Qua phân tích các giá trị trong Bảng 2, chúng
ta thấy rằng giá trị RMS trung bình ở người khỏe
mạnh cao hơn so với bệnh nhân nhồi máu cơ tim
và phù hợp với các giả định lý thuyết. Nhồi máu
cơ tim làm giảm tổng năng lượng được lưu trữ
trong tín hiệu HFQRS dẫn đến thông số RMS
thấp hơn. Giá trị của chỉ số HFMI ở bệnh nhân
nhồi máu cơ tim là cao hơn một chút so với
những người khỏe mạnh. Sự khác biệt nhỏ này
cho thấy sự tương đồng về hình thái của tín hiệu
HFQRS tần số cao ở các đối tượng khỏe mạnh
và bệnh nhân nhồi máu cơ tim có thể khiến cho
kết quả chẩn đoán chưa chính xác. Hình 8 trình
bày tín hiệu HFQRS với đường bao của một
bệnh nhân khỏe mạnh có hình thái giống với hình
thái của tín hiệu HFQRS của bệnh nhân nhồi
máu cơ tim. Việc sử dụng kết hợp chỉ số HFMI
và RMS để phát hiện nhồi máu cơ tim dường như
cho kết quả chính xác hơn nhiều so với RAZ.
Hình 8. Tín hiệu HFQRS cùng với đường bao của
một bệnh nhân khỏe mạnh.
Hiệu suất của thuật toán đề xuất cũng được so
sánh với kết quả được công bố trong 3 thử nhiệm
lâm sàng (Toledo [10], Conti [13], Galante [14]).
Cả 3 nghiên cứu lâm sàng đều chỉ ra được lợi ích
của việc sử dụng tín hiệu ECG tần số cao trong
quá trình chẩn đoán bệnh thiếu máu cơ tim. Hình
9 so sánh kết quả của thuật toán HFQRS được đề
xuất với kết quả phân tích HFQRS được công bố
bởi các nghiên cứu này.
Kết quả của thuật toán đề xuất có thể so sánh
với kết quả nghiên cứu lâm sàng. Chỉ có giá trị
tiên đoán âm tính là thấp do tín hiệu HFQRS của
những người khỏe mạnh có hình thái giống với
những người mắc bệnh nhồi máu cơ tim nên
thuật toán đã chẩn đoán sai. Kết quả phát hiện
thành công nhồi máu cơ tim bị ảnh hưởng bởi
quy mô của bệnh nhân tham gia xét nghiệm và
tỷ lệ giữa bệnh nhân nhồi máu cơ tim và đối
tượng khỏe mạnh trong quần thể xét nghiệm. Giá
trị tiên đoán dương tính và âm tính cho thấy các
đối tượng khỏe mạnh chiếm ưu thế trong nghiên
cứu của Conti [13]. Ngược lại, trong nghiên cứu
của Toledo [10] và của chúng tôi, ECG ghi nhận
từ bệnh nhân nhồi máu cơ tim chiếm ưu thế. Với
nghiên cứu của Galante [14], tỷ lệ bệnh nhân
nhồi máu cơ tim và các đối tượng khỏe mạnh
trong quần thể xét nghiệm là cân bằng.
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 12 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tự động chẩn đoán nhồi máu cơ tim dựa trên phân tích QRS tần số cao, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Natural Sciences and Technology, Vol. 36, No. 1 (2020) 25-35
25
Original Article
Automatic Detection of Myocardial Infarction Based on
High-Frequency QRS Analysis
Hoang Van Manh1, Pham Manh Thang1,
1VNU University of Engineering and Technology, Vietnam National University, Hanoi,
144 Xuan Thuy, Hanoi, Vietnam
Received 06 November 2019
Revised 18 November 2019; Accepted 19 November 2019
Abstract: In this paper, we present an algorithm for automatic detection of myocardial infarction
using high-frequency components of the ECG signal. Firstly, the QRS complexes and their
boundaries are identified. Then, the correlation matrix between the detected QRS complexes in each
lead is determined to eliminate noises and ectopic oscillations. The dominant QRS complexes are
finally determined using cluster analysis. These resulting values are averaged to have a unique
representative QRS complex in a given lead. This averaged signal is then passed through a band-
pass filter to obtain high-frequency components of the QRS complex. Finally, the High-Frequency
Morphological Index (HFMI) for each lead is calculated and diagnosed with myocardial infarction
based on decision rules. The performance of the proposed algorithm is evaluated on signals from
the PTB database. The obtained results show that the proposed method reached satisfactory
performance compared with the results from clinical studies.
Keywords: Myocardial infarction, High-frequency ECG, RAZ, RMS, HFMI.
________
Corresponding author.
