Một số khuyến nghị đối với giai
đoạn tranh chấp đã phát sinh
Thứ nhất, áp dụng cơ chế “vén màn
công ty” (pierce corporated veil, sau đây
được gọi là “cơ chế PCV”) để ngăn chặn
trùng tố ngay từ giai đoạn đầu khi tranh chấp
mới phát sinh nếu có biểu hiện về chuỗi thực
thể pháp lý. Cơ chế PCV buộc các chủ sở
hữu (chủ thể kiểm soát thực sự) phải chịu
trách nhiệm về những hậu quả do công ty
gây ra trong một số trường hợp nhất định
thông qua việc truy xét đến cùng điều kiện
bản chất thực sự về chủ thể của vụ kiện và
hạn chế bảo hộ của hiệp định đối với các
pháp nhân của công ty. Đây là cách lập luận
hiệu quả để bác bỏ thẩm quyền thụ lý của cơ
quan GQTC với các pháp nhân đó.
Thứ hai, sử dụng khái niệm “đầu tư chủ
động” (active investment) để lập luận bác bỏ
quyền khởi kiện của các cổ đông trong
doanh nghiệp. Yêu cầu nguyên đơn chứng
minh khoản đầu tư được thực hiện theo sự
điều khiển của nguyên đơn là một rào cản
không cho các cá nhân, pháp nhân không có
quyền sở hữu chủ động trở thành nguyên
đơn của vụ trùng tố.
Thứ ba, đối với các thủ tục tố tụng đã có
phán quyết của vụ kiện trước, lập luận và
yêu cầu cơ quan tài phán áp dụng học thuyết
collateral estoppel thay vì việc áp dụng các
học thuyết đòi hỏi khắt khe về mặt kỹ thuật
đã được sử dụng phổ biến nhưng chưa thực
sự hiệu quả trong việc tránh trùng tố như lis
pendens và res judicata. Học thuyết
collateral estoppel ngăn chặn sự tái khởi
kiện của một vấn đề (issue) nếu vấn đề đó
được đưa ra xem xét ở vụ đó đã được xét
một cách đầy đủ và công bằng ở vụ kiện
trước
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 251 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Trùng tố trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3Số 17 (417) - T9/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
TRÙNG TỐ TRONG GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP ĐẦU TƯ QUỐC TẾ
Ngô Quốc Chiến*
Nguyễn Thảo Linh**
*PGS,TS,GV.TrườngĐạihọcNgoạithương.
**TrưởngnhómSVNCKH,vớisựthamgiacủaLươngDiệuLinh,TrầnThịViệtTrinh,NgôThịHàPhương
(SV.KhoaLuật,TrườngĐạihọcNgoạithương).
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Trùng tố, tranh chấp đầu tư
quốc tế, giải quyết tranh chấp.
Lịch sử bài viết:
Ngày nhận bài : 07/7/2020
Biên tập : 13/7/2020
Duyệt bài : 18/7/2020
Article Infomation:
Keywords: Parallel proceedings,
international investment dispute,
dispute resolution.
Article History:
Received : 07 Jul. 2020
Edited : 13 Jul. 2020
Approved : 18 Jul. 2020
Tóm tắt:
Trùng tố1 trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế xảy ra ngày
càng nhiều và để lại nhiều hệ lụy đối với các bên tham gia quan
hệ đầu tư quốc tế, sự ổn định của hệ thống pháp luật quốc tế và
mối quan hệ bang giao giữa các quốc gia. Tham gia tích cực vào
tự do hóa thương mại và đầu tư, Việt Nam hoàn toàn có thể gặp
trùng tố trong tương lai. Trong phạm vi bài viết này, các tác giả
tập trung trình bày, phân tích nguồn gốc, nguyên nhân và biểu hiện
của trùng tố; ảnh hưởng của trùng tố trong giải quyết tranh chấp
đầu tư quốc tế; thực tiễn xét xử một số vụ trùng tố trên thế giới;
nguy cơ trùng tố trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế tại Việt
Nam và đưa ra một số khuyến nghị đối với Việt Nam.
Abstract:
Parallel proceedings in the dispute resolution of international
investments occur more and more and may lead to many
consequences for parties involved in international investment,
governance relations, and the stability of the international legal
system. Due to the fact that Vietnam is promoting trade and
investment liberalization, it is possible that Vietnam will encounter
parallel proceedings in the future. Under the scope of this article,
the authors put the focus on presenting and analyzing the
definition, taxonomy, and manifestation of parallel proceedings;
the effects of parallel proceedings in the dispute resolution of
international investment; practices of a number of coincidences in
the world; the risk of parallel proceedings in dispute resolution of
international investment in Vietnam and also provide a number of
recommendations for Vietnam.
1 Sự gia tăng về số lượng các hiệp định về đầu tư (IIA) trực tiếp làm tăng các cơ chế giải quyết tranh chấp
(GQTC) khác nhau cho những tranh chấp phát sinh và gián tiếp gây ra khả năng đa phán quyết với một
tranh chấp hoặc các tranh chấp có tính tương tự, thậm chí có thể dẫn tới các phán quyết mâu thuẫn giữa các
cơ quan GQTC. Hiện tượng này được gọi là trùng tố trong GQTC trong đầu tư quốc tế (ĐTQT).
S ự tham gia ngày càng nhiều các hiệpđịnh về đầu tư với các quy địnhkhông giống nhau về cơ chế giải
quyết tranh chấp sẽ khiến cho Việt Nam trở
thành một bên trong các vụ kiện trùng tố, với
những hệ lụy không hề nhỏ. Đặc biệt, khoản
tiền bồi thường đối với những vụ kiện trùng
tố là rất lớn, gây tác động tới nền kinh tế
Số 17 (417) - T9/20204
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
2 G. Zarra (2017), Managing parallel proceedings in investment arbitration, Doctoral thesis, University of
Naples, Federico II, p. 14.
