Như vậy, có thể khẳng định, thuật ngữ “due
process of law” không được sử dụng phổ biến ở
Nga nhưng nội hàm của nó được thể hiện khá
đầy đủ trong đời sống pháp luật quốc gia này.
Điều này không đến từ văn hóa, truyền thống
pháp luật của Nga mà đến từ quá trình dân chủ
hóa đời sống xã hội và nhà nước, xây dựng nhà
nước pháp quyền và hội nhập quốc tế của nước
Nga sau khi Liên Xô sụp đổ. Thủ tục pháp luật
công bằng ở nghĩa hẹp hay bảo đảm pháp lý
theo nghĩa rộng được sử dụng phổ biến hơn cả
ở Nga để biểu đạt nội hàm của “due process of
law” của quốc gia này. Các bảo đảm quan trọng
nhất đến từ xây dựng nhà nước pháp quyền, xã
hội dân sự, bảo đảm quyền, tự do, danh dự và
phẩm giá của con người, các bảo đảm khác
được thể hiện khá chi tiết ở các nguyên tắc, quy
định và các cơ chế bảo hiến, các quy trình tố
tụng trong các loại tố tụng được thừa nhận ở
Nga hiện nay. Dù vậy, có thể khẳng định,
những bảo đảm pháp lý hay các thủ tục/trình tự
dù có công bằng đến mấy thì vẫn cần một hệ
sinh thái phù hợp. Tác giả muốn nói đến năng
lực làm chủ của người dân, trình độ dân trí và
kinh tế, văn hóa chính trị cởi mở, một xã hội
dân sự phát triển, tính mở và hội nhập của xã
hội. Đó cũng là các yếu tố khác để giúp các quy
trình/thủ tục công bằng được bảo đảm và đạt
được mục tiêu, ý nghĩa trên thực tế.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 351 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Trình tự công bằng trong pháp luật Liên bang Nga: Nhận thức và nội dung cốt lõi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 4 (2020) 49-58
49
Original Article
Due Process of Law in Russian Federation Law:
Perception and Core Issues
Mai Van Thang*
VNU School of Law, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
Received 15 October 2020
Revised 20 November 2020; Accepted 18 December 2020
Abstract: This article explains the reasons for the lack of popularity of the term "due process of
law" in the Russian current legal system. Nevertheless, all fundamental aspects of this principle
included perception, core issues, and requirements that have been shown in a relatively complete
and comprehensive way under another name with various levels, forms of expression, and its
compliance. By Russia's case study, the author affirms that due process of law is necessary not
only in the procedure proceedings that take place before the judicial decisions to be made but also
in the implementation of decisions and judgments given by courts and other entities. Above all,
due process of law would maximize its efficiency when it is nourished in an appropriate
ecosystem.
Keywords: Due process of law, Russian Federation, constitution, forms of proceedings.
D*
_______
* Corresponding author.
E-mail address: thangmv@vnu.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4330
M.V. Thang / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 4 (2020) 49-58
50
Trình tự công bằng trong pháp luật Liên bang Nga:
Nhận thức và nội dung cốt lõi
Mai Văn Thắng*
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 15 tháng 10 năm 2020
Chỉnh sửa ngày 20 tháng 11 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 18 tháng 12 năm 2020
Tóm tắt: Bài viết luận giải vì sao ở Nga không phổ biến thuật ngữ “due process of law”, nhưng
nhận thức, nội dung, các yêu cầu của nguyên tắc ấy vẫn được thể hiện tương đối đầy đủ, toàn diện
trong hệ thống pháp luật hiện nay dưới tên gọi khác với nhiều cấp độ, hình thức thể hiện, bảo đảm
khác nhau. Qua phân tích trường hợp ở Nga, tác giả muốn khẳng định rằng, trình tự công bằng
không nên chỉ dừng lại ở các quy trình, thủ tục tố tụng trước phán quyết/quyết định của cơ quan
xét xử, mà còn cần cho cả quy trình, thủ tục thi hành các bản án, phán quyết của tòa án, cần cho
các thủ tục, quy trình xử lý vi phạm bởi các chủ thể khác không phải là tòa án và hơn tất cả, để ý
nghĩa, mục tiêu cao đẹp của trình tự công bằng đạt được rất cần dung dưỡng “hệ sinh thái” phù
hợp với nó.
Từ khóa: Trình tự công bằng, Liên bang Nga, hiến pháp, các hình thức tố tụng.
1. Dẫn nhập *
Trình tự pháp luật công bằng [1] như là
nguyên tắc pháp lý không được biết đến rộng
rãi ở Nga. Có lẽ là bởi nguyên tắc này được
hình thành và phát triển ở truyền thống Thông
luật vốn xa lạ với văn hóa pháp luật nước Nga.
Nhưng điều này không đồng nghĩa những nội
dung cốt lõi của “trình tự không bằng” không
hiện hữu trong hệ thống pháp luật quốc gia này.
Sau khi Liên Xô sụp đổ, người Nga bắt đầu
xây dựng thể chế cộng hòa pháp quyền dân chủ
liên bang [2]. Các giá trị cốt lõi của phân quyền,
quyền, tự do của con người cũng như những
nguyên tắc phổ quát của luật quốc tế hiện đại
đều được ghi nhận, tôn trọng và ở chừng mực
nhất định được bảo vệ, bảo đảm, thúc đẩy.
Hiến pháp Liên bang Nga, về cơ bản, có
thuộc tính hiến pháp pháp quyền và trên cơ sở
đó nước Nga thiết lập nền dân chủ đa nguyên,
_______
* Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: thangmv@vnu.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4330
phân quyền và hệ thống pháp luật tương đối
đồng bộ, hiện đại. Từ các nguyên tắc chung
như phân quyền, kiểm soát quyền lực, độc lập
tư pháp, chủ quyền nhân dân, quyền con
người, tự quản địa phương đến các nguyên
tắc, quy định cụ thể như “suy đoán vô tội”,
“luật bất hồi tố”, “tố tụng tranh tụng”, “bình
đẳng trước luật pháp và tòa án”, “được xét xử
bởi một tòa án có thẩm quyền, vô tư, khách
quan và kịp thời”, “quyền được xét xử phúc
thẩm”, “quyền được bồi thường”, đều đã
được ghi nhận đầy đủ và dần hiện thực hóa
trong đời sống chính trị - pháp luật.