Email address: thangpm686@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1140/vnunst.4970
VNU Journal of Science: Natural Sciences and Technology, Vol. 36, No. 1 (2020) 25-35
26
Tự động chẩn đoán nhồi máu cơ tim dựa trên
phân tích QRS tần số cao
Hoàng Văn Mạnh1, Phạm Mạnh Thắng1,
1Trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN, 144 Xuân Thủy, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 06 tháng 11 năm 2019
Chỉnh sửa ngày 18 tháng 11 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 19 tháng 11 năm 2019
Tóm tắt: Trong báo cáo này, chúng tôi sẽ trình bày một phương pháp phát hiện chứng nhồi máu
cơ tim sử dụng tín hiệu ECG tần số cao. Trước tiên, thuật toán sẽ xác định vị trí, điểm bắt đầu và kết
thúc của các phức bộ QRS trong tín hiệu ECG. Tiếp theo, sự tương quan giữa các phức bộ QRS
trong mỗi chuyển đạo sẽ được xác định nhằm loại bỏ nhiễu và các dao động ngoại vị nhờ sử dụng
ma trận tương quan. Kế tiếp, phân tích nhóm được sử dụng để phát hiện các phức bộ QRS chiếm ưu
thế. Kết quả nhận được sẽ được trung bình hóa để có một phức bộ QRS đại diện duy nhất cho mỗi
chuyển đạo. Sau đó, phức bộ QRS trung bình được lọc bởi bộ lọc thông dải để có được các thành
phần tần số cao của phức bộ QRS. Cuối cùng, chỉ số HFMI của mỗi chuyển đạo được tính và thuật
toán sẽ chẩn đoán dựa trên các quy tắc quyết định. Thuật toán đề xuất được thử nghiệm và đánh giá
trên cơ sở dữ liệu PTB. Kết quả thu được cho thấy phương pháp đề xuất đã đạt được hiệu quả khả
quan so với kết quả nghiên cứu lâm sàng.
Từ khóa: Nhồi máu cơ tim, ECG tần số cao, RAZ, HFMI, RMS.
1. Mở đầu
Để chẩn đoán bệnh mạch vành, người ta có
thể sử dụng các công cụ xâm lấn và không xâm
lấn khác nhau. ECG là công cụ được sử dụng phổ
biến để đánh giá các chứng bệnh đau ngực và
chẩn đoán thiếu máu cục bộ hoặc nhồi máu cơ
tim do không xâm lấn, chi phí thấp, không có bức
xạ ion hóa và có khả năng sử dụng rộng rãi. Một
tín hiệu ECG thông thường có tần số 0.05 ÷ 100
(Hz) và được gọi là các tín hiệu ECG tần số thấp.
Phương pháp chẩn đoán bệnh mạch vành thông
qua tín hiệu ECG tần số thấp cho độ nhạy tương
________
Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: thangpm686@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1140/vnunst.4970
đối thấp. Vì vậy, các phương pháp chẩn đoán
hình ảnh cho độ chính xác cao hơn như chụp
mạch vành hay xạ hình tưới máu cơ tim đôi khi
được ưa thích hơn. Tuy nhiên, những phương
pháp này không được sử dụng như một công cụ
cơ bản để chẩn đoán nhồi máu cơ tim do chi phí
cao và bệnh nhân sẽ phải tiếp xúc với bức xạ ion
hóa. Trong những năm gần đây, một số nghiên
cứu lâm sàng đã chỉ ra khả năng sử dụng tín hiệu
ECG tần số cao để chẩn đoán nhồi máu cơ tim.
Các tín hiệu ECG tần số cao cho phép ghi lại các
thành phần tần số cao hơn mang thông tin hữu
ích để chẩn đoán nhồi máu cơ tim. Phân tích
H.V. Manh, P.M. Thang / VNU Journal of Science: Natural Sciences and Technology, Vol. 36, No. 1 (2020) 25-35
27
ECG tần số cao có nghĩa là phân tích các thành
phần tần số 150 ÷ 250 (Hz). ECG tần số cao chủ
yếu được sử dụng để phân tích phổ của phức bộ
QRS (HFQRS) ở tần số cao [1-3]. Tuy nhiên,
phân tích HFQRS cũng có những hạn chế khi
được sử dụng để chẩn đoán thiếu máu cơ tim ở
những bệnh nhân có phức bộ QRS rộng hơn 120
ms, máy tạo nhịp tim và bệnh cơ tim bởi những
biểu hiện này có thể gây ra các vết lõm (notch)
và đoạn gãy (break) đặc trưng của thiếu máu cục
bộ [4-6].
Ý nghĩa chẩn đoán của HFQRS đã được
nghiên cứu từ những năm 1960. Một trong
những nghiên cứu lâm sàng đầu tiên được thực
hiện là nghiên cứu của nhóm tác giả Abbouda [7]
với mục đích nghiên cứu các biểu hiện của bệnh
thiếu máu cơ tim cấp tính trong dải tần số 150 ÷
250 (Hz). Kết quả cho thấy bệnh nhân mắc bệnh
mạch vành đã làm giảm biên độ HFQRS.
Goldberger và cộng sự [8] đã chỉ ra sự ảnh hưởng
của bệnh nhồi máu cơ tim đến tín hiệu tần số cao
trong dải tần 80 ÷ 300 Hz. Kết quả đạt được của
nhóm nghiên cứu Petterson [9] cho thấy phương
pháp chẩn đoán thiếu máu cơ tim cấp sử dụng
phân tích HFQRS có độ nhạy cao hơn so với
phương pháp sử dụng phân tích ST. Nghiên cứu
của Ringborn và cộng sự [5] chỉ ra rằng giá trị
suy giảm của tham số RMS (Root Mean Square)
trong HFQRS có tương quan với phạm vi và mức
độ nghiêm trọng của thiếu máu cục bộ cơ tim.
