Truyền dịch chu phẫu và theo dõi đáp ứng truyền dịch
TỐI ƯU HÓA TRUYỀN DỊCH CHU
PHẪU DƯỚI HƯỚNG DẪN CỦA CÁC
CHỈ SỐ ĐỘNG
Cho đến nay, chỉ một vài nghiên cứu làm
nổi bật ảnh hưởng của các chỉ số động để tối ưu
hóa và hướng dẫn liệu pháp truyền dịch. Tối đa
hóa SV bằng truyền dịch cho những phẫu thuật
có nguy cơ cao làm giảm tỉ lệ biến chứng sau
phẫu thuật và giảm thời gian lưu lại ICU và thời
gian nằm viện đã được chứng minh. Lopes và
cộng sự là những người đầu tiên cho thấy ở một
số ít bệnh nhân trải qua phẫu thuật có nguy cơ
cao được theo dõi và tối ưu hóa PPV bằng
truyền dịch sẽ cải thiện kết quả và làm giảm thời
gian nằm bệnh viện so với một protocol kiểm
soát dịch không đặc hiệu(5). Trong một nghiên
cứu trên 80 bệnh nhân dự kiến sẽ phẫu thuật lớn
vùng bụng, Buettner và cộng sự đã phân tích
những tác động của SPV-hướng dẫn truyền dịch
trong phẫu thuật lên chức năng và tưới máu cơ
quan so với chăm sóc thông thường(1). Họ thấy
rằng so với chăm sóc thông thường, điều trị
trong phẫu thuật với hướng dẫn của SPV có liên
quan với sự gia tăng nhẹ lượng dịch truyền
trong khi tưới máu và chức năng cơ quan cũng
tương tự.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 115 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Truyền dịch chu phẫu và theo dõi đáp ứng truyền dịch, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Tổng Quan
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 1
TRUYỀN DỊCH CHU PHẪU VÀ THEO DÕI ĐÁP ỨNG TRUYỀN DỊCH
Nguyễn Thị Ngọc Đào*.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thiếu thể tích tuần hoàn là nguyên nhân
phổ biến của suy tuần hoàn chu phẫu. Khoảng
50% BN nặng vẫn còn bảo tồn tiền tải tim và
đáp ứng với truyền dịch bằng tăng cung lượng
tim. Điều này nhấn mạnh rằng cần thiết đánh
giá chính xác những thông số tiền tải và những
yếu tố tiên đoán thực sự đáp ứng truyền dịch để
tránh truyền dịch không hiệu quả hay nguy
hiểm. Nhiều nghiên cứu lâm sàng và thực
nghiệm đã chứng minh rằng những chỉ số tĩnh
như CVP (central venous pressure) và PAOP
(pulmonary artery occlusion pressure), phản
ánh áp lực đổ đầy tim, không phải là chỉ điểm
đầy đủ sự thay đổi tiền tải và tiên đoán chính
xác đáp ứng truyền dịch.
Theo định luật Starling - Starling tiền tải thất
trái được định nghĩa như là chiều dài sợi cơ tim
cuối thì tâm trương. Do đó, thể tích cuối tâm
trương thất trái đo bằng siêu âm tim hay thể tích
cuối tâm trương (global end-diastolic volume-
GEDV) được đo bằng phương pháp pha loãng
nhiệt cũng được xem là chỉ số thể tích tĩnh của
tiền tải thất trái, chỉ số tiền tải và đáp ứng truyền
dịch chính xác hơn. Ngày nay, nhiều nghiên cứu
đã chứng minh ưu điểm của những chỉ số động
về đáp ứng truyền dịch như thay đổi huyết áp
tâm thu (SPV), thay đổi áp lực mạch nảy (PPV),
thay đổi thể tích nhát bóp (SVV), thay đổi sóng
độ bão hoà oxy qua mạch nảy
(plethysmographic waveform variation - POP)
và những chỉ số khác dựa vào khái niệm tương
tác tim phổi so với yếu tố tĩnh trong quá trình
đưa ra quyết định BN có cần truyền dịch hay
không. Nguyên tắc cơ bản của tiếp cận động là
dựa vào giảm máu tĩnh mạch về tim phải ngắt
quãng trong chu kì thông khí cơ học do tăng áp
lực trong lồng ngực. Những thông số đáp ứng
truyền dịch động đã được đánh giá rộng rãi
trong nhiều tình huống lâm sàng và giá trị
ngưỡng của SPV, PPV và SVV đã được xác định
giúp các bác sĩ đưa ra quyết định BN có cần
truyền dịch hay không. Tuy nhiên, vẫn còn thắc
mắc về chỉ định cũng như giới hạn trước khi các
thông số động này có thể được sử dụng thường
qui trong thực hành lâm sàng.