Điều chứng minh sự hiện hữu của “trình tự
pháp luật công bằng” trong luật pháp nước Nga.
Như vậy, với một nguyên tắc được hình
thành, phát triển ở Thông luật vốn có nhiều điều
khác biệt, “trình tự pháp luật công bằng” được
nhận thức, thể hiện như thế nào ở một hệ thống
pháp luật đang bước ra từ truyền thống Xô Viết
và phát triển theo các giá trị, chuẩn mực của hệ
thống pháp luật châu Âu lục địa nhưng vẫn
mang trong mình đầy đủ sự đa dạng và nhiều
khi là “hỗn tạp” vốn có của một nền văn hóa
pháp luật được cho là có sự pha trộn, giằng co
N.T.P. Cham / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 4 (2020) 49-58
51
giữa châu Á và châu Âu, giữa phương Đông và
phương Tây [3], giữa pháp luật XHCN và châu
Âu lục địa, thậm chí có cả bóng dáng của
truyền thống pháp luật Á Đông, Luật Hồi
giáo, chắc chắn sẽ có nhiều điều cần được
nghiên cứu, làm rõ để từ đó có những liên hệ tới
Việt Nam trong điều kiện đẩy mạnh xây dựng
nhà nước pháp quyền và hội nhập như hiện nay.
2. Nhận thức về “trình tự pháp luật công
bằng” ở Liên bang Nga
Hệ thống pháp luật Nga hiện nay có nhiều
dấu ấn tư tưởng, quan điểm của các học giả Âu-
Mỹ bởi khi bắt đầu tiến hành cải cách pháp luật
và xây dựng hiến pháp của chế độ mới vào đầu
những năm 1990, người Nga đã mời nhiều
chuyên gia đến từ các quốc gia này. Dù vậy,
“due process of law” với tư cách là một học
thuyết hay một nguyên tắc pháp luật căn bản lại
không được thể hiện chính thức trong luật pháp.
Hiến pháp Liên bang năm 1993 không sử dụng
thuật ngữ “due process”.
Tới năm 1998, Tòa án Hiến pháp Liên bang
trong Quyết định về vụ việc kiểm tra tính hợp
hiến của Điều 266 Bộ luật Hải quan Liên bang
và Khoản 2 Điều 85 và Điều 222 Bộ luật về Xử
lý vi phạm hành chính của Liên bang Nga liên
quan đến khiếu kiện của công dân M.M
Gagloeva và công dân A.B. Petryakova, lần đầu
tiên đã sử dụng thuật ngữ “надлежащая
правовая процедура”1 (“quy trình pháp luật
chuẩn”) và thuật ngữ “надлежащая судебная
процедура” (“quy trình tư pháp/xét xử chuẩn”)
[4]. Như vậy, đây là lần đầu tiên thuật ngữ “due
process” được chuyển tự và đưa vào văn bản
chính thống của Nga2 thông qua thực tiễn xét
xử của cơ quan tài phán hiến pháp cao nhất [5].
_______
1 Thuật ngữ “надлежащая” ngoài nghĩa “chuẩn”còn
có nghĩa là hợp pháp, hợp lý, chuẩn chỉnh, đúng đắn.
2 Bởi các quyết định của Tòa án Hiến pháp Liên
bang Nga thường tạo ra quan điểm pháp lý mới nên
có ý nghĩa như là một nguồn luật dạng án lệ kiểu
Nga và có giá trị pháp lý rất cao trong hệ thống pháp
luật Liên bang Nga.
Trong lĩnh vực học thuật, thuật ngữ
“надлежащая правовая процедура” (quy trình
pháp luật chuẩn) cũng được dùng nhưng không
thật sự phổ biến. Các tác giả dùng thuật ngữ
này để diễn đạt hay chính xác hơn là dịch lại
thuật ngữ “due process of law” trong hệ thống
pháp luật Anh -Mỹ sang tiếng Nga. Một số bài
viết sử dụng thuật ngữ “надлежащая правовая
процедура” (quy trình pháp luật chuẩn) nhưng
để trong ngoặc đơn từ gốc tiếng Anh “due
process” bên cạnh để biểu đạt sự tương đương
[6]. Cách trình bày và diễn giải tương tự cũng
bắt gặp ở hầu hết các bài viết liên quan đến vấn
đề này cũng như trong các trang thông tin điện
tử, các từ điển trực tuyến của Nga hiện nay [7].
Ngoài thuật ngữ “надлежащая правовая
процедура” (quy trình pháp luật chuẩn), trong
ngôn ngữ và khoa học pháp lý Nga đôi khi cũng
dùng thuật ngữ “должная правовая
процедура” hay ngắn gọn hơn là “должная
процедура” (“quy trình pháp luật cần/phải có”
hay “quy trình cần thiết”) [8]. Nhưng, thuật ngữ
này ít được sử dụng hơn “надлежащая
правовая процедура” (quy trình pháp luật
chuẩn) để biểu đạt ý nghĩa của “due process”.
Ở một bài viết đáng chú ý của mình về cách
thức mà Tòa án Hiến pháp Liên bang sử dụng
để xử lý các lỗ hổng của pháp luật trong thực
tiễn và vai trò của các nguyên tắc pháp luật
chung trong quá trình khỏa lấp các lỗ hổng
pháp lý, Chánh án Tòa án Hiến pháp Liên bang
Nga Zorkin V.D cho rằng nguyên tắc
“надлежащая правовая процедура” (quy trình
pháp luật chuẩn) là tiêu chí đánh giá tính hợp
pháp (bôi đen - TG) của các hành vi tố tụng và
tính hợp pháp của các đạo luật quy định các
hành vi đó3.
_______
3 Về tính hợp pháp: Cần phải giải thích thêm về
quan điểm của vị Chánh án này cũng giống như rất
nhiều nhà khoa học ở Nga: Ông phân biệt rõ sự khác
biệt giữa đạo luật (act), bộ luật (code) và luật (law).