Nghiên cứu lâm sàng do nhóm Toledo và
cộng sự [10] thực hiện đã khẳng định những thay
đổi trong quá trình khử cực (phức bộ QRS) cho
kết quả chẩn đoán nhạy và cụ thể hơn so với
những thay đổi trong quá trình tái cực (phân đoạn
ST) nhằm phát hiện triệu chứng thiếu máu cơ tim
khi tham gia bài kiểm tra gắng sức. Nghiên cứu
được thực hiện trên 133 bệnh nhân nghi ngờ mắc
bệnh thiếu máu cơ tim. Những người tham gia
nghiên cứu đã trải qua phép đo ECG trong khi
thực hiện gắng sức bằng máy tập thể dục chạy bộ
(treadmill) hoặc xe đạp thể thao tại một phòng
khám ngoại trú ở Charleston. Sau khi thực hiện
gắng sức đã có 20 kết quả bị loại do phức bộ
QRS rộng hơn 120 ms, 8 kết quả do các vấn đề
liên quan tới kỹ thuật đo ECG, 4 kết quả bị loại
do kết quả không xác định của hình ảnh xạ hình
tưới máu cơ tim (MPI) [10-12]. Bên cạnh
phương pháp phân tích HFQRS sử dụng tham số
RMS làm chỉ số nhận biết triệu chứng thiếu máu
cục bộ, phương pháp chẩn đoán nhồi máu cơ tim
sử dụng phân tích đoạn ST, trong đó độ chênh
lên hoặc chênh xuống của đoạn ST được đo ở 80
ms sau điểm J, cũng được thực hiện. Quá trình
đánh giá kết quả được thực hiện bởi hai bác sĩ
tim mạch không có thông tin về bệnh nhân.
Trong số 101 bệnh nhân còn lại, đã có 19 bệnh
nhân được chẩn đoán nhồi máu cơ tim. Phân tích
HFQRS được cho là nhạy hơn (79% so với
41%), độ đặc hiệu cao hơn (71% so với 57%),
giá trị chẩn đoán âm tính cao hơn (94% so với
78%) và giá trị tiên đoán dương tính thấp hơn
(39% so với 78%) khi được so sánh với phương
pháp phân tích đoạn ST nhằm pháp hiện nhồi
máu cơ tim ở cả phụ nữ và nam giới.
Nghiên cứu lâm sàng do nhóm tác giả Conti
và cộng sự [13] thực hiện với sự tham gia của
377 bệnh nhân bị đau thắt ngực điển hình và
thiếu máu cơ tim. Các bệnh nhân đã được kiểm
tra thể chất, đo điện tâm đồ và đánh giá nồng độ
troponin trong huyết tương. Trong số 377 bệnh
nhân, 11 bệnh nhân đã bị loại do sự hiện diện của
phức bộ QRS rộng hơn 120 ms và 29 bệnh nhân
do mức độ nhiễu cao trong tín hiệu HFQRS. Với
phương pháp chẩn đoán thông thường, độ chênh
của đoạn ST được đo tại điểm 60 ms sau điểm J
sử dụng phần mềm hệ thống gắng sức HyperQ
thương mại. Nhồi máu cơ tim được phát hiện khi
độ chênh lên lớn hơn 0,5 mm hoặc chênh xuống
lớn hơn 1 mm của đoạn ST được phát hiện trong
hai đạo trình liền kề. Với phương pháp phân tích
HFQRS, tham số RMS được sử dụng làm chỉ số
phát hiện nhồi máu cơ tim. Kết quả nghiên cứu
lâm sàng cho thấy, phương pháp phân tích
HFQRS có độ nhạy cao hơn đáng kể (63% so với
22%), độ đặc hiệu kém hơn (68% so với 95%),
giá trị tiên đoán âm tính thấp hơn (11% so với
25%) và giá trị tiên đoán dương tính la tương
đương (97% so với 96%) khi so sánh với phương
pháp phân tích dựa trên đoạn ST.
Một nghiên cứu lâm sàng tiếp theo do nhóm
tác giả Galante và đồng nghiệp [14] thực hiện sử
H.V. Manh, P.M. Thang / VNU Journal of Science: Natural Sciences and Technology, Vol. 36, No. 1 (2020) 25-35
28
dụng tín hiệu HFQRS nhằm chẩn đoán chứng
thiếu máu cơ tim cấp tính tại Khoa Cấp cứu
Soroka. Tiêu chuẩn loại trừ là các bệnh nhân mắc
chứng rung tâm nhĩ, rối loạn nhịp thất kéo dài và
sự hiện diện của phức hợp QRS rộng hơn 120
ms. Bệnh nhân được đánh giá đau ngực lâm
sàng, xét nghiệm máu, ECG thông thường và tần
số cao. Trong số 235 bệnh nhân đạt được yêu cầu
thử nghiệm thì có 104 bệnh nhân mắc hội chứng
mạch vành cấp tính và 131 bệnh nhân đau ngực
không do thiếu máu cục bộ. Phương pháp phân
tích HFQRS cho kết quả tương đương (độ nhạy
– 67.3% so với 61.5%, độ đặc hiệu – 69.5% so
với 68.7%, giá trị tiên đoán âm – 63.6% so với
61.0% và giá trị tiên đoán dương tính – 72.8% so
với 96.2%) khi so sánh với kết quả do bác sĩ tim
mạch chẩn đoán qua đoạn ST.