NHỮNG CHỈ SỐ TĨNH CỦA TIỀN TẢI
VÀ ĐÁP ỨNG TRUYỀN DỊCH
Áp lực đổ đầy tim
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng áp
suất đổ đầy tĩnh như CVP, PAOP không phản
ánh chính xác tiền tải do những nguyên nhân
sau:
Đường cong Frank-Starling về mối liên hệ
giữa tiền tải thất và thể tích nhát bóp ở từng cá
nhân là động, sự thay đổi hình dạng đường
cong ở từng cá nhân (lệch phải/trái) đáp ứng với
giảm hay tăng chức năng thất trái có thể xảy ra.
Ở khái niệm này, trị số tiền tải có liên quan đến
đáp ứng truyền dịch ở BN có chức năng tim
bình thường và không liên quan đáp ứng truyền
dịch khi suy tim.
Áp lực đổ đầy phụ thuộc vào độ đàn hồi
thất trái và thường thay đổi ở BN bệnh nặng. Do
độ đàn hồi thất trái thay đổi rất nhanh, sự thay
đổi về mối liên hệ giữa áp lực đổ đầy và thể tích
cuối tâm trương cũng xảy ra tương tự. Kết quả
là mối liên hệ giữa áp lực đổ đầy thất và thể tích
cuối tâm trương là đường cong và thay đổi theo
từng cá nhân. Không phải giá trị tuyệt đối của
áp lực đổ đầy, cũng không phải sự thay đổi
trong áp lực đổ đầy có liên quan đến thể tích
cuối tâm trương hay sự thay đổi thể tích cuối
* Bộ môn gây mê hồi sức, Đại học Y Dược Tp.HCM
Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Thị Ngọc Đào ĐT: 01687528534 Email: ngthngocdaoy26@yahoo.com.vn
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 2
tâm trương.
BN bệnh nặng thường cần thông khí áp lưc
dương, tác động đối lập với BN tự thở đến áp
lực trong lồng ngực và áp lực quanh tim. Tăng
áp lực trong lồng ngực thường đi kèm với tăng
áp lực quanh tim và thứ phát bởi tăng áp lực đổ
đầy tim, giúp phát hiện trị liệu không phù hợp
hay bất lợi.
Tuy nhiên, mặc dù chúng không phải là
những yếu tố tiên đoán đáp ứng truyền dịch
thật sự nhưng chúng vẫn được xem là tiêu
chuẩn vàng cho liệu pháp bù dịch ở BN nhiễm
khuẩn huyết và shock nhiễm khuẩn.
Tóm lại, áp lực đổ đầy tim, mặc dù vẫn còn
được khuyến cáo sử dụng để hướng dẫn liệu
pháp truyền dịch, không thích hợp để đánh giá
tình trạng thể tích nội mạch và cũng không phải
là yếu tố tiên đoán chính xác đáp ứng truyền
dịch.
CHỈ SỐ THỂ TÍCH TĨNH
Thể tích thất trái cuối thì tâm trương (đo
bởi siêu âm tim)
Tiền tải là chiều dài sợi cơ tim cuối thì tâm
trương. Trong 2 thập kỉ qua, sử dụng siêu âm
ngã thực quản ngày càng tăng, siêu âm ngã thực
quản đánh giá được chức năng và kích thước
thất trái. Do đó, thể tích thất trái cuối thì tâm
trương đo bởi siêu âm ngã thực quản được đưa
vào lâm sàng để đánh giá tiền tải. Nhiều nghiên
cứu đã chứng minh rằng siêu âm ngã thực quản
phản ánh thật sự sự thay đổi tiền tải trong thực
hành lâm sàng. Mặc dù siêu âm tim cung cấp
ước đoán tiền tải nhưng sử dụng siêu âm ngã
thực quản vẫn còn có nhược điểm là thiết bị đắt
tiền và cần huấn luyện trước khi sử dụng. Hơn
nữa, siêu âm ngã thực quản không phù hợp để
theo dõi BN liên tục trong thời gian dài.