Theo đó, các bộ luật, đạo luật hay các văn bản chưa
đựng các chuẩn mực phải phù hợp với luật (law - lẽ
phải, công bằng, hợp lý,). Vì vậy, ý nghĩa đoạn
trên trong bài phát biểu của ông nằm ở thuật ngữ
“tiêu chí của tính hợp pháp” có nghĩa là tiêu chí
đánh giá xem các hành vi tố tụng được quy định
M.V. Thang / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 4 (2020) 49-58
52
Như vậy, thuật ngữ “надлежащая
правовая процедура” (quy trình pháp luật
chuẩn) dù được dùng nhưng khá hiếm. Nhưng
cách dùng từ như vậy để biểu đạt “due
process” lại khá xa lạ với nhận thức, tư duy,
hoạt động lập pháp, học thuật và thực tiễn
pháp luật nước Nga.
Vậy, người Nga đã dùng những thuật ngữ
nào để thay thế cho nội hàm “due process”?
Nghiên cứu hệ thống pháp luật, các quan
điểm học thuật và thực tiễn tư pháp, không khó
để nhận thấy người Nga, ở một mức độ khá phổ
biến, thường dùng các thuật ngữ như
“Юридическая процедура” (quy trình/thủ tục
pháp luật) hoặc “Правовые гарантии” (các bảo
đảm pháp lý) [9]. Đây là các thuật ngữ phù hợp
với văn hóa pháp luật Nga hơn cả. Theo đó,
“Правовые гарантии” (các bảo đảm pháp lý)
được hiểu theo nghĩa rộng và bao hàm nội hàm
của “due process” theo nghĩa rộng nhất của hệ
thống Anh-Mỹ. Ở đây gồm cả những bảo đảm
pháp lý nội dung và bảo đảm pháp lý thủ tục
nhằm hướng tới mục tiêu cao nhất là bảo đảm
công lý, các quyền và tự do cơ bản của con
người, giới hạn và kiểm soát quyền lực nhà
nước. Đó cũng là các bảo đảm cho nền tảng
pháp quyền và chủ quyền nhân dân. Còn thuật
ngữ “Юридическая процедура” (quy trình/thủ
tục pháp luật) được sử dụng ở nghĩa hẹp hơn,
nhấn mạnh đến các quy trình, thủ tục để đạt tới
công lý tự nhiên, bảo đảm các quyền, tự do cơ
bản của con người. Ở đây không chỉ là các quy
trình tố tụng với năm loại tố tụng được hiến
định gồm: tố tụng hiến pháp, tố tụng dân sự, tố
tụng trọng tài (tố tụng kinh tế), tố tụng hành
chính và tố tụng hình sự [10], mà còn cả những
trong các văn bản luật (bộ luât, đạo luật) có phù
hợp với luật pháp theo nghĩa luật tự nhiên (law) hay
không. Điều này vì những hạn chế của ngôn ngữ
tiếng Việt mà rất có thể đã không thể dịch và được
hiểu đúng nghĩa và vì vậy cần phải được giải thích
thêm dù đây là tư duy phổ biến của pháp luật hiện
đại (nguyên nghĩa tiếng Nga: “Принципы
надлежащей правой процедуры выступают
критерием правомерности процессуальных
действий и регламентирующих их законов”).
quy trình, thủ tục khác nằm ngoài phạm vi của
các hình thức tố tụng đó.
Như vậy, pháp luật Nga có sử dụng thuật
ngữ của mình để biểu đạt “due process”, nhưng
không được biểu thị phổ biến trong văn bản
chính thống cũng như trong giới học thuật nước
này. Thay vào đó, người Nga sử dụng nhiều
hơn các thuật ngữ vốn quen thuộc và phù hợp
với mình, trong đó phổ biến hơn cả là các thuật
ngữ “bảo đảm pháp lý” và “thủ tục pháp luật”
mà nội hàm của nó vẫn hàm chứa nội dung và
tinh thần của “due process of law”.
3. Nội dung cơ bản của trình tự công
bằng/bảo đảm pháp lý trong pháp luật Nga
hiện nay
Để làm rõ nội hàm, dưới đây, tác giả sẽ
phân tích “trình tự công bằng” ở Nga theo nghĩa
hẹp, bởi việc phân tích theo nghĩa rộng (theo
nghĩa bảo đảm pháp lý) thì nội hàm sẽ vô cùng
rộng và vượt quá phạm vi của “trình tự pháp
luật công bằng” “due process of law” trong
Thông luật. “Trình tự pháp luật công bằng” ở
Liên bang Nga thể hiện ở những nội dung cốt
lõi sau:
Thứ nhất, trình tự pháp luật công bằng được
thể hiện ở một bản Hiến pháp pháp quyền dân
chủ, có vị trí tối thượng, được bảo vệ bởi một
cơ chế bảo hiến độc lập, chuyên nghiệp và
quyền lực.
Hiến pháp Liên bang Nga là luật cơ bản, có
hiệu lực trực tiếp, là một bản hiến pháp pháp
quyền, dân chủ được thông qua bằng phúc
quyết toàn dân. Việc sửa đổi hoặc ban hành
hiến pháp được quy định rất chặt chẽ. Theo đó,
Quốc hội Liên bang (lưỡng viện) không thể sửa,
đổi các chương: Chương 1 “Nền tảng của chế
độ hiến pháp”; Chương 2 “Các quyền và tự do
cơ bản của con người, của công dân” và
Chương 9: “Sửa đổi, bổ sung và xem xét lại
Hiến pháp”. Nếu muốn xem lại ba chương này,
thì cần có sự ủng hộ của 3/5 trên tổng số đại
biểu của cả hai viện Liên bang. Trong trường
hợp đạt được số phiếu này thì bước tiếp theo là
phải thành lập Quốc hội lập hiến để quyết định:
1) giữ nguyên các chương này, không thay đổi,
N.T.P. Cham / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 4 (2020) 49-58
53
hoặc 2) soạn thảo Hiến pháp mới. Nếu câu hỏi
thứ hai được Quốc hội lập hiến thông qua thì
phải xây dựng Dự thảo Hiến pháp mới và đưa
ra toàn dân phúc quyết. Hiến pháp mới chỉ được
thông qua nếu thỏa mãn hai điều kiện: 1) phải
được trên 50% phiếu đồng ý trên tổng số cử tri
tham gia bỏ phiếu; 2) số cử tri tham gia bỏ
phiếu phải đạt hơn 50% tổng số cử tri có quyền
bỏ phiếu [11].