3 G. Zarra (2017), tlđd, tr.17.
đang chuyển đổi và đang phát triển như Việt
Nam. Câu hỏi đặt ra, đâu là những yếu tố
gây ra trùng tố trong giải quyết tranh chấp
đầu tư quốc tế? Trùng tố trong giải quyết
tranh chấp đầu tư quốc tế có khả năng xảy
ra tại Việt Nam hay không trên cơ sở pháp
luật và thực trạng đầu tư hiện nay? Làm thế
nào để giảm thiểu ảnh hưởng của trùng tố tại
Việt Nam?
1. Nguồn gốc, nguyên nhân và biểu hiện
của trùng tố
Trong hệ thống pháp luật quốc tế, không
có một định nghĩa thống nhất nào về “trùng
tố”. Tuy nhiên, trong lĩnh vực đầu tư quốc tế
(ĐTQT), đa số các cơ quan xét xử và các
chuyên gia thống nhất khái niệm “trùng tố”
được hiểu là các thủ tục tố tụng đang chờ
được xét xử bởi ít nhất hai cơ quan tài phán
mà tại đó, các bên, cơ sở pháp lý và các vấn
đề có sự giống nhau hoặc trùng nhau. Trùng
tố bao gồm hai loại là những thủ tục tố tụng
đồng thời (concurrent proceedings) và thủ
tục tố tụng tiếp theo (subsequent
proceedings).
Trùng tố là một hiện tượng không thể
tránh khỏi dù không mong muốn2 bởi nguồn
gốc của hiện tượng này là xu hướng các hiệp
định về đầu tư (IIA) gia tăng, tính phức tạp
đặc thù của hoạt động ĐTQT và đặc tính của
trọng tài – cơ quan giải quyết tranh chấp
ĐTQT phổ biến nhất.
Sự bùng nổ của các IIA: Nếu như năm
1990, số lượng IIA (gồm cả BIT và TIP) mới
có khoảng 400 Hiệp định, năm 2020 số
lượng IIA đã đạt tới 3287 (trong đó 2657 IIA
có hiệu lực), tức tăng lên hơn 8 lần trong
vòng 30 năm. Việc có nhiều IIA khiến nhà
đầu tư (NĐT) có nhiều hơn một cơ sở pháp
lý cho hoạt động đầu tư3.
Tính phức tạp của hoạt động ĐTQT:
Tính phức tạp này được thể hiện trên hai
phương diện chính. Một là, hoạt động mang
tính phức tạp do chịu sự điều chỉnh bởi nhiều
căn cứ pháp lý. Hai là, phạm vi bảo hộ rộng
của các IIA là cơ sở để cổ đông – NĐT có
quyền khởi kiện và NĐT thực hiện đầu tư
thông qua chuỗi thực thể pháp lý để đạt được
bảo hộ có lợi nhất.
Thứ nhất, tồn tại nhiều căn cứ pháp lý
điều chỉnh hoạt động ĐTQT như hợp đồng
đầu tư, hiệp định đầu tư, pháp luật của quốc
gia nhận đầu tư, pháp luật quốc tế. Điều này
tất yếu dẫn đến việc quy định về cơ chế
GQTC chưa thống nhất giữa các căn cứ pháp
lý khác nhau hoặc trong cùng một căn cứ
pháp lý.
Sự khác nhau giữa hợp đồng đầu tư và
hiệp định đầu tư
Đây là trường hợp trùng tố xảy ra do tồn
tại song song yêu cầu khởi kiện do vi phạm
hợp đồng đầu tư và yêu cầu khởi kiện do vi
phạm hiệp định đầu tư. Hai yêu cầu khởi kiện
này khác nhau về lý do khởi kiện, cơ sở pháp
lý, cơ quan giải quyết tranh chấp. Không
những vậy, sự phát triển bùng nổ của các IIA
cùng nguyên tắc tự chủ của các bên và tôn
trọng thỏa thuận của các bên được đặc biệt đề
cao trong pháp luật quốc tế đã mở ra cơ hội
cho các NĐT quyền yêu cầu khởi kiện về
cùng một vấn đề ra nhiều cơ quan GQTC
khác nhau sao cho quyền lợi của mình được
bảo vệ tốt nhất. Căn cứ vào cơ sở pháp lý mà
NĐT đưa ra, các cơ quan GQTC cho rằng, họ
có đủ thẩm quyền giải quyết nên chấp nhận
khởi kiện của các NĐT. Điều này đã gây ra
hiện tượng trùng tố trong GQTC về ĐTQT.
Sự đa dạng trong quy định về cơ chế
GQTC trong các IIA
Tồn tại hai trường hợp quy định nhiều
cơ chế GQTC ĐTQT trong các IIA. Một là,
đa dạng các cơ chế GQTC trong cùng một
IIA với đại diện tiêu biểu là khoản 8 Điều 2
BIT kiểu mẫu của Anh cho phép các bên
khởi kiện ra Tòa Trọng tài ICSID, Tòa án
Trọng tài Quốc tế ICC hoặc bất kỳ toà trọng
tài quốc tế theo thoả thuận giữa các bên hoặc
theo quy định tại Nguyên tắc trọng tài của
UNCITRAL khi phát sinh tranh chấp. Hai
là, sự chồng chéo quy định về GQTC ĐTQT
giữa các IIA khác nhau mà quốc gia của
NĐT và quốc gia nhận đầu tư là thành viên
có hiệu lực trong cùng một thời điểm dẫn
đến nguy cơ xảy ra trùng tố. Đặc biệt là
trùng tố do sự chồng chéo giữa RIA và BIT
bởi xu hướng tham gia vào các hiệp định
trong và ngoài khu vực gần đây của các quốc
gia trong khi đã có BIT tăng lên4.
Thứ hai, các IIA hiện nay không chỉ bảo
hộ các bên trực tiếp tham gia ký kết mà các
chủ thể như cổ đông hay chuỗi thực thể pháp
lý trong một nhóm NĐT cũng có quyền khởi
kiện do phạm vi của khái niệm “khoản đầu
tư” thường được quy định rất rộng dựa trên
cơ sở tài sản (“asset based definition”) bao
gồm các doanh nghiệp, cổ phiếu hoặc cổ
phần, trái phiếu, và bất kỳ hình thức đóng
góp tài sản nào trong một doanh nghiệp.