Thể tích cuối tâm trương (global end-
diastolic volume) đo bởi phương pháp pha
loãng nhiệt
Vài năm gần đây, hệ thống theo dõi mới
được đưa vào sử dụng trong thực hành lâm
sàng, PiCCO (pulse contour cardiac output
monitoring system, Pulsion Medical System,
Munich, Germany). PiCCO gồm theo dõi CO
ngắt quảng bằng phương pháp pha loãng nhiệt
và theo dõi CO liên tục dựa vào phân tích diễn
biến mạch (pulse contour analysis). Phương tiện
này cũng đánh giá được GEDV, thông số thể
tích tĩnh của tiền tải sử dụng phân tích toán học
của đường cong pha loãng nhiệt. GEDV được
giả định là tổng thể tích cuối tâm trương của tim
trái và phải. Ngày nay, nhiều nghiên cứu ở cả
người lớn và trẻ em đã nhấn mạnh ý nghĩa lâm
sàng của GEDV như là chỉ điểm của tiền tải và
được coi như là thông số để tiên đoán đáp ứng
truyền dịch với độ nhạy và độ đặc hiệu chấp
nhận được. Tuy nhiên, GEDV không phải là
phương pháp chuẩn để đánh giá thể tích tim.
Khác với những chỉ số động của đáp ứng truyền
dịch, GEDV không bị giới hạn bởi BN tự thở và
phần lớn BN ở ICU không có thông khí cơ học,
GEDV rất hữu ích trong tình huống này.
CHỈ SỐ ĐỘNG THEO DÕI ĐÁP ỨNG
TRUYỀN DỊCH
Nguyên tắc cơ bản của tiếp cận động là sự
thay đổi tiền tải tim theo chu kì gây ra do thông
khí cơ học. Thông khí áp lực dương gây giảm
ngắt quãng thể tích cuối tâm trương thất phải và
do đó làm giảm thể tích thất trái đáp ứng với
giảm máu tĩnh mạch về. Quan sát và phân tích
ảnh hưởng đến thể tích nhát bóp hay áp lực
mạnh nảy hay huyết áp tâm thu do thông khí áp
lực dương là những khái niệm chính được biết
đến như là theo dõi huyết động chức năng.
Cơ chế Frank-Starling và tương tác tim-
phổi
Cơ chế Frank-Starling mô tả mối liên hệ
đường cong của sức căng cơ tim thì tâm trương,
tiền tải và chức năng tâm thu tim. Tăng sức căng
cơ tim sẽ tăng CO. Chức năng của tim được cải
thiện chủ yếu bởi tăng sức căng thì tâm trương ở
nhánh lên của đường cong Frank-Starling (bảo
tồn chức năng dự trữ tiền tải). Tuy nhiên, tác
dụng lên chức năng tim giảm khi cố gắng tăng
sức căng tâm trương quá mức ở vùng bình
nguyên của đường cong Frank-Starling (giảm
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Tổng Quan
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 3
dự trữ tiền tải). Trong thực hành lâm sàng hằng
ngày, đổ đầy tâm trương thường được sử dụng
như là tiền tải tim và truyền dịch là can thiệp
điều trị để tối ưu hóa huyết động dựa vào cơ
chế Frank-Starling (hình A). Do đó, để cung cấp
liệu pháp thể tích đầy đủ ở BN có hay không có
bảo tồn tiền tải được gọi là “đáp ứng” hay
“không đáp ứng” phải được nhận biết (hình B).