Đối với các chương còn lại (từ chương 3 tới
chương 8), Hiến pháp cho phép sửa đổi, bổ
sung theo trình tự sửa đổi, bổ sung và ban hành
luật hiến pháp Liên bang.4 Theo đó, các đề nghị
sửa đổi, bổ sung sẽ được thông qua nếu đạt 3/4
tổng số phiếu của các thượng nghị sĩ của Hội
đồng Liên bang tán thành và đạt được 2/3 số
phiếu của các nghị sĩ của Viện Đu-ma Quốc gia
Nga tán thành [12]. Hiến pháp 1993 hiện hành
cũng được thông qua bằng phúc quyết toàn dân.
Hiến pháp quy định rõ nguyên tắc dân chủ,
nền tảng pháp quyền. Điều 1 khẳng định: “Liên
bang Nga là một nhà nước dân chủ pháp quyền
liên bang với hình thức chính thể cộng hòa”;
Điều 2 “Con người, quyền và tự do của họ là
giá trị cao quý nhất. Công nhận, tuân thủ và bảo
vệ các quyền, tự do của con người, công dân là
nghĩa vụ của nhà nước”; Điều 3 “Chủ thể nắm
giữ chủ quyền và là nguồn gốc duy nhất của
quyền lực ở Nga là nhân dân đa sắc tộc Liên
bang Nga”. Hiến pháp Liên bang Nga có hiệu
lực pháp lý cao nhất, có hiệu lực trực tiếp và
được áp dụng trên toàn lãnh thổ Liên bang.
Luật và các văn bản pháp luật khác được ban
hành ở Liên bang Nga không được trái với Hiến
pháp Liên bang (Điều 15).
Hiến pháp được bảo vệ không chỉ bởi một
quy trình sửa đổi, bổ sung chặt chẽ, thông qua
bởi toàn dân đối với những nội dung căn bản
nhất, một chế độ pháp quyền, xã hội đa nguyên
mà còn có được một công cụ bảo vệ chuyên
_______
4 Luật Hiến pháp là các đạo luật được ban hành theo
các nội dung được Hiến pháp giao trực tiếp và có
hiệu lực pháp lý dưới Hiến pháp nhưng cao hơn tất
cả các đạo luật, bộ luật Liên bang khác. Việc sửa đổi
các luật này khắt khe và tỉ lệ phiếu thông qua khó
khăn hơn rất nhiều so với việc thông qua các luật
liên bang thường khác.
nghiệp, có quyền uy - Tòa án Hiến pháp Liên
bang.
Theo những sửa đổi mới nhất [13], Tòa án
Hiến pháp Liên bang là cơ quan tư pháp cao
nhất có chức năng giám sát hiến pháp ở Liên
bang Nga, thực hiện quyền tư pháp thông qua tố
tụng hiến pháp nhằm bảo vệ nền tảng của trật tự
hiến pháp, các quyền và tự do cơ bản của con
người và công dân, đảm bảo tính tối cao và hiệu
lực trực tiếp của Hiến pháp Liên bang trên toàn
lãnh thổ Liên bang Nga.
Tòa án Hiến pháp Liên bang có 11 thẩm
phán và các thẩm phán được bổ nhiệm bởi Hội
đồng Liên bang (Thượng viện) theo đề nghị của
Tổng thống.
Thẩm quyền của Tòa án Hiến pháp Liên
bang rất rộng, bao gồm cả quyền thụ động thực
hiện chức năng bảo hiến theo yêu cầu cửa cơ
quan, cá nhân có thẩm quyền, đồng thời cũng
có quyền chủ động khi giải quyết các vụ việc cụ
thể liên quan đến khiếu kiện của người dân.
Ngoài hậu kiểm, Tòa án Hiến pháp còn tiền
kiểm (kiểm tra văn bản chưa có hiệu lực pháp
luật) để bảo vệ hiến pháp. Luật pháp Nga không
chỉ trao thẩm quyền kiểm tra các đạo luật/dự
luật và văn bản dưới luật mà còn trao quyền
kiểm tra tính hợp hiến đối với những sửa đổi,
bổ sung chính bản Hiến pháp 1993 (đối với các
sửa đổi, bổ sung các quy định trong chương 3
đến chương 8 của Hiến pháp mà thôi). Không
chỉ trao quyền kiểm tra tính hợp hiến các văn
bản nội luật, Hiến pháp sửa đổi còn trao quyền
kiểm tra cả các điều ước quốc tế chưa có hiệu
lực pháp luật, khả năng thi hành các phán quyết
của các thiết chế tài phán quốc tế/nước ngoài
cũng như các dự luật của cấp chủ thể liên
bang. Để bảo đảm cho hiệu lực của các quyết
định của Tòa án Hiến pháp Liên bang, Hiến
pháp đã trao thêm quyền cho hoạt động giải
thích hiến pháp của thiết chế này. Theo đó, điều
ước quốc tế hoặc các quy định nào đó của điều
ước quốc tế khi áp dụng vào vụ việc cụ thể đã
được Tòa án này giải thích và tuyên là không
phù hợp với nội dung của hiến pháp thì chấm
dứt hiệu lực. Các văn bản áp dụng điều ước
quốc tế đã được giải thích là không phù hợp với
hiến pháp thì không được áp dụng [14].
M.V. Thang / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 4 (2020) 49-58
54
Rõ ràng, việc mở rộng thẩm quyền của Tòa
án Hiến pháp Liên bang Nga là một tín hiệu
tích cực cho thấy Hiến pháp được bảo vệ rất đa
diện và tương đối nghiêm ngặt. Bảo vệ hiến
pháp bởi một thiết chế độc lập, có chuyên môn
sâu rõ ràng là một quy trình chuẩn để qua đó
bảo vệ được nền tảng của chế độ hiến pháp, bảo
vệ các giá trị pháp quyền và quyền, tự do cơ
bản của con người. Điều này cũng truyền tải
thông điệp rất rõ là luật pháp Liên bang Nga
không chỉ đặt ra các quy trình chuẩn/ trình tự
công bằng cho hành pháp và tư pháp để qua đó
bảo vệ quyền con người, công lý xã hội mà quy
trình/thủ tục công bằng còn được thiết lập cả
với cơ quan lập pháp. Theo đó, cơ quan lập
pháp liên bang khó có thể tùy tiện ban hành
những đạo luật trái hiến pháp, xâm phạm nền
tảng pháp quyền, dân chủ đã được hiến định.