Phần còn lại của bài báo được tổ chức như
sau: Phần 2 giới thiệu các tham số HFQRS và
phương pháp đề xuất chẩn đoán nhồi máu cơ tim.
Kết quả thử nghiệm và những thảo luận đánh giá
được trình bày trong Phần 3. Phần cuối là những
kết luận của bài báo.
2. Phương pháp đề xuất chẩn đoán nhồi máu
cơ tim
2.1. Các tham số HFQRS
Hai tham số cơ bản được sử dụng để định
lượng sự thay đổi trong tín hiệu HFQRS là RMS
(Root Mean Square) và RAZ (Reduced
Amplitude Zone). Tham số RMS tương ứng với
tổng số năng lượng được lưu trữ trong các thành
phần tần số cao của phức bộ QRS và được tính
theo công thức sau:
𝑅𝑀𝑆 = √∑
𝐴𝑖
2
𝑛
𝑛
𝑖=1 (1)
Trong đó n là số lượng mẫu và Ai là biên độ của
tín hiệu HFQRS.
Giá trị RMS ở những người khỏe mạnh cao
hơn so với những người mắc bệnh nhồi máu cơ
tim hoặc thiếu máu cơ tim. Xác định điểm bắt
đầu và kết thúc của phức bộ QRS là một bước rất
quan trọng bởi nếu không chính xác sẽ ảnh
hưởng đến giá trị RMS. Giá trị RMS rất khác
nhau giữa các cá nhân và do đó không được sử
dụng để chẩn đoán bệnh nhồi máu cơ tim.
[12,15,16].
RAZ là một chỉ số hình thái của bệnh lý được
phát hiện bởi Shimon Abboud và các đồng
nghiệp vào năm 1987. Tham số này mô tả độ lõm
xảy ra trên đường bao của tín hiệu HFQRS ở
bệnh nhân thiếu máu cục bộ hoặc nhồi máu cơ
tim. RAZ được Abboud định nghĩa là khoảng
giữa hai điểm cực đại hoặc cực tiểu địa phương
liền kề trên đường bao của tín hiệu HFQRS. Một
cực đại hoặc cực tiểu địa phương là một điểm mà
tại đó giá trị tuyệt đối của điện áp cao hơn giá trị
của các điểm xung quanh. Bệnh nhân khỏe mạnh
chỉ có một một điểm cực đại hoặc cực tiểu địa
phương trên đường bao tín hiệu HFQRS và sẽ
không được sử dụng để xác định tham số RAZ.
Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng xác suất xuất
hiện RAZ trong các chuyển đạo có tương quan
với số lượng các yếu tố nguy cơ của bệnh tim
mạch. Nếu nhồi máu cơ tim xảy ra thì sẽ có ít
nhất hai cực trị địa phương trên đường bao
HFQRS cho phép xác định RAZ. Do đó, RAZ là
khu vực giữa hai cực đại hoặc cực tiểu liền kề.
Để chẩn đoán bệnh nhồi máu cơ tim thì tham số
RAZ sẽ hữu ích hơn so với tham số RMS (chỉ
báo cường độ tín hiệu HFQRS) [3,11,17].
2.2. Chẩn đoán nhồi máu cơ tim dựa trên phân
tích QRS tần số cao
Thuật toán chẩn đoán chứng nhồi máu cơ tim
đề xuất trong bài báo này sử dụng tham số RAZ
để định lượng sự thay đổi hình thái trong tín hiệu
HFQRS. Chỉ số HFMI được tính nhằm xác định
kích thước RAZ trên đường bao tín hiệu
HFQRS. Tham số này xác định tỷ lệ phần trăm
của phần lõm giữa hai cực đại địa phương liền
kề (RAZ) so với diện tích bên dưới đường bao
của tín hiệu HFQRS. Tham số RMS được sử
dụng để tính biên độ năng lượng trung bình của
tín hiệu HFQRS và cho phép xác định sự khác
biệt về giá trị RMS ở những người khỏe mạnh và
bệnh nhân nhồi máu cơ tim. Thuật toán phân tích
HFQRS nhằm phát hiện nhồi máu cơ tim thực
hiện theo sơ đồ trong Hình 1.
H.V. Manh, P.M. Thang / VNU Journal of Science: Natural Sciences and Technology, Vol. 36, No. 1 (2020) 25-35
29
Xác định điểm bắt đầu
và kết thúc QRS
Sắp xếp phức bộ QRS
trong chuyển đạo
Tương quan giữa các
phức bộ QRS
Trung bình hóa phức
bộ QRS
Lọc thông dải
(150-250 Hz)
Tính toán đường bao
tín hiệu
Tính HFMI
Hình 1. Thuật toán phân tích HFQRS.