“Đáp ứng” có nghĩa là tăng thể tích nhát bóp
(SV) khi tăng tiền tải và không đáp ứng” thì
không thấy tác dụng này. Tuy nhiên, ở cả 2
nhóm, chức năng tim của từng cá nhân rất khác
nhau, do đó đường cong Frank-Starling phải
được nhận biết ở từng cá nhân (hình C). Khi có
giảm chức năng tim, đường cong trở nên dẹt
hơn so với chức năng thất trái bảo tồn. Những
chỉ số tiền tải chuẩn như CVP không thể phân
biệt giữa đáp ứng và không đáp ứng, do đó
chúng không cho phép đánh giá hoạt động tim
khi đáp ứng với truyền dịch.
Tương tác tim-phổi là cơ chế cơ bản của
đánh giá huyết động chức năng. Sự thay đổi áp
lực lồng ngực sẽ ảnh hưởng đến lượng máu tĩnh
mạch về tim do đó ảnh hưởng đến đổ đầy tâm
trương tim cũng như chức năng tâm thu. Khi tự
thở, hít vào gây nở phổi và tăng áp lực âm trong
lồng ngực, do đó gây tăng lượng máu về tim và
tăng thể tích nhát bóp. Khi thở ra, áp lực trong
lồng ngực tăng và giảm tác dụng này. Ở BN thở
máy, hít vào gây tăng áp lực lồng ngực và giảm
lượng máu trở về tim, tiền tải và sau sự trì hoãn
khoảng 3 nhịp tim liên tục, thời gian vận chuyển
qua phổi, thể tích nhát bóp giảm. Ảnh hưởng
này cũng xảy ra ở thì thở ra. Khi giải phóng áp
lực trong lồng ngực thì tiền tải và thể tích nhát
bóp tăng trở lại. Trong thực hành lâm sàng hằng
ngày, biến đổi sóng động mạch hình sin khi
thông khí áp lực dương có liên quan đến mức
độ thiếu thể tích tuần hoàn. Dựa vào những
quan sát này, chỉ số huyết động chức năng như
SVV và PPV được tính. Ở nhánh lên của đường
cong Frank-Starling, sự biến đổi áp lực trong
lồng ngực do thở máy sẽ gây ra những biến đổi
nhiều ở thể tích nhát bóp và huyết áp động
mạch, ở nhánh bình nguyên của đường cong
Frank-Starling, chỉ gây thay đổi ít thể tích nhát
bóp và huyết áp động mạch.
Khái niệm sự biến đổi chỉ số huyết động
theo hô hấp như huyết áp tâm thu (SP), áp lực
mạch nảy (PP), thể tích nhát bóp (SV) và sóng
độ bão hòa oxy dẫn đến sự phát triển và lợi ích
của nhiều kĩ thuật cho phép theo dõi SV dựa
vào phân tích đường vòng mạch nảy.
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 4
Thay đổi huyết áp tâm thu
Thay đổi huyết áp tâm thu động mạch: khác
biệt giữa huyết áp tâm thu động mạch cao nhất
và thấp nhất trong 1 chu kì thở và thành phần
Δdown (huyết áp tâm thu giai đoạn ngưng thở -
huyết áp tâm thu thấp nhất) đã được chứng
minh là chỉ điểm nhạy về thiếu thể tích tuần
hoàn. Sử dụng huyết áp tâm thu giai đoạn
ngưng thở như là đường cơ bản, tăng huyết áp
tâm thu trên đường cơ bản trong chu kì hô hấp
được định nghĩa như là Δup và giảm trong huyết
áp tâm thu dưới đường cơ bản được định nghĩa
như là Δdown. Sự thay đổi huyết áp tâm thu (SPV)
là tổng Δup và Δdown.
Đánh giá SVV
SVV được xác định từ SV cao nhất và thấp
nhất trong 3 chu kì thở máy bằng sử dụng
những phương tiện theo dõi huyết động ít xâm
lấn dựa vào phân tích sóng mạch nảy.