Như đã đề cập, khác với nhiều hiến pháp
trên thế giới, nước Nga đặt chế độ bảo vệ hiến
pháp ở nhiều cấp độ, mức độ khác nhau. Ở cấp
độ thứ nhất, hiến pháp không thể sửa đổi và nếu
định sửa đổi, bổ sung các quy định đó thì chỉ có
thể thực hiện thủ tục làm mới hiến pháp. Ở cấp
độ thứ hai, hiến pháp có thể sửa đổi, bổ sung
với quy trình khắt khe bằng thủ tục tương tự
ban hành luật hiến pháp nhưng phải được kiểm
tra bởi Tòa án Hiến pháp. Ở mức độ thứ ba, các
luật, dự luật, điều ước quốc tế chưa có hiệu lực,
các thỏa thuận, các dự luật của cấp chủ thể liên
bang, đều phải được kiểm tra tính hợp hiến
bằng cơ chế tiền kiểm hoặc hậu kiểm, bằng cơ
chế chủ động, thụ động của Tòa án Hiến pháp.
Và cuối cùng, hiến pháp được bảo vệ bởi một
loạt các cơ chế giám sát, phản biện xã hội,
quyền dân chủ của người dân, như nền chính
trị đa nguyên, tự do tư tưởng, xã hội dân sự, bầu
cử tự do, tự quản địa phương, tự do ngôn luận,
tự do hiệp hội,
Thứ hai, công nhận, tuân thủ và bảo vệ các
quyền, tự do của con người, của công dân và
xây dựng cơ chế minh bạch giới hạn quyền, tự
do của con người, công dân.
Điều 2 Hiến pháp Liên bang 1993 quy định:
“Quyền, tự do của con người, của công dân là
giá trị cao quý nhất. Việc công nhận, tuân thủ
và bảo vệ chúng là nghĩa vụ của nhà nước”.
Tiếp đó, tại Chương 2 quy định: “Tại Nga, các
quyền, tự do của con người và công dân được
công nhận và bảo đảm theo các nguyên tắc,
chuẩn mực được thừa nhận chung của luật pháp
quốc tế và phù hợp với Hiến pháp này; Các
quyền, tự do cơ bản của con người là bất khả
xâm phạm và thuộc về mọi người ngay từ khi
sinh ra” (Điều 17); “Các quyền, tự do của con
người và công dân được áp dụng trực tiếp.
Chúng xác định ý nghĩa, nội dung và việc áp
dụng pháp luật, hoạt động của các quyền lập
pháp và hành pháp, của tự quản địa phương và
được bảo đảm bởi tư pháp” (Điều 18).
Pháp luật khẳng định và bảo đảm mọi người
đều bình đẳng trước pháp luật và tòa án; bảo
đảm bình đẳng về quyền và tự do của con
người, công dân, không phân biệt giới tính,
chủng tộc, quốc tịch, ngôn ngữ, xuất xứ, tài sản
và địa vị chính thức, nơi cư trú, thái độ đối với
tôn giáo, tín ngưỡng, tư cách thành viên của các
hiệp hội xã hội và các điều kiện khác. Nghiêm
cấm mọi hình thức hạn chế quyền của công dân
bởi lý do họ thuộc về một xã hội, chủng tộc,
quốc gia, ngôn ngữ hoặc tôn giáo nhất định
(Điều 19). Nhà nước bảo đảm việc bảo vệ đối
với các quyền, tự do của con người và công dân
và mọi người đều có quyền bảo vệ quyền, tự do
của mình bằng mọi biện pháp mà pháp luật
không cấm. Mọi người có quyền, tiếp cận các
cơ quan liên quốc gia để bảo vệ các quyền và tự
do của con người nếu tất cả các biện pháp trong
nước hiện có đã hết (Điều 45).
Đối với giới hạn quyền, là luật cơ bản có
hiệu lực pháp lý cao nhất Hiến pháp quy định:
“Các quyền và tự do của con người và công dân
chỉ có thể bị giới hạn bởi luật liên bang trong
phạm vi cần thiết nhằm bảo vệ nền tảng của chế
độ hiến pháp, đạo đức, sức khỏe, quyền và lợi
ích hợp pháp của người khác, bảo đảm quốc
phòng của đất nước và an ninh quốc gia” (Điều
55); “Trong tình trạng khẩn cấp, để đảm bảo an
ninh của công dân và bảo vệ trật tự hiến pháp,
theo luật hiến pháp liên bang, các hạn chế nhất
định đối với các quyền và tự do có thể được
thiết lập với điều kiện chỉ ra các giới hạn và
thời hạn có hiệu lực của các biện pháp đó”
(Điều 56).
Không phải tất cả các quyền, tự do của con
người và công dân đều có thể bị hạn chế. Hiến
N.T.P. Cham / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 4 (2020) 49-58
55
pháp chỉ rõ các quyền sau không thể bị hạn chế,
gồm: 1) quyền sống; 2) phẩm giá của cá nhân
(cấm các hình thức bức cung, nhục hình và các
hình thức khác làm tổn hại phẩm giá của con
người và cấm các thí nghiệm y tế, khoa học nếu
không có sự đồng ý của chính người đó); 3)
quyền bất khả xâm phạm đời tư, bí mật cá nhân
và gia đình, quyền bảo vệ nhân phẩm và danh
dự của mình; 4) cấm thu thập, lưu giữ, sử dụng
và phát tán thông tin đời tư khi không có sự
đồng ý của chính người đó và một số quyền
khác được quy định trong các điều 34 (khoản
1), 40 Điều (khoản 1) và các điều 46 - 54 của
Hiến pháp Liên bang.
