý học
gia súc. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội
8. Nguyễn Tất Toàn, Nguyễn Đình Quát, Trịnh
Thị Thanh Huyền, Đỗ Tiến Duy, Trần Thị
Dân, Nguyễn Thị Phước Ninh và Nguyễn
Thị Thu Năm, 2012. Phát hiện virus gây
21
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 5 - 2019
bệnh tiêu chảy cấp (PEDV) trên heo ở các
tỉnh miền Đông Nam Bộ. Tạp chí Khoa học
kỹ thuật Thú y, 19(5): 26-30.
9. Tạ Thị Vịnh, 1995. Những biến đổi bệnh lí
ở đường ruột trong bệnh phân trắng lợn con.
Luận án PTS Nông nghiệp, Trường ĐHNNI
– Hà Nội.
10. Nguyễn Thị Tường Vy và Đinh Văn Dũng,
2016. Nghiên cứu chỉ tiêu sinh lí máu của
hai tổ hợp lợn lai (Landrace x Móng Cái) x
Duroc và (Landrace x Móng Cái) x (Piétrain
x Duroc) nuôi ở trang trại huyện Phong Điền,
tỉnh Thừa Thiên – Huế. Tạp chí Khoa học
ĐHSP Thành phố Hồ Chí Minh. Số 12 (90).
11. Bush, J. A., W. N. Jensen, G. E. Cartwright
and M. M. Wintrobe, 1955. Blood volume
studies in normal and anemic swine. Am J
Physiol, 181(1):9-14.
12. Craft S, Zalen and GranBacker LD, 1994.
Statistical observations involving weight,
hemoglobin and the proportion of white
blood cells in pig. J.Am -Vet. MA
13. Do Tien Duy, Nguyen Tat Toan, Suphasawatt
Puranaveja and Roongroje Thanawongnuwech,
2011. Genetic Characterization of Porcine
Epidemic Diarrhea Virus (PEDV) Isolates
from Southern Vietnam during 2009–2010
Outbreaks. Thai J Vet Med. 2011, 41(1):55-64.
14. Everds N. E., 2006. Haematology of the
laboratory mouse. Pages 133-170. In: Foster
H. L, . Small J. D and Fox J. G (Eds). The
mouse in Biomedical Research. 2nd Edition.
Volume 3. Elsevier Amsterdam.
15. Forbes. N., Ruben. D. S and Brayton.
C., 2009. Mouse clinical pathology:
Haematology controlling variables that
influence data. Phenotying core. Department
of molecular and comparative pathobiology.
John Hopkins University School of medicine.
Baltimore. Maryland. USA.
16. Pensaer M.B, 1992. Chapter 22 Porcine
Epidemic diarrhea. Diseases of Swine 7th
edition Iowa State University Press, Ames,
Iowa 50010, p. 293 – 298.
17. Pospischil A., Stuedli A. and Kiupel M.,
2002. Update on porcine epidemic diarrhea. J
Swine Health Prod. 2002;10(2):81-85
18. Reagan W. J., Poitout-Belissent F. M, and
Rovira A. R. I., 2010. Design and methods
used for preclinical haematoxicity studies.
Pages 71-77. In: Weiss D. J and Wardrop K.
J. (Eds). Schalm’s veterinary hematology.
6th edition. Wiley-Blackwell. Iowa.
19. Song D. and Park B., 2012. Porcine epidemic
diarrhoea virus: a comprehensive review
of molecular epidemiology, diagnosis, and
vaccines. Virus Genes 44, 167–175.
Ngày nhận 16-2-2019
Ngày phản biện 21-4-2019
Ngày đăng 1-7-2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
trieu_chung_lam_sang_va_chi_tieu_sinh_ly_mau_cua_lon_mac_dic.pdf