Quyền khởi kiện của các cổ đông trong
doanh nghiệp đầu tư
Hiện nay, hiện tượng đa phán quyết,
thậm chí phán quyết mâu thuẫn, có thể gây
ra trùng tố trong GQTC ĐTQT xảy ra sự đối
lập giữa luật các quốc gia, các IIA so với
phán quyết của các tòa ISDS về quyền khởi
kiện gián tiếp để yêu cầu bồi thường thiệt hại
gián tiếp của các cổ đông. Luật các quốc gia
và các IIA, đặc biệt là các BIT, thường không
trao quyền khởi kiện để yêu cầu bồi thường
thiệt hại gián tiếp cho các cổ đông và cho
rằng chỉ doanh nghiệp mới là chủ thể thích
hợp để khởi kiện. Trái lại, dựa trên định nghĩa
về “sự công bằng về số lượng cổ phiếu”
(inclusion of shares) trong IIA và các án lệ
trước đó, các tòa ISDS thường công nhận
quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại
gián tiếp của cổ đông là tự động, riêng biệt
và không phụ thuộc vào doanh nghiệp.
Chuỗi thực thể pháp lý của cùng một
nhóm
Hiện nay, đầu tư trở nên càng phức tạp
khi ĐTQT được thực hiện qua các chuỗi
thực thể pháp lý bao gồm các doanh nghiệp
được thành lập ở các khu vực tài phán khác
nhau và thuộc sở hữu của các chủ thể của các
quốc gia khác nhau. Chuỗi thực thể pháp lý
trong cùng nhóm là một hiện tượng phổ
biến, đặc biệt khi NĐT thường sẽ chọn
những quốc gia có các cơ sở pháp lý có lợi
hơn cho NĐT để thông qua đó thành lập
doanh nghiệp tại quốc gia đó và thực hiện
đầu tư.
Theo phạm vi khái niệm mở rộng của
các IIA hiện nay, các cơ quan GQTC công
nhận thẩm quyền giải quyết của các doanh
nghiệp không phải bên ký kết trong hai
trường hợp phổ biến. Một là, nguyên đơn
thực hiện đầu tư thông qua một doanh
nghiệp trung gian có quốc tịch khác với các
bên trực tiếp ký kết thỏa thuận đầu tư. Thông
qua chuỗi thực thể như vậy, NĐT có thể có
ba quốc tịch theo doanh nghiệp trung gian
bao gồm: của trực tiếp NĐT, của quốc gia
nhận đầu tư và của một quốc gia thứ ba. Hai
là, nguyên đơn là các doanh nghiệp trung
gian được thành lập với mục đích đi đầu tư
vào các doanh nghiệp khác, chứ không có
các hoạt động kinh doanh hay tài sản đáng
kể, do đó được coi là doanh nghiệp “vỏ bọc”.
Đặc tính của “trọng tài” - cơ chế giải
quyết các tranh chấp đầu tư quốc tế được
sử dụng phổ biến nhất
Các hội đồng trọng tài (HĐTT) có
quyền tự quyết định thẩm quyền của chính
mình cho dù có sự phản đối về hiệu lực của
5Số 17 (417) - T9/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
4 W. Alschner (2014), “Regionalism and Overlap in Investment Treaty Law - Towards Consolidation or
Contradiction?”, Journal of International Economic Law, 17(2), p.276.
thỏa thuận trọng tài và ngay cả khi hợp đồng
chính vô hiệu, điều khoản trọng tài vẫn có
hiệu lực với mục đích đánh giá các khiếu
kiện phát sinh từ hợp đồng và GQTC đó.
Thực tiễn xét xử cho thấy, tính đến cuối năm
2018, 79,5% các tranh chấp ISDS được kết
luận là HĐTT có thẩm quyền, trong đó có
tới 61% các phán quyết đưa ra đều có lợi cho
NĐT5. Điều này vô tình khuyến khích các
bên lạm dụng hệ thống trọng tài đầu tư và
gây ra hiện tượng trùng tố.
2. Ảnh hưởng của trùng tố trong giải
quyết tranh chấp đầu tư quốc tế
Trùng tố có nhiều ảnh hưởng xấu đối với
bị đơn - Nhà nước tiếp nhận đầu tư. Cụ thể:
Một là, các nước nhận đầu tư không thể
lường trước được khả năng bị kiện từ nhiều
chủ thể khi tiến hành thỏa thuận với NĐT
nước ngoài do cơ cấu hoạt động đầu tư của
NĐT và sự tham gia vào nhiều BIT của các
quốc gia nhận đầu tư. Đối với các quốc gia
nhận đầu tư đã tham gia một số lượng BIT
đáng kể, khả năng đối mặt với nhiều khiếu
kiện đồng thời và liên tục sẽ tăng bởi (i)
nhiều thực thể pháp lý khác nhau do cấu trúc
doanh nghiệp ngày càng tinh vi và phức tạp
của các NĐT nước ngoài6, (ii) các cổ đông
có quyền khởi kiện độc lập do sự phức tạp
trong giao dịch giữa các cổ đông, thời điểm
cổ đông nắm giữ cổ phần khác nhau7.
Hai là, nhiều khiếu kiện dẫn đến chi phí
pháp lý rất cao, tạo gánh nặng lớn lên ngân
sách cho các quốc gia bị đơn. Chi phí yêu cầu
bồi thường từ phía nguyên đơn thường, đặc
biệt là các khiếu kiện theo IIA, rất cao, trung
bình khoảng 492 triệu đô la Mỹ8. Ngay cả khi
quốc gia nhận được phán quyết có lợi, Chính
phủ vẫn phải chịu chi phí pháp lý và chi phí
trọng tài thường khoảng 8 triệu USD9.
Ba là, sự bất công bằng về việc theo
đuổi các vụ trùng tố giữa nguyên đơn –
thường là NĐT đến từ quốc gia có thu nhập
cao (86.25%), và bị đơn – thường là các
quốc gia đang và kém phát triển (70.41%)10.
Bị đơn thường ít có khả năng theo đuổi các
vụ kiện lâu dài và liên tục, và một khi theo
đuổi sẽ phải gánh chịu chi phí nặng nề gây
tổn thất đến ngân sách tài chính quốc gia.