Đặc biệt, Điều 55 có ghi nhận: “1) Việc liệt
kê trong Hiến pháp Liên bang Nga các quyền
và tự do cơ bản không nên được hiểu là sự phủ
nhận hoặc làm giảm bớt các quyền và tự do của
con người và công dân được công nhận rộng
rãi. 2) Ở Liên bang Nga, luật không được ban
hành nhằm xóa bỏ hoặc làm giảm bớt các
quyền và tự do của con người và công dân”.
Như vậy, pháp luật đã quy định khá toàn
diện, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về
quyền con người. Bên cạnh đó, không chỉ là các
quy định, Hiến pháp còn thiết lập cơ chế bảo
đảm thực thi thông qua: 1) cơ chế bảo hiến và
giải thích hiến pháp của Tòa án Hiến pháp; 2)
hệ thống tòa án; 3) Tổng thống Liên bang với
trách nhiệm là người bảo vệ quyền con người,
quyền công dân; 4) hệ thống Viện kiểm sát; 5)
các thiết chế thanh tra nhân quyền; 5) giám sát
xã hội, xã hội dân sự; 6) các thiết chế tài phán
quốc tế; 7) các quyền chính trị, dân sự như biểu
tình, các bầu cử tự do, tham gia trưng cầu ý
dân, khiếu nại, tố cáo, và nhiều hình thức,
phương pháp khác.
Thứ ba, pháp luật Liên bang Nga thừa nhận
và bảo đảm tuân thủ các nguyên tắc, thủ tục của
nền tư pháp pháp quyền, dân chủ, hiện đại.
Hiện ở Nga thiết lập năm loại tố tụng và
đều có những nguyên tắc, quy định hướng đến
quy trình tố tụng chuẩn, gồm: tố tụng hiến
pháp, tố tụng dân sự, tố tụng trọng tài, tố tụng
hình sự, tố tụng hành chính. Trong đó, tố tụng
hiến pháp là quy trình, thủ tục nhằm “cương
tỏa” các cơ quan lập pháp cả cấp bang và liên
bang để bảo vệ quyền, tự do của con người khỏi
các vi phạm của chính các cơ quan này, các
quy trình tố tụng còn lại đều là các loại tố
tụng thường. Hệ thống và quy trình tố tụng đồ
sộ này cũng là để bảo đảm các quyền, tự do
của con người và hiện thực hóa quy định của
Hiến pháp “mọi người đều được bảo đảm các
quyền, tự do của mình bằng cơ chế bảo vệ tư
pháp” (Điều 46).
Ngoài ra, ở Nga đã ghi nhận và áp dụng
nhiều nguyên tắc, quy định khác để bảo đảm
“quy trình chuẩn”. Có thể kể đến như các bảo
đảm quyền xét xử chỉ thuộc về tòa án và việc
cấm thành lập các tòa án khẩn cấp/các tòa án
đặc biệt; các thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo
Hiến pháp và các luật Liên bang. Thẩm phán
không thể bị thay thế và bất khả xâm phạm.
Quyền hạn của thẩm phán chỉ có thể bị chấm
dứt hoặc bị đình chỉ theo cách thức và những
căn cứ do luật liên bang quy định.
Trình tự tố tụng công bằng cũng đã được
quy định trong Bộ Luật tố tụng hình sự Liên
bang (TTHS) và áp dụng trên thực tế.
Trước hết, ngoài những quy định chung như
bảo đảm sự độc lập của thẩm phán, quyền xét
xử chỉ thuộc về tòa án, luật tố tụng đã khẳng
định và thiết lập cơ chế vận hành các quy định
tiến bộ như nguyên tắc suy đoán vô tội, tranh
tụng/đối khác trong xét xử, tự do đánh giá
chứng cứ, bất khả xâm phạm của mỗi cá nhân,
giải quyết vụ án hình sự trong thời hạn hợp lý,
quyền được kháng cáo các quyết định của tư
pháp, bảo vệ quyền, tự do của con người trong
tố tụng hình sự; tôn trọng danh dự và nhân
phẩm của các cá nhân [15],
Có thể lấy ví dụ về nguyên tắc suy đoán vô
tội. Theo đó, nguyên tắc này ở Nga được cho là
tương thích với suy đoán vô tội như là một cấu
phần của “due process” Hoa Kỳ. Theo luật tố
tụng hình sự Nga, suy đoán vô tội có nội hàm
gồm: 1) Người bị buộc tội được coi là người
không có tội cho đến khi nào tội của anh ta vẫn
chưa được chứng minh theo trình tự được quy
định bởi Bộ luật TTHS Liên bang Nga và chưa
được tuyên là có tội bởi một bản án kết tội của
tòa án đã có hiệu lực pháp luật; 2) Nghi phạm
hoặc bị can, bị cáo không có nghĩa vụ chứng
minh mình vô tội. Nghĩa vụ chứng minh cho
bản luận tội và bác bỏ những lập luận được đưa
M.V. Thang / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 4 (2020) 49-58
56
ra để bào chữa cho nghi phạm, bị can hoặc bị
cáo thuộc về bên buộc tội; 3) Tất cả nghi ngờ
về việc phạm tội của bị cáo nếu không thể được
loại bỏ theo thủ tục được thiết lập bởi Bộ luật
TTHS Liên bang Nga thì đều được giải thích có
lợi cho bị cáo; 4) Một bản án kết tội không thể
dựa trên các giả định [16].
Không gọi tên là “tố tụng tranh tụng”,
nhưng luật TTHS Nga ghi nhận nguyên tắc bảo
đảm “Tính đối kháng của các bên”5. Nội hàm
nguyên tắc này trong TTHS Nga là: 1) TTHS
được thực hiện trên cơ sở đối kháng của các
bên; 2) Các chức năng khởi tố, bào chữa, giải
quyết vụ án hình sự phải biệt lập với nhau và
không thể được giao cho cùng một cơ quan
hoặc cùng một người; 3) Tòa án không phải là
cơ quan truy tố, điều tra hình sự, không đứng về
bên công tố hay bên bào chữa. Tòa án tạo các
điều kiện cần thiết để các bên thực hiện nghĩa
vụ tố tụng và các quyền đã được pháp luật trao
cho họ; 4) Bên luận tội và bên bào chữa bình
đẳng trước toà án [17].