Hệ thống PiCCO là phương tiện đường
vòng mạch nảy đầu tiên để đo cung lượng tim
trong thực hành lâm sàng. PiCCO sử dụng thuật
toán độc quyền dựa vào giả định rằng khu vực
dưới phần tâm thu của sóng áp lực ĐM chủ
tương ứng với thể tích nhát bớp. Để thể tích
nhát bóp này đúng với thể tích nhát bóp thật sự
của bệnh nhân cần định chuẩn bằng phương
pháp pha loãng nhiệt. Do đó, cần dùng 1
catheter có đầu nhận cảm nhiệt chuyên dụng,
thường được đặt vào ĐM đùi kết hợp với
catheter TM trung tâm để bolus 1 thể tích dung
dịch lạnh, cần định chuẩn lại thường xuyên để
kết quả thu được chính xác đặc biệt là khi có
biến đổi huyết động nhanh. Hệ thống PiCCO
cho phép đo SVV và PPV cùng lúc.
Kĩ thuật LiCCO được phân loại như là
phương pháp đường vòng mạch nảy, mặc dù
nói đúng, nó phân tích sức mạnh mạch nảy dựa
vào nguyên tắc bảo tồn khối lượng/công suất
trong hệ thống và giả định rằng sau khi hiệu
chỉnh cho phù hợp và hiệu chuẩn sử dụng
phương pháp pha loãng lithium. Có một mối
quan hệ tuyến tính giữa mạng lưới điện và
mạng lưới dòng chảy trong hệ thống mạch máu.
Nhiều nghiên cứu khác nhau cho thấy đánh giá
đáng tin cung lượng tim miễn là không có thay
đổi về huyết động học lớn (sự thay đổi của độ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Tổng Quan
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 5
đàn hồi và đề kháng mạch máu) xảy ra.Thiết bị
nhanh LiDCO, không cần hiệu chuẩn, có thể có
so sánh với hệ thống FloTrac / Vigileo (Edwards
Lifesciences, Irvine, CA, USA). Kỹ thuật này ghi
SVV và PPV liên tục.
Hệ thống FloTrac/Vigileo cần transducer
riêng, Flotrac sensor, được gắn vào đường huyết
áp động mạch chuẩn có sẵn và nối với monitor
Vigileo để đo cung lượng tim liên tục. Ngược lại
với hệ thống PiCCO, hệ thống này không cầu
hiệu chuẩn từ ngoài: độ lệch chuẩn của huyết áp
động mạch được lấy mẫu trong 1 cửa sổ thời
gian là 20 giây liên quan đến thể tích nhát bóp
“bình thường” dựa vào dữ liệu huyết động cơ
bản. Trở kháng động mạch chủ cũng được ước
tính từ dữ liệu này, trong khi sức cản và độ đàn
hồi mạch máu được xác định bằng cách sử dụng
phân tích sóng động mạch. Hàng loạt các
nghiên cứu trong những năm qua quan sát thấy
chức năng của thiết bị được cải thiện với phần
mềm sửa đổi (thế hệ 2), đặc biệt trong giai đoạn
chu phẫu. Tuy nhiên, đo lường kém chính xác ở
BN bị liệt mạch trong tình huống tăng huyết
động vẫn đang được quan tâm và sửa đổi phần
mềm để giải quyết vấn đề này đang được thử
nghiệm (thế hệ 3). Hệ thống Flotrac/Vigileo hiển
thị liên tục SVV.
Sự kết hợp các thông số chức năng huyết
động với đánh giá CO ở những thiết bị theo dõi
huyết động ít xâm lấn này tạo điều kiện cho việc
theo dõi đáp ứng tim với thử nghiệm truyền
dịch và đánh giá đáp ứng truyền dịch bằng
hướng dẫn thay thế trong những trường hợp
SVV và PPV không đáng tin cậy.
Đánh giá PPV
Trước đây thường đánh giá PPV thủ công
(tự đo). PPV được xác định trong 3 chu kì hô
hấp. Đo áp lực mạch nảy tối đa và tối thiểu.