Trước tiên, thuật toán sẽ xác định vị trí, điểm
bắt đầu và điểm kết thúc của các phức bộ QRS
trong một đạo trình nhất định. Tiếp theo, các
phức bộ QRS tại mỗi đạo trình riêng biệt sẽ được
trích xuất tại thời điểm 250 ms trước điểm bắt
đầu và kết thúc tại thời điểm 250 ms sau điểm
kết thúc phức bộ QRS. Điều này là do yêu cầu sự
liên kết chính xác hơn của các phức bộ QRS
riêng lẻ. Tại bước kế tiếp, tất cả các phân đoạn
phức bộ QRS này được liên kết với phức bộ QRS
đầu tiên như Hình 2.
Hình 2. Các phức bộ QRS được liên kết với nhau.
Tiếp theo, thuật toán sẽ xác định mối tương
quan giữa các phức bộ QRS liên kết nhằm loại
bỏ nhiễu và dao động ngoại vị cũng như để phát
hiện các phức bộ QRS chiếm ưu thế. Để thực
hiện điều này, một ma trận tương quan sẽ được
tính. Các hệ số trong ma trận tương quan cho biết
sự tương đồng về hình dạng của các phức bộ
QRS riêng lẻ để từ đó xác định được các phức bộ
QRS chiếm ưu thế. Nếu không có hệ số nào trong
ma trận tương quan nhỏ hơn 0,95 (các phức bộ
QRS có mặt trong đạo trình rất giống nhau) thì
có nghĩa là không có phức bộ QRS nào được phát
hiện dưới dạng nhiễu hoặc dao động ngoại vị.
Mặt khác, phân tích nhóm được sử dụng để phát
hiện các phức bộ QRS chiếm ưu thế. Nghiên cứu
đã sử dụng phương pháp phân tích nhóm
UPGMA kết tụ phân cấp. Số lượng các cụm
được xác định trên cơ sở cắt cây phả hệ bằng
phương pháp UPGMA trong đó khoảng cách
giữa các phức bộ QRS là lớn nhất. Nhóm có số
lượng phức bộ QRS lớn nhất được chỉ định là
nhóm có phức bộ QRS chiếm ưu thế. Kết quả thu
được sẽ được trung bình hóa để thu được một
phức bộ QRS đại diện duy nhất cho một đạo
trình. Hình 3 trình bày một phức bộ QRS trung
bình đại diện đại diện cho một chuyển đạo với
điểm bắt đầu và điểm kết thúc được phát hiện.
H.V. Manh, P.M. Thang / VNU Journal of Science: Natural Sciences and Technology, Vol. 36, No. 1 (2020) 25-35
30
Hình 3. Phức hợp QRS trung bình.
Bước tiếp theo, phức bộ QRS trung bình được
lọc bởi bộ lọc thông dải tần số 150 ÷ 250 (Hz).
Sau khi lọc, chúng ta sẽ thu được một tín hiệu có
chứa các thành phần tần số cao của phức bộ
QRS. Tín hiệu tần số cao được cắt tại thời điểm
150 ms trước và sau phức bộ QRS nhằm loại bỏ
biến dạng gây ra bởi quá trình lọc. Tín hiệu nhận
được sau bước này sẽ được sử dụng để tính
đường bao tín hiệu trong bước kế tiếp. Hình 4a
biểu diễn tín hiệu tần số cao với đường bao của
một người khỏe mạnh và Hình 4b là hình ảnh tín
hiệu tần số cao với đường bao của bệnh nhân bị
nhồi máu cơ tim.
Bước cuối cùng của thuật toán là xác định chỉ
số HFMI cho mỗi đạo trình, định lượng kích
thước của RAZ trên đường bao HFQRS. RAZ có
thể được định nghĩa là diện tích phần lõm trên
đường bao của tín hiệu HFQRS và được xác định
bởi hai cực đại địa phương. Cực đại địa phương
này phải đáp ứng được các tiêu chí sau: khoảng
cách giữa mỗi cực đại địa phương tối thiểu là 10
ms và có giá trị lớn hơn 35% giá trị đường bao
tín hiệu HFQRS cực đại. Thông thường, ở những
người khỏe mạnh chỉ tồn tại một cực đại địa
phương (Hình 4a) và ít nhất là hai điểm cực đại
địa phương đối những bệnh nhân bị nhồi máu cơ
tim (Hình 4b) cho phép xác định RAZ. Nếu phát
hiện hai cực đại địa phương thì RAZ sẽ được tính
giữa hai cực đại này. Nếu phát hiện nhiều hơn
hai cực đại địa phương thì tham số RAZ sẽ được
tính giữa hai cực đại cao nhất vì chúng cho kết
quả xấp xỉ tốt nhất hình dạng của vùng lõm.
(a)
(b)
Hình 4. Tín hiệu tần số cao và đường bao, (a) -
người khỏe mạnh, (b) - bệnh nhân nhồi máu cơ tim.