Như vậy, ở Nga dù được đặt tên có khác
một chút, nhưng nội hàm của nguyên tắc này
được bảo đảm tương thích với tố tụng tranh
tụng ở phương Tây.
Ngoài những quy định trên, luật TTHS Nga
bảo đảm quyền được sử dụng bồi thẩm đoàn
của bị can, bị cáo đối với các trường hợp luật
định. Quyền được xét xử phúc thẩm, giám đốc
thẩm và tái thẩm được bảo đảm.
Tố tụng dân sự Liên bang Nga cũng hàm
chứa tương đối đầy đủ các nội dung, yêu cầu
của trình tự công bằng. Quyền tiếp cận tòa án,
quyền tự quyết của đương sự, bình đẳng các
bên trong tố tụng, tranh tụng trong xét xử, xét
xử kịp thời, công khai trong xét xửđược ghi
nhận và bảo đảm.
Đối với thủ tục hành chính và tố tụng hành
chính, có thể nói, cùng với quá trình xây dựng
nhà nước pháp quyền, các thủ tục này cũng có
nhiều chuyển biến theo hướng bảo đảm trình tự,
thủ tục công bằng và bảo đảm quyền, tự do của
con người. Trước đây, trong thời kỳ Xô Viết,
_______
5 Nguyên văn tiếng Nga là: “Состязательность
сторон” (Tính đối kháng của các bên).
hầu hết các vi phạm hành chính được xử lý bởi
các chủ thể quản lý nhà nước. Kể từ năm 2001,
Bộ luật xử lý vi phạm hành chính Liên bang
được ban hành, trình tự công bằng hơn đã được
thể hiện. Nhưng, khác với nhiều quốc gia, Bộ
luật này thiết lập hai loại thủ tục: 1) thủ tục
dành cho tòa án (tố tụng hành chính); và 2) thủ
tục dành cho các chủ thể khác. Trong đó, thủ
tục tư pháp (tố tụng hành chính) có nhiều quy
định, nguyên tắc tương thích với các loại tố
tụng khác và đều thể hiện được trình tự tố tụng
công bằng.
Trước hết, ngoại trừ hình thức cảnh cáo và
phạt tiền, đại đa số các chế tài hành chính được
quy định trong Bộ luật này đều đã được được
áp dụng bởi thẩm phán - theo thủ tục tư pháp
chứ không phải theo thủ tục hành chính như
trước đây.
Nguyên tắc suy đoán vô tội cũng được ghi
nhận và bảo đảm trong tố tụng hành chính ở
Liên bang Nga. Tại Điều số 1.5 quy định: “1)
Một người chỉ phải chịu trách nhiệm hành
chính về những hành vi vi phạm hành chính mà
lỗi của hành vi đó đã được khẳng định; 2) Khi
thủ tục tố tụng của một vụ án hành chính đang
tiến hành với một cá nhân/tổ chức thì cá nhân/tổ
chức đó được coi là không có tội cho đến khi
tội của họ được chứng minh theo thủ tục do Bộ
luật quy định và được khẳng định trong quyết
định của thẩm phán, cơ quan hoặc người có
chức vụ thẩm quyền đang thụ lý vụ án; 3) Một
người bị xử lý trách nhiệm hành chính không có
nghĩa vụ phải chứng minh mình vô tội, trừ
những trường hợp được loại trừ trong phụ lục
của điều này; 4) Những nghi ngờ không thể
khỏa lấp đối với lỗi của người đang bị truy cứu
trách nhiệm hành chính thì được diễn giải theo
hướng có lợi cho người đó”[18]. Phụ lục của
quy định này quy định danh mục các hành vi
được loại trừ khỏi nghĩa vụ chứng minh gồm
những vi phạm liên quan đến lãnh thổ, vi phạm
về lĩnh vực bất động sản và những hành vi mà
luật cho phép sử dụng các phương tiện kỹ thuật
để lưu giữ chứng cứ bằng camera, video, (các
vi phạm trong lĩnh vực giao thông, quản lý trật
tự đô thị).
Ngoài các bảo đảm trên, luật xử lý vi
phạm hành chính thiết kế các quy trình, thủ
N.T.P. Cham / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 4 (2020) 49-58
57
tục rất chi tiết cho việc xử lý từng loại hành
vi vi phạm hành chính. Pháp luật ghi nhận và
bảo đảm thực thi các nguyên tắc bình đẳng
trước pháp luật, quyền được xét xử, giải
quyết vụ án trong thời hạn hợp lý, bảo đảm
pháp chế trong xử lý vi phạm hành chính, bảo
đảm quyền bào chữa, trợ giúp pháp lý, quyền
kháng cáo, khiếu nại của người bị xử lý vi
phạm hành chính, quyền được xem xét vụ
việc ở cấp phúc thẩm và xem xét lại vụ việc
theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm,
Bên cạnh các thủ tục giải quyết vụ án vi
phạm hành chính, luật này còn quy định cả
trình tự thủ tục thi hành các quyết định giải
quyết vi phạm hành chính ứng với mỗi loại chế
tài cụ thể được ấn định trong quyết định đó.
Điều này lại không được chứng kiến trong luật
TTHS Nga. Thiết nghĩ, quy trình chuẩn, thủ tục
chặt chẽ và công bằng không nên chỉ dừng lại ở
quy trình điều tra, truy tố, xét xử mà phải còn
bao gồm cả quy trình tổ chức thực thi các bản
án, quyết định của tòa án - giai đoạn thi hành án
hình sự. Trong quá trình thụ án hay tổ chức
thực hiện các bản án, quyết định tư pháp luôn
tiềm ẩn nhiều rủi ro vì ở đó có thể nảy sinh
nhiều vấn đề, ảnh hưởng thậm chí xâm hại đến
quyền, an ninh cá nhân, nhân phẩm, danh dự
của người đang thụ án. Nước Nga đã ban hành
riêng Bộ luật Thi hành án hình sự. Dù mục tiêu
chung của bộ luật này cũng không khác nhiều
so với bộ luật TTHS, nhưng các bảo đảm pháp
lý, các nguyên tắc của bộ luật TTHS lại không
thể dùng cho bộ luật thi hành án hình sự. Điều
đáng nói là các nguyên tắc, bảo đảm pháp lý
trong TTHS Nga được cho là khá tương thích
với “due process of law”, nhưng các nguyên
tắc, nội dung của bộ luật thi hành án hình sự lại
không được như vậy. Đây cũng là vấn đề cần
phải được xem xét vì thủ tục xét xử có công
bằng, nhưng nếu quá trình sau đó quyền, an
ninh con người không được bảo đảm thì mọi
“trình tự pháp luật công bằng” cũng không còn
nhiều ý nghĩa. Điều này cũng cần được xem xét
trong bối cảnh Việt Nam hiện nay.