PPV cũng có thể được đánh giá bằng sử
dụng các thiết bị theo dõi huyết động dựa vào
phân tích sóng mạch nảy như hệ thống PiCCO
và LiCCO. Gần đây phát triển nhiều thuật toán
để đánh giá PPV tự động liên tục. Trong tương
lai, PPV sẽ trở nên phổ biến khi có theo dõi
huyết áp động mạch xâm lấn. Từ phân tích sóng
động mạch, có thể tính những thông số huyết
động khác như sự biến đổi huyết áp tâm thu
(SPV systolic pressure variation) và những
thành phần của SPV như Δup và Δdown. Tuy
nhiên, những thông số này không thể sử dụng
trong thực hành lâm sàng hằng ngày do được
đánh giá thủ công. Nhược điểm khác là không
đánh giá CO, do đó hạn chế việc kiểm soát trực
tiếp ảnh hưởng của truyền dịch.
Plethysmographic systolic pressure
variation [Δpulse oxymetric plethysmography
(POP)] và plethysmographic variability index
(PVI; Massimo Corp, Irvine, CA, USA) là
phương pháp đánh giá đáp ứng truyền dịch
không xâm lấn bởi tín hiệu độ bảo hòa oxy qua
mạch nảy, PVI sử dụng thuật toán khác ΔPOP,
mẫu số là biên độ tối đa thay vì biên độ trung
bình (ΔPOP = (POPmax - POPmin)/POPmax). Những
chỉ số này được coi là những chỉ số không xâm
lấn thay thế cho PPV và dựa trên bản chất
không xâm lấn có thể sử dụng rộng rãi trong
giai đoạn chu phẫu khi không cần đo huyết áp
động mạch xâm lấn. Ngoài những hạn chế
chung của tất cả các thông số huyết động chức
năng, ΔPOP và PVI có thể dễ bị lỗi trong tình
huống giảm tưới máu với tăng trương lực co
mạch
như là kết quả của ánh sáng môi trường
xung quanh hoặc bị nhiễu khi có cử động.
Tất cả những chỉ số động này đều có mẫu
thức chung: giá trị cao trước truyền dịch sẽ gây
tăng rõ ràng hơn thể tích nhát bóp đáp ứng với
truyền dịch. Giá trị ngưỡng của SVV dao động
từ 10-13%. Giá trị ngưỡng của PPV dao động từ
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 6
9-17%, thường sử dụng giá trị ngưỡng là 10% nếu đo tự động và 12% nếu đo thủ công.
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHỈ
SỐ ĐỘNG THEO DÕI ĐÁP ỨNG
TRUYỀN DỊCH
Ảnh hưởng của Vt
Sự thay đổi có chu kì của thể tích nhát thất
trái gây ra bởi thông khí áp lực dương là dựa
vào sự thay đổi có chu kì áp suất trong lồng
ngực và thể tích phổi. Do đó, sử dụng Vt càng
cao ảnh hưởng càng nhiều đến chỉ số đáp ứng
truyền dịch động, độc lập với tình trạng thể tích
nội mạch. Chỉ Vt đủ để làm tăng áp lực trong
lồng ngực ảnh hưởng đến lượng máu tĩnh mạch
về mới đánh giá chính xác tiền tải và Vt tối thiểu
là 8ml/kg(1).
Ảnh hưởng của tim mạch
Rối loạn nhịp gây ảnh hưởng rất lớn đến
SVV và PPV, gây đánh giá quá cao hay quá thấp
SVV và PPV. Suy tim phải và tăng áp phổi cũng
làm cho những chỉ số huyết động này không
chính xác. Trong 1 nghiên cứu thực nghiệm
shock mất máu ở chó, truyền noradrenaline mà
không truyền dịch gây giảm chỉ số huyết động
chức năng trong khi đó làm nặng thêm tình
trạng toan chuyển hóa.(6) Điều này cho thấy
Noradrenaline có thể bảo tồn thể tích máu ở
trung tâm bằng cách gây co mạch và ảnh hưởng
đến độ đàn hồi mạch máu. Tuy nhiên, nhiều
nghiên cứu trên BN sử dụng Noradrenaline chỉ
ra rằng chỉ nên tránh sử dụng liều cao
Noradrenalinne và tránh thay đổi liều
Noradrenaline trong quá trình đánh giá huyết
động.