3. Thực tiễn xét xử một số vụ trùng tố trên
thế giới
3.1. SGS Société Générale de
Surveillance S.A. và Cộng hòa Pakistan
(SGS v. Pakistan)
3.1.1. Bối cảnh tranh chấp
Tranh chấp này liên quan đến hai căn cứ
pháp lý chứa hai quy định về cơ quan GQTC
khác nhau. Một là, thỏa thuận năm 1994 giữa
Cộng hòa Hồi giáo Pakistan và SGS Société
Générale de Surveillance S.A. (SGS) về kiểm
định hàng hóa (từ đây về sau gọi là “thỏa
Số 17 (417) - T9/20206
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
5 UNCTAD, 2019, ‘Fact Sheet on Investor–State Dispute Settlement Cases in 2018’, trong IIA Issue Notes,
Issue 2,3 May 2020, p. 4-5. Có thể xem được tại https://unctad.org/en/PublicationsLibrary/
diaepcbinf2019d4_en.pdf, truy cập ngày 20/5/2020.
6 P. Valasek, MJ & Dumberry (2011), “Developments in the Legal Standing of Shareholders and Holding
Corporations in Investor-State Disputes”, ICSID Review-Foreign Investment Law Journal, vol.26, p.71.
7 D.Gaukrodger (2013), “Investment Treaties as Corporate Law: Shareholder Claims and Issues of
Consistency”, trong OECD Working Papers on International Investment, no.3, OECD Publishing, Paris , p.32.
8 M. Hodgson (2014”, “Investment treaty arbitration: How much does it cost? How long does it take?”. Có
thể xem được tại
How-much-does-itcost-How-long-does-it-take-.aspx, truy cập ngày 3/5/2020; D. Rosert (2014), The Stakes
Are High: A review of the financial costs of investment treaty arbitration, 1st edn., IISD, p.1.
9 UNCTAD (2014), “Investor-State Dispute Settlment”, UNCTAD Series on Issues in International
Investment Agreements II. Có thể xem được tại https://unctad.org/en/PublicationsLibrary/
diaeia2013d2_en.pdf, truy cập ngày 3/5/2020.
10 TR. Samples (2019), “Winning and Losing in Investor-State Dispute Settlement”, American Business Law
Journal, 56(1), pp.143–144.
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
thuận PSI”) quy định các tranh chấp về hợp
đồng sẽ chỉ được giải quyết bởi cơ quan
GQTC của Pakistan theo Đạo luật Trọng tài
Pakistan. Hai là, BIT năm 1995 giữa Liên
bang Thụy Sỹ và Cộng hòa Pakistan, trong
đó quy định ICSID là cơ quan duy nhất có
thẩm quyền giải quyết đối với các tranh chấp
phát sinh sau tháng 9 năm 1954.
Tranh chấp phát sinh từ sự kiện pháp lý
vào ngày 12/12/1996 khi Pakistan thông báo
đơn phương chấm dứt thỏa thuận PSI vào
ngày 11/3/1997. Tuy nhiên, sau khi thỏa
thuận PSI chấm dứt, Pakistan không thanh
toán phần còn lại của hóa đơn với giá trị gốc
là 8.368.430,49 USD và lãi suất.
Năm 1998, SGS đã khởi kiện Pakistan
ra các tòa án Thụy Sỹ nhưng đều bị bác bỏ
do quyền miễn trừ tư pháp. Nhận thức cần
có cơ quan GQTC, Pakistan đã yêu cầu Tòa
án dân sự cấp cao Islamabad chỉ định một
trọng tài để thành lập HĐTT GQTC theo
thỏa thuận PSI (từ đây về sau gọi là “Hội
đồng trọng tài PSI”). Năm 2001, SGS đã đệ
trình các phản đối sơ bộ đối với thẩm quyền
của HĐTT PSI với cáo buộc Pakistan vi
phạm thỏa thuận PSI và khởi kiện song song
ra ICSID trên cơ sở pháp lý là BIT Thụy Sỹ
- Pakistan và thỏa thuận PSI với cáo buộc
Pakistan vi phạm BIT do không khuyến
khích và bảo vệ đầu tư đối với SGS (Điều
3(1), Điều 4(1)), vi phạm nguyên tắc đối xử
công bằng và thỏa đáng (Điều 4(2)), trưng
thu mà không bồi thường cho NĐT (Điều
6(1)), không đảm bảo liên tục việc tuân thủ
các cam kết theo thỏa thuận PSI (Điều 11 –
điều khoản bao trùm (umbrella clause)).
SGS thậm chí yêu cầu tòa Islambad đình
chỉ vụ tranh chấp do SGS đã khởi kiện ra
ICSID. Tòa Islambad từ chối yêu cầu này và
quyết định thành lập HĐTT PSI. Không
đồng tình với phán quyết của tòa Islambad,
SGS tiến hành phúc thẩm và giám đốc thẩm,
nhưng các tòa này đều giữ nguyên phán
quyết thành lập HĐTT PSI và Tòa án tối cao
Pakistan đã yêu cầu SGS dừng quá trình tố
tụng tại ICSID.
Không đạt được phán quyết mong
muốn, SGS yêu cầu ICSID tiếp tục thực hiện
quá trình tố tụng song song chống lại các tòa
Pakistan. Ngày 16/10/2002, HĐTT ICSID
đề nghị các tòa Pakistan đình chỉ xét xử và
vào ngày 12/11/2002, các tòa Pakistan đã
quyết định tạm thời đình chỉ tố tụng trọng tài
trong nước cho đến khi ICSID đưa ra phán
quyết cuối cùng.