Để tính tham số RAZ, trước tiên phải biết
được đường cong phẳng xác định hình dạng của
phần lõm. Trong nghiên cứu này, chúng tôi ước
tính hình dạng của phần lõm bằng 2 đường
parabol bị giới hạn từ phía trên bởi một đường
nằm ngang. Trong đó mỗi parabol sẽ được sử
dụng để xấp xỉ hình dạng của một nửa vùng lõm.
Đối với mỗi parabol, chúng ta cần xác định tọa
độ của 3 điểm trên nó để có thể định nghĩa hình
dạng của parabol. Chúng tôi đã chọn những điểm
này là những điểm cạnh và điểm nằm ở giữa của
parabol. Các tọa độ này có thể nhận được bằng
cách giải hệ 3 phương trình sau đây:
𝑦1 = 𝑎𝑥1
2 + 𝑏𝑥1 + 𝑐
𝑦2 = 𝑎𝑥2
2 + 𝑏𝑥2 + 𝑐 (2)
𝑦3 = 𝑎𝑥3
2 + 𝑏𝑥3 + 𝑐
H.V. Manh, P.M. Thang / VNU Journal of Science: Natural Sciences and Technology, Vol. 36, No. 1 (2020) 25-35
31
Trong đó, 𝑥𝑖 và 𝑦𝑖 với i = 1, 2, 3 là tọa độ của
các điểm.
Giải hệ phương trình này sẽ thu được các hệ
số a, b và c cho phép xác định phương trình của
parabol. Parabol này được giới hạn bởi một
đường nằm ngang phía trên có phương trình
dạng tổng quát:
𝑦 = 𝑒 (3)
Trong đó, y là tọa độ của đường thẳng và e là
hằng số biểu thị phần bù dọc theo đường thẳng
từ gốc tọa độ.
Diện tích của parabol bị hạn chế ở trên được
tính theo công thức sau:
𝑆 = ∫ (𝑒 − (𝑎𝑥2 + 𝑏𝑥 + 𝑐))𝑑𝑥
𝑥𝑚𝑎𝑥
𝑥𝑚𝑖𝑛
(4)
Trong đó, e là phương trình đường thẳng,
(𝑎𝑥2 + 𝑏𝑥 + 𝑐) là công thức parabol và 𝑥𝑚𝑖𝑛,
𝑥𝑚𝑎𝑥 là tọa độ 𝑥 của các điểm cạnh parabol.
Tham số RAZ là phần diện tích được tạo
thành từ 2 parabol với đường giới hạn ở trên.
Hình 5 trình bày một tín hiệu tần số cao với
đường bao trong đó RAZ được chỉ ra.
RAZ
Hình 5. Tín hiệu tần số cao – RAZ.
Nhồi máu cơ tim được chẩn đoán dựa trên chỉ
số HFMI là tỷ lệ phần trăm giữa diện tích phần
RAZ so với diện tích bên dưới đường bao của
phức bộ HFQRS và có thể được tính bằng công
thức sau:
𝐻𝐹𝑀𝐼 =
𝑅𝐴𝑍
𝐴
. 100 [%] (5)
Trong đó, A là diện tích bên dưới đường bao
tín hiệu HFQRS. Chỉ số HFMI sẽ được tính cho
mỗi đạo trình và giá trị chỉ số HFMI cuối cùng
sẽ là giá trị trung bình của 6 đạo trình có giá trị
chỉ số HFMI lớn nhất. Chỉ số HFMI không được
đánh giá ở các chuyển đạo có mức nhiễu cao.
Các chuyển đạo với mức nhiễu cao được đánh
giá bằng cách tìm kiếm giá trị cực đại của phức
bộ HFQRS và các đỉnh trong một cửa sổ có độ
rộng 100 ms bắt đầu từ điểm 50 ms sau điểm kết
thúc của HFQRS. Nếu giá trị lớn nhất của cửa sổ
lớn hơn hoặc bằng 20% giá trị cực đại của phức
bộ HFQRS thì chuyển đạo được xem như là
nhiễu. Các bản ghi có số chuyển đạo được coi là
nhiễu lớn hơn 2/3 tổng số chuyển đạo có trong
bản ghi trở lên sẽ bị loại ra khỏi quá trình phân
tích khi mà kết quả phân tích HFQRS được coi
là không đáng tin cậy. Hình 6 trình bày một tín
hiệu có mức nhiễu cao không thể đánh giá chỉ số
HFMI. Tham số RMS cũng được tính cho mỗi
chuyển đạo. Giá trị RMS cuối cùng sẽ là giá trị
trung bình được tính từ các giá trị thành phần đối
với các chuyển đạo được coi là không nhiễu.
Hình 6. Chuyển đạo với mức nhiễu cao.
Bất kỳ chuyển đạo nào có giá trị chỉ số HFMI
lớn hơn 8% được coi là thiếu máu cục bộ. Một
bản ghi ECG được coi là thiếu máu cục bộ nếu
phát hiện ít nhất 3 chuyển đạo thiếu máu cục bộ
và đồng thời chỉ số HFMI được chẩn đoán trong
ít nhất 5 chuyển đạo, hoặc giá trị chỉ số HFMI
(được tính trung bình từ 6 chuyển đạo có chỉ số
HFMI lớn nhất) có giá trị lớn hơn 9%.