Như vậy, có thể khẳng định, thuật ngữ “due
process of law” không được sử dụng phổ biến ở
Nga nhưng nội hàm của nó được thể hiện khá
đầy đủ trong đời sống pháp luật quốc gia này.
Điều này không đến từ văn hóa, truyền thống
pháp luật của Nga mà đến từ quá trình dân chủ
hóa đời sống xã hội và nhà nước, xây dựng nhà
nước pháp quyền và hội nhập quốc tế của nước
Nga sau khi Liên Xô sụp đổ. Thủ tục pháp luật
công bằng ở nghĩa hẹp hay bảo đảm pháp lý
theo nghĩa rộng được sử dụng phổ biến hơn cả
ở Nga để biểu đạt nội hàm của “due process of
law” của quốc gia này. Các bảo đảm quan trọng
nhất đến từ xây dựng nhà nước pháp quyền, xã
hội dân sự, bảo đảm quyền, tự do, danh dự và
phẩm giá của con người, các bảo đảm khác
được thể hiện khá chi tiết ở các nguyên tắc, quy
định và các cơ chế bảo hiến, các quy trình tố
tụng trong các loại tố tụng được thừa nhận ở
Nga hiện nay. Dù vậy, có thể khẳng định,
những bảo đảm pháp lý hay các thủ tục/trình tự
dù có công bằng đến mấy thì vẫn cần một hệ
sinh thái phù hợp. Tác giả muốn nói đến năng
lực làm chủ của người dân, trình độ dân trí và
kinh tế, văn hóa chính trị cởi mở, một xã hội
dân sự phát triển, tính mở và hội nhập của xã
hội. Đó cũng là các yếu tố khác để giúp các quy
trình/thủ tục công bằng được bảo đảm và đạt
được mục tiêu, ý nghĩa trên thực tế.
Lời cảm ơn
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát
triển khoa học và công nghệ Quốc gia
(NAFOSTED) trong đề tài mã số 505.01-
2018.300.
Tài liệu tham khảo
[1] Bùi Tiến Đạt, Học thuyết trình tự công bằng và
việc bảo vệ quyền con người: Kinh nghiệm quốc
tế và Việt Nam. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp Số
11 (291) T6/2015.
[2] Điều 1 Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993.
[3] Mai Văn Thắng, Văn hóa pháp luật nước Nga -
những đặc trưng cơ bản, Trong Sách chuyên khảo
"Văn hóa pháp luật: Những vấn đề lý luận cơ bản
và ứng dụng chuyên ngành", Chủ biên GS.TS.
M.V. Thang / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 4 (2020) 49-58
58
Hoàng thị Kim Quế, TS. Ngô Huy Cương. NXB.
ĐHQGHN, 2011.
[4] Quyết định của Tòa án Hiến pháp Liên bang Nga
năm 1998 về vụ việc kiểm tra tính hợp hiến của
Điều 266 Bộ luật Hải quan Liên bang Nga và
Khoản 2 Điều 85 và Điều 222 Bộ luật về Xử lý vi
phạm hành chính của Liên bang Nga liên quan
đến khiếu kiện của công dân Gagloeva M.M và
công dân Petryakova A.B. Xem tại:
https://legalacts.ru/doc/postanovlenie-
konstitutsionnogo-suda-rf-ot-11031998-n/.
[5] Bài viết của tác giả S.D. Afanasieva, Bảo đảm
tuân thủ nguyên tắc trình tự pháp luật chuẩn trong
việc thu hồi đất vì mục đích công cộng: kinh
nghiệm nước Nga” trong Kỷ yếu hội thảo quốc tế
“Những vấn đề và triển vọng của pháp luật hiện
đại” được tổ chức bởi Trung tâm nghiên cứu
Aeterna, Ufa, Liên bang Nga, năm 2015, trang 8.
[6] Thủ tục công bằng trong việc luận tội Tổng thống
Braxin. Tạp chí khoa học của Trường Đại học
Tổng hợp Voronezh, số 4, 2018. Xem tại:
8-04-04.pdf.
[7] Xem tại đây:
https://www.krugosvet.ru/enc/ekonomika-i-
pravo/nadlezhashchaya-pravovaya-protsedura;
https://ru.qwe.wiki/wiki/Due_Process_Clause.
[8] Có thể xem ở đây:
https://dic.academic.ru/dic.nsf/lower/14574;
https://cyberleninka.ru/article/n/dolzhnaya-
pravovaya-protsedura-i-pravovye-standarty-
evropeyskogo-suda-po-pravam-cheloveka/viewer:
https://studopedia.ru/10_234679_dolzhnaya-
protsedura.html.
[9]
[10] Khoản 2 Điều 118 Hiến pháp Liên bang Nga năm
1993 (sửa đổi, bổ sung năm 2020).
[11] Điều 135 Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993.
[12] Điều 108 Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993.
[13] Khoản 1Điều 125 của Hiến pháp sửa đổi năm
2020.
[14] Khoản 6, Điều 125 Hiến pháp Liên bang Nga bổ
sung 2020.
[15] Chương 2 Bộ Luât Tố tụng Hình sự Nga:
2a677d1634ba5be1c/.
[16] Điều 14, Bộ Luật Tố tụng Hình sự Nga:
eb2d1ecc4ddb4c33/.
[17] Điều 15 Bộ luật Tố tụng Hình sự Nga:
be718035887e4efc/.
[18]
W_34661/c4e643d138637f4eafb763d628fc44ef99
c71a15/.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- trinh_tu_cong_bang_trong_phap_luat_lien_bang_nga_nhan_thuc_v.pdf