3.1.2. Phán quyết của trọng tài
Ngày 6/8/2003, HĐTT ICSID đưa ra
phán quyết, theo đó HĐTT ICSID là cơ quan
duy nhất có thẩm quyền xét xử khiếu kiện
theo BIT Thụy Sỹ – Pakistan của SGS và
ICSID không có thẩm quyền giải quyết
khiếu kiện theo thỏa thuận PSI. Dựa vào việc
diễn giải cụm “bất kỳ tranh chấp liên quan
đến đầu tư giữa một bên ký kết và NĐT của
bên ký kết còn lại” Điều 9 BIT Thụy Sỹ –
Pakistan được hiểu là tranh chấp cấu thành
do vi phạm các điều khoản từ Điều 3 đến
Điều 7 BIT, HĐTT ICSID khẳng định khiếu
kiện của SGS về các vấn đề trên là khiếu
kiện theo BIT và hội đồng là cơ quan tài
phán duy nhất có thẩm quyền xét xử tranh
chấp theo BIT này. Sau khi cân nhắc các hậu
quả pháp lý sâu rộng, HĐTT cho rằng điều
khoản bao trùm (Điều 11 BIT) là một điều
khoản thứ yếu và không thay thế các điều
khoản hợp lệ của các cơ quan tài phán trong
thỏa thuận PSI, do đó khiếu kiện theo thỏa
thuận PSI không thuộc thẩm quyền giải
quyết của ICSID.
3.1.3. Bình luận
Nguyên nhân và biểu hiện của trùng tố
SGS v. Pakistan được coi là tranh chấp
điển hình có yếu tố trùng tố do sự khác biệt
giữa hợp đồng đầu tư và hiệp định đầu tư, cụ
thể là khác biệt về điều khoản bao trùm và
điều khoản về cơ quan GQTC giữa BIT
Thụy Sỹ – Pakistan và thỏa thuận PSI. Do
đó, hai cơ quan (HĐTT PSI và ICSID) cùng
7Số 17 (417) - T9/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
có thẩm quyền GQTC đối với cùng một
hành vi Pakistan không thanh toán các khoản
phí cho SGS sau khi đơn phương chấm dứt
thỏa thuận PSI. Điều này đã trực tiếp gây ra
trùng tố trong GQTC về ĐTQT.
Điều khoản bao trùm (umbrella clause)
– Điều 11 trong BIT Thụy Sỹ – Pakistan
Là cơ quan tài phán quốc tế đầu tiên
thảo luận về hiệu lực pháp lý của điều khoản
bao trùm11, HĐTT vụ SGS v. Pakistan đưa ra
một cách hiểu hẹp về điều khoản này rằng
một khiếu kiện phát sinh từ một hợp đồng
đơn thuần sẽ không tự động chuyển sang
một khiếu kiện theo hiệp định.
Tuy nhiên, có một số cơ quan tài phán
khác cho rằng, phạm vi của điều khoản bao
trùm nên được hiểu rộng hơn, tiêu biểu là
HĐTT ICSID trong vụ SGS v. Philippines.
HĐTT trong vụ này diễn giải Điều X(2) BIT
Philippines – Thụy Sỹ (điều khoản bao trùm)
rằng quốc gia nhận đầu tư phải tuân thủ mọi
nghĩa vụ pháp lý liên quan đến các khoản
đầu tư được bảo hộ mà quốc gia đó đã và sẽ
có trong tương lai, bao gồm cả nghĩa vụ hợp
đồng.
So sánh về cách diễn giải và áp dụng
điều khoản bao trùm của hai HĐTT ICSID,
đa số các học giả cho rằng cách tiếp cận của
HĐTT vụ SGS v. Philippines thích hợp hơn
cách tiếp cận của HĐTT vụ SGS v. Pakistan
với nhiều lập luận khác nhau.
Thông qua việc diễn giải ý chí của nhà
làm luật về vị trí của điều khoản bao trùm
trong BIT Thụy Sỹ – Pakistan12, Antony cho
rằng, đây là điều khoản mang tính quy phạm
và bao quát, chứ không phải một điều khoản
khích lệ theo ý kiến của HĐTT vụ SGS v.
Pakistan, nghĩa là chỉ mang tính trấn an
NĐT rằng NĐT sẽ được đối xử công bằng,
chứ không có bất kỳ hậu quả thực tế nào nếu
quốc gia nhận đầu tư vi phạm điều khoản
hợp đồng. Trong tranh chấp này, điều khoản
bao trùm chỉ là “một “khẩu hiệu” và không
bao giờ có chức năng thực tế”13.
Schreuer cho rằng14, cách tiếp cận điều
khoản bao trùm của của HĐTT trong vụ SGS
v. Pakistan làm mất đi ý nghĩa thực tiễn của
điều khoản này. Cách hiểu này đi ngược lại
với bản chất của điều khoản này là để tăng
cường sự bảo vệ NĐT, bởi trên thực tế, NĐT
rất khó để chứng minh quốc gia nhận đầu tư
có hành vi trưng thu, chiếm hữu tài sản gián
tiếp hoặc vi phạm nguyên tắc công bằng và
thỏa đáng theo BIT.
Điều khoản giải quyết tranh chấp –
Điều 9 BIT Thụy Sỹ - Pakistan
Trái với HĐTT ICSID trong vụ SGS v.
Pakistan, HĐTT trong vụ SGS v. Philippines
cho rằng cụm “bất kỳ tranh chấp liên quan
đến đầu tư giữa một bên ký kết và NĐT của
bên ký kết còn lại” được hiểu là bao gồm tất
cả các khiếu kiện theo hợp đồng, dẫn đến kết
luận hội đồng có thẩm quyền GQTC khiếu
kiện theo hợp đồng của các bên.
Từ sự mâu thuẫn trên, có thể thấy các
HĐTT ICSID khác nhau vẫn chưa có cách
giải quyết thống nhất về thẩm quyền của cơ
quan GQTC theo BIT đối với khiếu nại theo
Số 17 (417) - T9/20208
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
11 J. Antony (2013), “Umbrella Clauses Since SGS v. Pakistan and SGS v. Philippines – A Developing
Consensus”, Arbitration International, 29(4), p. 608.
12 J. Antony (2013), Tlđd, tr. 615.
13 M. Ahmed (2019), “Convergence or divergence: Recent trends in the application of the umbrella clauses”,
Master thesis, Uppsala Unviversitet, p. 16.
14 CH. Schreuer (2005), “Investment Treaty Arbitration and Jurisdiction over Contract Claims –the Vivendi I
Case Considered”, in T. Weiler (2005), International Investment Law and Arbitration: Leading Cases from
the ICSID, NAFTA, Bilateral Treaties and Customary International Law, Cameron May, London, p. 301.
hợp đồng khi chỉ dựa trên cơ sở duy nhất
điều khoản GQTC trong BIT15. Ảnh hưởng
của sự không thống nhất này đối với các điều
khoản lựa chọn cơ quan tài phán trong các
hợp đồng là không rõ ràng, nhưng có khả
năng mở rộng16.