H.V. Manh, P.M. Thang / VNU Journal of Science: Natural Sciences and Technology, Vol. 36, No. 1 (2020) 25-35
32
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Các tham số đánh giá kết quả
Độ nhạy (Se) là tham số cho biết xác suất kết
quả xét nghiệm sẽ dương tính khi có bệnh (tỷ lệ
dương tính thật) và được tính theo [18].
𝑆𝑒 =
𝑇𝑃
𝑇𝑃+𝐹𝑁
(6)
Trong đó, TP là số bệnh nhân được chẩn đoán
chính xác bị nhồi máu cơ tim và FN là số bệnh
nhân bị chẩn đoán nhầm là khỏe mạnh.
Độ đặc hiệu cho biết xác suất kết quả xét
nghiệm sẽ âm tính khi không có bệnh (tỷ lệ âm
tính thật). Độ đặc hiệu (Sp) được tính theo công
thức. [18]
𝑆𝑝 =
𝑇𝑁
𝑇𝑁+𝐹𝑃
(7)
Trong đó, TN là số bệnh nhân được chẩn đoán
chính xác là khỏe mạnh và FP là số bệnh nhân
được chẩn đoán sai mắc bệnh nhồi máu cơ tim.
Giá trị tiên đoán dương tính cho biết xác xuất
một người thực sự bị bệnh khi được chẩn đoán là
dương tính và được tính theo công thức sau [18].
𝑃+ =
𝑇𝑃
𝑇𝑃+𝐹𝑃
(8)
Trong đó, TP là số bệnh nhân được chẩn đoán
chính xác bị nhồi máu cơ tim và FP là số bệnh
nhân được chẩn đoán không chính xác bị nhồi
máu cơ tim.
Giá trị tiên đoán âm tính cho biết xác suất một
người không bị bệnh khi được chẩn đoán là âm
tính và được tính theo công thức [18].
𝑃− =
𝑇𝑁
𝑇𝑁+𝐹𝑁
(9)
Trong đó, TN là số bệnh nhân được chẩn đoán
chính xác là khỏe mạnh và FN là số bệnh nhân
bị chẩn đoán nhầm là khỏe mạnh.
Ngoài ra, tham số chính xác cho biết xác suất
chung một bệnh nhân được chẩn đoán chính xác
cũng được sử dụng để đánh giá hiệu suất của
thuật toán [19].
𝐴 =
𝑇𝑃+𝑇𝑁
𝑇𝑃+𝑇𝑁+𝐹𝑃+𝐹𝑁
(10)
3.2. Đánh giá kết quả của thuật toán đề xuất
Hiệu suất của thuật toán chẩn đoán bệnh nhồi
máu cơ tim sử dụng phương pháp phân tích tín
hiệu ECG tần số cao được thử nghiệm trên 446
bản ghi tín hiệu ECG của cơ sở dữ liệu PTB [19].
Trong đó, 6 bản ghi đã bị loại do lỗi thuật toán
xác định phức bộ QRS và 9 bản ghi bị loại do
mức nhiễu cao trong tín hiệu HFQRS. Như vậy,
thuật toán đã được thử nghiệm trên 431 bản ghi
dữ liệu ECG (trong đó bao gồm 353 bản ghi ECG
của bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim và 78 bản ghi
ECG của người khỏe mạnh). Các kết quả chẩn
đoán được trình bày trong Bảng 1 và ma trận
nhầm lẫn trong Hình 7. Giá trị 0 đại diện cho
không mắc bệnh nhồi máu cơ tim (người khỏe
mạnh). Trong khi đó, giá trị 1 đại diện cho mắc
bệnh nhồi máu cơ tim. Các giá trị 0 và 1 bên trái
là kết quả chẩn đoán của thuật toán, các giá trị 0
và 1 bên dưới là giá trị thực tế. Số lượng người
chẩn đoán chính xác được biểu diễn bởi các ô
màu xanh (TN – 33, TP – 259). Các ô màu đỏ chỉ
ra số lượng người được chẩn đoán sai (FN – 94,
FP – 45). Cột bên phải ngoài cùng cho biết giá
trị tiên đoán dương tính (85.2%), âm tính
(25.98%) và độ chính xác của thuật toán
(67.75%). Hai ô giá trị còn lại tại hàng cuối biểu
diễn cho giá trị độ đặc hiệu (42.31%) và độ nhạy
(73.37%) của thuật toán đề xuất.
Bên cạnh đó, Bảng 2 cũng trình bày các giá
trị trung bình của các chỉ số HFMI và RMS ở
những bệnh nhân nhồi máu cơ tim và các đối
tượng hoàn toàn khỏe mạnh trong khi thử
nghiệm thuật toán trên cơ sở dữ liệu.
Bảng 1. Kết quả chẩn đoán nhồi máu cơ tim bằng
thuật toán HFQRS
Tham số
Thuật toán
đề xuất
Độ nhạy (%) 73.37
Độ đặc hiệu (%) 42.31
Giá trị tiên đoán dương tính (%) 85.20
Giá trị tiên đoán âm tính (%) 25.98
H.V. Manh, P.M. Thang / VNU Journal of Science: Natural Sciences and Technology, Vol. 36, No. 1 (2020) 25-35
33
Hình 7. Ma trận nhầm lẫn biểu diễn kết quả của
phương pháp đề xuất.