Ảnh hưởng của mở ngực
Ảnh hưởng của thông khí áp lực dương
đến sự thay đổi theo chu kì tiền tải thất trái là
khi lồng ngực đóng. Khi mở ngực, sự thay đổi
này giảm, do đó ảnh hưởng đến chỉ động đáp
ứng truyền dịch ít rõ ràng hơn. Giả thuyết này
được nhấn mạnh bởi một số nghiên cứu thực
nghiệm và lâm sàng. Rex và cộng sự đánh giá
ảnh hưởng của mở ngực đến SVV và PPV ở 45
BN bắt cầu mạch vành và ông kết luận rằng
SVV và PPV có thể giải thích đáp ứng truyền
dịch sai khi có mở ngực(7). Gần đây, không
khuyến cáo sử dụng những chỉ số động này
trong tình huống có mở ngực.
Ảnh hưởng của tăng áp lực ổ bụng
Tăng áp lực ổ bụng gây chèn ép tĩnh mạch
chủ dưới do đó làm giảm lượng máu tĩnh mạch
về(3). Do đó, những chỉ số đáp ứng truyền dịch
động cũng thay đổi khi có tăng áp lực ổ bụng.
Cần nhiều nghiên cứu chứng minh ảnh hưởng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Tổng Quan
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 7
của tăng áp lực ổ bụng đến chỉ số đáp ứng
truyền dịch động trước khi những chỉ số này
được khuyến cáo hướng dẫn theo dõi liệu pháp
truyền dịch ở BN nặng có tăng áp lực ổ bụng.
Ảnh hưởng của PEEP
Tăng PEEP gây nở phổi và làm tăng áp lực
trong lồng ngực do đó giảm máu tĩnh mạch về
đặc biệt khi có giảm thể tích tuần hoàn. Kubitz
và cộng sự đã chứng minh tăng PEEP làm tăng
cả SVV và PPV kể cả mở hay đóng ngực(4).
Trong những nghiên cứu thực nghiệm trên
động vật gần đây về tăng PEEP và sự thay đổi
tiền tải đã chỉ ra rằng SVV và GEDV là yếu tố
nhạy và đặc hiệu để tiên đoán đáp ứng truyền
dịch khi có tăng PEEP trái ngược với PPV. Tuy
nhiên, giá trị ngưỡng của SVV để phân biệt giữa
đáp ứng và không đáp ứng dao động từ 9.5%
với PEEP 5 mmHg và 14% với PEEP 10 mmHg.
Một lần nữa, GEDV là biến duy nhất mang lại
giá trị ngưỡng so sánh ở mức PEEP khác nhau.
Ảnh hưởng của tự thở
Yêu cầu cơ bản của đánh giá chỉ số đáp ứng
truyền dịch động là thông khí áp lực dương do
đó PPV và SVV không tiên đoán chính xác đáp
ứng truyền dịch khi tự thở(8).
TỐI ƯU HÓA TRUYỀN DỊCH CHU
PHẪU DƯỚI HƯỚNG DẪN CỦA CÁC
CHỈ SỐ ĐỘNG
Cho đến nay, chỉ một vài nghiên cứu làm
nổi bật ảnh hưởng của các chỉ số động để tối ưu
hóa và hướng dẫn liệu pháp truyền dịch. Tối đa
hóa SV bằng truyền dịch cho những phẫu thuật
có nguy cơ cao làm giảm tỉ lệ biến chứng sau
phẫu thuật và giảm thời gian lưu lại ICU và thời
gian nằm viện đã được chứng minh. Lopes và
cộng sự là những người đầu tiên cho thấy ở một
số ít bệnh nhân trải qua phẫu thuật có nguy cơ
cao được theo dõi và tối ưu hóa PPV bằng
truyền dịch sẽ cải thiện kết quả và làm giảm thời
gian nằm bệnh viện so với một protocol kiểm
soát dịch không đặc hiệu(5). Trong một nghiên
cứu trên 80 bệnh nhân dự kiến sẽ phẫu thuật lớn
vùng bụng, Buettner và cộng sự đã phân tích
những tác động của SPV-hướng dẫn truyền dịch
trong phẫu thuật lên chức năng và tưới máu cơ
quan so với chăm sóc thông thường(1). Họ thấy
rằng so với chăm sóc thông thường, điều trị
trong phẫu thuật với hướng dẫn của SPV có liên
quan với sự gia tăng nhẹ lượng dịch truyền
trong khi tưới máu và chức năng cơ quan cũng
tương tự.