Như vậy, hai vấn đề pháp lý liên quan
đến hiện tượng trùng tố trong tranh chấp
SGS v. Pakistan có mối quan hệ biện chứng
với nhau. Do HĐTT ICSID xác nhận hội
đồng có thẩm quyền giải quyết khiếu nại
theo BIT nên điều khoản bao trùm được cân
nhắc. Ngược lại, do HĐTT ICSID cho rằng
điều khoản bao trùm không được áp dụng
trong tranh chấp này nên khiếu nại theo hợp
đồng sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết HĐTT
PSI. Henry đưa ra kết luận điều khoản bao
trùm và điều khoản GQTC thường không đủ
rõ ràng để chứng minh thẩm quyền đối với
khiếu kiện hợp đồng17. Chính sự áp dụng
quy định của BIT một cách linh hoạt nhưng
có điểm không phù hợp đó của HĐTT
ICSID đã dẫn tới thẩm quyền xét xử đồng
thời của hai cơ quan GQTC.
Ảnh hưởng của trùng tố
Trùng tố trong GQTC SGS v. Pakistan,
mặc dù xảy ra hiện tượng phán quyết mâu
thuẫn nhưng chi phí pháp lý của các bên rất
cao do đã khởi kiện và kháng cáo ra nhiều
cơ quan tài phán khác nhau, bao gồm cả các
tòa không có thẩm quyền. Theo phán quyết
của HĐTT ICSID, SGS đã yêu cầu Pakistan
bồi thường hơn U.S.$329,068,383, trong đó
bao gồm U.S.$1,500,000 chi phí pháp lý cho
SGS. Đối với Pakistan – một quốc gia đang
phát triển có tổng sản lượng quốc gia chỉ đạt
U.S.$440/năm18, con số trên là quá lớn.
4. Nguy cơ trùng tố trong giải quyết
tranh chấp đầu tư quốc tế tại Việt Nam
4.1. Thực trạng về hoạt động đầu tư
quốc tế tại Việt Nam
Trong xu hướng tự do hóa thương mại
và đầu tư toàn cầu, Việt Nam tham gia rất
nhiều các IIA khác nhau trên nhiều phạm vi
tác động, từ song phương (Hiệp định đối tác
toàn diện Việt Nam – Nhật Bản, Hiệp định
thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc)
đến khu vực (Hiệp định Đầu tư toàn diện
ASEAN, Hiệp định CPTPP, Hiệp định bảo
hộ đầu tư Liên minh châu Âu – Việt Nam
EVIPA hay mới nhất là Hiệp định Đối tác
kinh tế toàn diện khu vực RCEP đã hoàn tất
đàm phán) và đa phương (Hiệp định chung
về thương mại – dịch vụ GATS, Hiệp định
các biện pháp đầu tư có liên quan đến
thương mại TRIMs của WTO).
Hiện nay, các BIT thế hệ cũ vẫn có hiệu
lực song song với các IIA thế hệ mới. Dù các
IIA này đã có nhận thức và quy định để ngăn
chặn trùng tố, song các biện pháp này chưa
khắc phục được hạn chế trong các BIT thế hệ
cũ, cũng như chưa bao quát hết các trường
hợp của trùng tố. Ví dụ như hiệp định EVIPA
đã nỗ lực phần nào khắc phục lỗ hổng trên
nhằm ngăn chặn trùng tố nhưng chưa đề ra
những biện pháp cụ thể để thực hiện mà vẫn
dựa vào phán quyết của cơ quan GQTC.
9Số 17 (417) - T9/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
15 E. Gaillard (2016), “Abuse of Process in International Arbitration”, ICSID Review, vol.32, p. 331.
16 M. Malik (2010), International Law Protections for foreign investment in Pakistan, 1st ed., Overseas
Investors Chamber of Commerce and Industry (OICCI), p. 127.
17 L. Henry (2010), “Investment Agreement Claims under the 2004 Model U.S. Bit: A Challenge for State
Police Powers”, in U. Pa. J. Int’l L, vol. 31, p. 986.
18 A. Rai (2015), “A critical analysis of the SGS v. Pakistan and SGS v. Philippines cases: In light of the
conflict between umbrella clauses and exclusive jurisdiction clauses”, Journal on contemporary issues of
law, 4(9).
Số 17 (417) - T9/202010
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Trong những năm gần đây, với sự phát
triển mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam
cùng quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, mở
cửa thị trường, hoạt động đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam
đang có xu hướng gia tăng về thị trường,
ngành nghề đầu tư, quy mô, hình thức đầu
tư, các loại hình kinh tế và doanh nghiệp
tham gia đầu tư.
Đáng chú ý, ngoài những thị trường
quen thuộc như nông lâm nghiệp, các thị
trường tiềm năng mà các NĐT nhắm đến là
công nghệ thông tin, năng lượng, viễn
thông,.. Đây là những lĩnh vực nhạy cảm, dễ
dẫn đến sự xâm phạm về bảo hộ đầu tư từ
phía Chính phủ. Bên cạnh đó, cần phải chú
ý thực tế các doanh nghiệp Việt Nam khi đầu
tư ra nước ngoài với hình thức công ty con
(chi nhánh Tập đoàn Công nghiệp – Viễn
thông quân đội Viettel của Việt Nam tại
Peru) hay cổ đông của quốc gia nhận đầu tư
(Vinamilk sở hữu 22,8% cổ phần tại nhà
máy Miraka (New Zealand)) đều tồn tại rủi
ro về trùng tố nếu có tranh chấp xảy ra.
Khu vực FDI đã trở thành nhân tố quan
trọng trong sự phát triển nhanh chóng và ổn
định của nền kinh tế Việt Nam. Nguồn vốn
FDI đóng vai trò như là động lực quan trọng
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Mức đóng góp của khu vực FDI trong GDP
của cả nước liên tục tăng trong những năm
vừa qua. Tỷ trọng thu ngân sách nhà nước từ
khu vực FDI cũng gia tăng đáng kể, từ 1,8
tỷ USD trong giai đoạn 1994-2000 lên 23,7
tỷ USD trong giai đoạn 2011-2015, chiếm
gần 14% tổng thu ngân sách nhà nước.
Riêng năm 2017, khu vực FDI đã đóng góp
vào NSNN hơn 8 tỷ USD, chiếm 17,1% tổng
thu ngân sách nhà nước19. Tuy nhiên, sự gia
tăng này cũng đặt ra những thách thức tiềm
tàng mới mà một trong số đó là nguy cơ xảy
ra trùng tố. Một doanh nghiệp FDI không chỉ
thuộc sở hữu của Việt Nam mà còn của các
công ty đa quốc gia khác và các NĐT nước
ngoài là cổ đông. Đặc biệt, với xu hướng lựa
chọn hình thức doanh nghiệp là công ty cổ
phần ngày càng phổ biến, các rủi ro liên
quan đến quyền khởi kiện độc lập của cổ
đông hay các chuỗi thực thể pháp lý (công
ty mẹ - công ty con) càng nhiều và phức tạp.
Hiện tượng đầu tư “chui”, đầu tư “núp bóng”
đã xuất hiện và là cơ sở tiềm năng cho trùng
tố có thể xảy ra trong tương lai.
4.2. Rà soát hệ thống pháp luật Việt
Nam liên quan đến trùng tố
- Rà soát pháp luật Việt Nam về đầu tư
quốc tế
Tồn tại những lỗ hổng pháp lý làm cơ sở
cho NĐT thực hiện nhiều thủ tục tố tụng ở
cơ quan GQTC khác nhau về cùng một vấn
đề do các NĐT nước ngoài thường có cấu
trúc doanh nghiệp phức tạp và các quy định
về chuỗi thực thể pháp lý và quyền khởi kiện
của cổ đông trong luật pháp Việt Nam. Ví
dụ, Luật Doanh nghiệp năm 2014 chưa quy
định khái niệm “Tổ chức kinh tế có sở hữu
chi phối của NĐT nước ngoài” để làm rõ tiêu
chí về quyền kiểm soát doanh nghiệp của
NĐT nước ngoài phù hợp với tiêu chí xác
định chuỗi thực thể pháp lý; các quy định về
thủ tục đơn giản, không bắt buộc NĐT đăng
ký đầu tư, gây khó khăn cho cơ quan nhà
nước quản lý việc góp vốn tại doanh nghiệp
dễ dẫn đến tình trạng đầu tư “chui”, đầu tư
“núp bóng”
19 Phạm Thiên Hoàng (2019), “Tầm quan trọng của khu vực FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội Việt
Nam”, Tạp chí Tài chính, trên https://gso.gov.vn/Default.aspx?tabid=621&idmid=&ItemID=18686, truy
cập ngày 20/5/2020.
11Số 17 (417) - T9/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
- Rà soát các IIA
Việc rà soát các IIA sẽ phần nào chỉ ra
những nguy cơ tiềm ẩn của trùng tố. Chúng
tôi tập trung phân tích một số IIA với các
quốc gia có quan hệ đầu tư tích cực hàng đầu
vào Việt Nam.
Hàn Quốc: BIT Việt Nam – Hàn Quốc
(2004) và FTA Việt Nam – Hàn Quốc (2015)
hiện nay có hiệu lực song song và có hạn chế
tương tự nhau về điều khoản GQTC: cho
phép các bên lựa chọn các cơ quan tài phán
quốc gia và các cơ quan tài phán quốc tế;
điều khoản từ bỏ (waiver clause) trong BIT
và điều khoản “No u-turn clause” trong FTA
chỉ tránh được trùng tố giữa tòa quốc tế và
tòa trong nước, chưa loại trừ được khả năng
thẩm quyền đồng thời giữa các cơ quan tài
phán quốc tế với nhau. Như vậy, không
những tồn tại nguy cơ về trùng tố giữa các
cơ quan tài phán theo cùng một hiệp định mà
còn tồn tại giữa các cơ quan tài phán theo
các hiệp định khác nhau.
Singapore: Trùng tố có thể xảy ra do
hiện tượng thẩm quyền đồng thời giữa cơ
quan GQTC theo BIT Việt Nam – Singapore
(1992) và cơ quan GQTC theo Hiệp định
đầu tư toàn diện ASEAN – ACIA (2012).
Mặc dù có quy định để ngăn tố tụng chồng
chéo nhưng ACIA chưa hoàn toàn giải quyết
được hạn chế quy định về tránh thẩm quyền
đồng thời giữa ICSID và UNCITRAL của
BIT Việt Nam – Singapore (1992) và không
ngăn các bên khởi kiện theo BIT do một
trong những ngoại lệ của nguyên tắc đối xử
tối huệ quốc của ACIA là cơ chế ISDS.
Nhật Bản: Trùng tố có nguy cơ xảy ra do
thẩm quyền đồng thời giữa các cơ quan
GQTC của Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam
- Nhật bản VJEPA (2008), Hiệp định đối tác
toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
CPTPP (2018) với nhau. VJEPA mới chỉ hạn
chế trùng tố xảy ra trong các chuỗi thực thể
pháp lý, chưa đưa ra các quy định mang tính
giải pháp cho các nguyên nhân khác. Với điều
khoản “Lựa chọn cơ quan GQTC” ngăn trùng
tố tương tự ACIA, CPTPP chưa khắc phục
được hạn chế này của VJEPA và ngăn các bên
khởi kiện theo VJEPA.
4.2.3. Rà soát các hợp đồng đầu tư
quốc tế
Trong các mẫu hợp đồng PPP có quy
định tránh trùng tố trong phạm vi giữa các
hợp đồng, thông qua việc thống nhất GQTC
bằng trọng tài, áp dụng nguyên tắc forum
non conveniens, và hợp nhất các tranh chấp
liên quan đến cùng một vấn đề. Tuy nhiên,
các hợp đồng đầu tư này chưa có giải pháp
cho trường hợp trùng tố xảy ra do sự khác
nhau giữa hợp đồng và hiệp định có hiệu lực
song song. Việt Nam đã nhận thức được điều
này và cố gắng khắc phục qua khoản 6 Điều
13 Dự thảo Luật Đầu tư theo phương thức
hợp tác công tư mới nhất vào tháng 4/2020.