KẾT LUẬN
Ở những bệnh nhân nặng trải qua cuộc
phẫu thuật lớn hoặc nằm ICU, đáp ứng truyền
dịch là một vấn đề quan trọng do đáp ứng với
truyền dịch rất khó để dự đoán bằng cách kiểm
tra lâm sàng, và thừa dịch có liên quan với nguy
cơ phù phổi và suy tim. Cách tiếp cận theo dõi
huyết động chức năng ở bệnh nhân thở máy khi
không có rối loạn nhịp tim hiện nay là lựa chọn
tốt nhất để dự đoán đáp ứng truyền dịch. Tuy
nhiên, có một số vấn đề phải được xem xét khi
giải thích giá trị thu được, chẳng hạn như thông
khí với Vt cao, mức PEEP cao, có tăng áp lực ổ
bụng, sử dụng thuốc co mạch và tự thở. Khoảng
rộng của giá trị ngưỡng của các chỉ số đáp ứng
truyền dịch động tương đối khó hiểu và gây hạn
chế sử dụng. Hiện nay, giá trị ngưỡng của các
chỉ số đáp ứng truyền dịch động phụ thuộc vào
điều chỉnh của bác sĩ (Vt) và các yếu tố liên quan
đến bệnh nhân (tăng áp lực ổ bụng).Từ khi biến
thể tích, tĩnh GEDV đã được chứng minh là một
biến đáng tin cậy để chỉ ra những thay đổi trong
tiền tải và để dự đoán đáp ứng truyền dịch,
chúng tôi khuyến cáo sử dụng GEDV để đưa ra
quyết định xem bệnh nhân có cần truyền dịch
hay không.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Buettner M, Schummer W, Huettemann E et al (2008)
“Influence of systolic-pressure-variation-guided intraoperative
fluid management on organ function and oxygen
transport”.British Journal of Anaesthesia, 101: 194–199
2. De Backer D, Heenen S, Piagnerelli M et al (2005) “Pulse
pressure variations to predict fluid responsiveness: influence of
tidal volume”. Intensive Care Medicine, 31: 517–523.
3. Giebler RM, Behrends M, Steffens T et al (2000) “Intraperitoneal
and retroperitoneal carbon dioxide insufflation evoke different
effects on caval vein pressure gradients in humans: evidence for
the starling resistor concept of abdominal venous return”.
Anesthesiology, 92: 1568–1580.
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 8
4. Kubitz JC, Annecke T, Kemming GI et al (2006) “The influence
of positive end-expiratory pressure on stroke volume variation
and central blood volume during open and closed chest
conditions”. European Journal of Cardio-Thoracic Surgery, 30:
90–95.
5. Lopes MR, Oliveira MA, Pereira VO et al (2007) « Goal-directed
fluid management based on pulse pressure variation monitoring
during high-risk surgery: a pilot randomized controlled
trial”.Critical Care, 11: R100.
6. Nouira S, Elatrous S, Dimassi S, et al (2005) “Effects of
norepinephrine on static and dynamic preload indicators in
experimental hemorrhagic shock”. Crit Care Med, 33: 2339-
2343.
7. Rex S, Schalte G, Schroth S et al (2007) “ Limitations of arterial
pulse pressure variation and left ventricular stroke volume
variation in estimating cardiac pre-load during open heart
surgery”. Acta Anaesthesiologica Scandinavica, 51: 1258–1267.
8. Soubrier S, Saulnier F, Hubert H et al (2007)“Can dynamic
indicators help the prediction of fluid responsiveness in
spontaneously breathing critically ill patients?”. Intensive Care
Medicine, 33: 1117–1124.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- truyen_dich_chu_phau_va_theo_doi_dap_ung_truyen_dich.pdf