Tuy nhiên, điều khoản này không có giá trị
thực tiễn cao do khả năng các NĐT không
kiện theo IIA là không cao vì thực tế họ
thường được bồi thường nhiều.
Như vậy, căn cứ vào thực trạng về hoạt
động ĐTQT và hệ thống pháp luật Việt Nam
hiện nay về ĐTQT, Việt Nam hoàn toàn có
nguy cơ xảy ra trùng tố trong GQTC.
5. Một số khuyến nghị đối với Việt Nam
Ảnh hưởng của trùng tố đến cả hai bên
tranh chấp là không nhỏ, dù bên thắng hay
bên thua kiện. Do đó, bên cạnh việc tránh
trùng tố khi tranh chấp đã phát sinh, việc đưa
ra các biện pháp phòng tránh trùng tố trước
khi nó thật sự xảy ra là một việc làm cần
thiết và hiệu quả hơn việc tìm cách “chữa”
hoặc hạn chế ảnh hưởng khi nó đã xảy ra.
Số 17 (417) - T9/202012
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
5.1. Một số khuyến nghị đối với giai
đoạn trước khi tranh chấp phát sinh
Trên thực tế, các IIA gần đây đã có nhận
thức về trùng tố, nhưng các quy định vẫn còn
thiếu sót và chưa bao quát hết các nguyên
nhân chủ yếu của trùng tố. Trong khi đó, đặc
biệt các BIT trong giai đoạn những năm
1990, các quy định về trùng tố dường như
chỉ mang tính hình thức, không thực sự có
giá trị áp dụng trên thực tiễn. Do vậy, để
ngăn ngừa trùng tố, cần tiến hành:
- Rà soát các BIT vẫn còn hiệu lực
Việc rà soát các BIT vẫn còn hiệu lực,
đặc biệt là các BIT ký kết từ những năm
1990, và tham chiếu chúng với các IIA mới
là rất quan trọng bởi chính các BIT này là
mục tiêu của các NĐT khởi kiện nhiều lần
gây ra trùng tố do sự quy định lỏng lẻo về
điều khoản GQTC. Ngoài điều khoản
GQTC, việc rà soát nên lưu ý về điều khoản
quy định về phạm vi bảo hộ trong các BIT
trên bởi thường được viện dẫn trong các
tranh chấp ĐTQT.
- Điều khoản tránh trùng tố trong các IIA
Các IIA sẽ được ký kết trong tương lai
nên có một điều khoản riêng quy định bao
quát hết các tình huống mà trùng tố có thể
xảy ra. Do đó, điều khoản này nên được xây
dựng dựa trên sự tổng hợp tinh thần của ba
điều khoản đang được sử dụng riêng lẻ và
chưa thực sự hiệu quả: một là, điều khoản
hợp nhất (consolidation clause) quy định về
việc hai hoặc nhiều thủ tục tố tụng được hợp
nhất thành một cơ quan GQTC duy nhất; hai
là, điều khoản lựa chọn cơ quan tài phán độc
quyền (exclusive forum choice clause) là
việc các bên chỉ định một cơ quan duy nhất
có thẩm quyền GQTC và cơ quan này trung
lập và thực sự mang lại công bằng cho các
bên; ba là, điều khoản cam kết về mở rộng
thẩm quyền cơ quan GQTC duy nhất.
Tuy nhiên, để điều khoản tránh trùng tố
tổng hợp như vậy thực sự hiệu quả cần có (i)
sự quy định và diễn giải hợp lý về các điều
khoản thành phần của nó; và (ii) các bên có
thiện chí trong quá trình đàm phán IIA và
ngay cả trong khi tranh chấp đã xảy ra.
5.2. Một số khuyến nghị đối với giai
đoạn tranh chấp đã phát sinh
Thứ nhất, áp dụng cơ chế “vén màn
công ty” (pierce corporated veil, sau đây
được gọi là “cơ chế PCV”) để ngăn chặn
trùng tố ngay từ giai đoạn đầu khi tranh chấp
mới phát sinh nếu có biểu hiện về chuỗi thực
thể pháp lý. Cơ chế PCV buộc các chủ sở
hữu (chủ thể kiểm soát thực sự) phải chịu
trách nhiệm về những hậu quả do công ty
gây ra trong một số trường hợp nhất định
thông qua việc truy xét đến cùng điều kiện
bản chất thực sự về chủ thể của vụ kiện và
hạn chế bảo hộ của hiệp định đối với các
pháp nhân của công ty. Đây là cách lập luận
hiệu quả để bác bỏ thẩm quyền thụ lý của cơ
quan GQTC với các pháp nhân đó.
Thứ hai, sử dụng khái niệm “đầu tư chủ
động” (active investment) để lập luận bác bỏ
quyền khởi kiện của các cổ đông trong
doanh nghiệp. Yêu cầu nguyên đơn chứng
minh khoản đầu tư được thực hiện theo sự
điều khiển của nguyên đơn là một rào cản
không cho các cá nhân, pháp nhân không có
quyền sở hữu chủ động trở thành nguyên
đơn của vụ trùng tố.
Thứ ba, đối với các thủ tục tố tụng đã có
phán quyết của vụ kiện trước, lập luận và
yêu cầu cơ quan tài phán áp dụng học thuyết
collateral estoppel thay vì việc áp dụng các
học thuyết đòi hỏi khắt khe về mặt kỹ thuật
đã được sử dụng phổ biến nhưng chưa thực
sự hiệu quả trong việc tránh trùng tố như lis
pendens và res judicata. Học thuyết
collateral estoppel ngăn chặn sự tái khởi
kiện của một vấn đề (issue) nếu vấn đề đó
được đưa ra xem xét ở vụ đó đã được xét
một cách đầy đủ và công bằng ở vụ kiện
trước n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- trung_to_trong_giai_quyet_tranh_chap_dau_tu_quoc_te.pdf