Bảng 2. Giá trị trung bình của chỉ số HFMI và RMS
HFMI
[%]
RMS
[µV]
Bệnh nhân bị nhồi máu
cơ tim
12.3 2.78
Người khỏe mạnh 10.64 3.1
Qua phân tích các giá trị trong Bảng 2, chúng
ta thấy rằng giá trị RMS trung bình ở người khỏe
mạnh cao hơn so với bệnh nhân nhồi máu cơ tim
và phù hợp với các giả định lý thuyết. Nhồi máu
cơ tim làm giảm tổng năng lượng được lưu trữ
trong tín hiệu HFQRS dẫn đến thông số RMS
thấp hơn. Giá trị của chỉ số HFMI ở bệnh nhân
nhồi máu cơ tim là cao hơn một chút so với
những người khỏe mạnh. Sự khác biệt nhỏ này
cho thấy sự tương đồng về hình thái của tín hiệu
HFQRS tần số cao ở các đối tượng khỏe mạnh
và bệnh nhân nhồi máu cơ tim có thể khiến cho
kết quả chẩn đoán chưa chính xác. Hình 8 trình
bày tín hiệu HFQRS với đường bao của một
bệnh nhân khỏe mạnh có hình thái giống với hình
thái của tín hiệu HFQRS của bệnh nhân nhồi
máu cơ tim. Việc sử dụng kết hợp chỉ số HFMI
và RMS để phát hiện nhồi máu cơ tim dường như
cho kết quả chính xác hơn nhiều so với RAZ.
Hình 8. Tín hiệu HFQRS cùng với đường bao của
một bệnh nhân khỏe mạnh.
Hiệu suất của thuật toán đề xuất cũng được so
sánh với kết quả được công bố trong 3 thử nhiệm
lâm sàng (Toledo [10], Conti [13], Galante [14]).
Cả 3 nghiên cứu lâm sàng đều chỉ ra được lợi ích
của việc sử dụng tín hiệu ECG tần số cao trong
quá trình chẩn đoán bệnh thiếu máu cơ tim. Hình
9 so sánh kết quả của thuật toán HFQRS được đề
xuất với kết quả phân tích HFQRS được công bố
bởi các nghiên cứu này.
Kết quả của thuật toán đề xuất có thể so sánh
với kết quả nghiên cứu lâm sàng. Chỉ có giá trị
tiên đoán âm tính là thấp do tín hiệu HFQRS của
những người khỏe mạnh có hình thái giống với
những người mắc bệnh nhồi máu cơ tim nên
thuật toán đã chẩn đoán sai. Kết quả phát hiện
thành công nhồi máu cơ tim bị ảnh hưởng bởi
quy mô của bệnh nhân tham gia xét nghiệm và
tỷ lệ giữa bệnh nhân nhồi máu cơ tim và đối
tượng khỏe mạnh trong quần thể xét nghiệm. Giá
trị tiên đoán dương tính và âm tính cho thấy các
đối tượng khỏe mạnh chiếm ưu thế trong nghiên
cứu của Conti [13]. Ngược lại, trong nghiên cứu
của Toledo [10] và của chúng tôi, ECG ghi nhận
từ bệnh nhân nhồi máu cơ tim chiếm ưu thế. Với
nghiên cứu của Galante [14], tỷ lệ bệnh nhân
nhồi máu cơ tim và các đối tượng khỏe mạnh
trong quần thể xét nghiệm là cân bằng.
H.V. Manh, P.M. Thang / VNU Journal of Science: Natural Sciences and Technology, Vol. 36, No. 1 (2020) 25-35
34
Hình 9. So sánh kết quả thu được từ phân tích HFQRS với một số kết quả nghiên cứu lâm sàng.
4. Kết luận
Bài báo đã đề xuất một phương pháp chẩn
đoán bệnh nhồi máu cơ tim sử dụng tín hiệu ECG
tần số cao dựa trên chỉ số HFMI để định lượng
giá trị RAZ trên đường bao của tín hiệu HFQRS.
Hiệu suất đạt được của thuật toán đề xuất được
thử nghiệm trên 333 bản ghi ECG từ các bệnh
nhân được chẩn đoán mắc bệnh nhồi máu cơ tim
và 78 bản ghi ECG từ các đối tượng khỏe mạnh
trong cơ sở dữ liệu PTB. Kết quả cho thấy nhồi
máu cơ tim dẫn tới những thay đổi trong tín hiệu
từ ECG tần số cao.
Tài liệu tham khảo
[1] S. Abboud, S. Zlochiver, High-frequency QRS
electrocardiogram for diagnosing and monitoring
ischemic heart disease, Journal of Electrocardiology
39 (2006) 82-86. https://doi.org/10.1016/j.jelectro
card.2005.09.007.
[2] J.A. Lipton, S.G. Warren, M. Broce, S. Abboud, A.
Beker, L. Sörnmo, D.R. Lilly, C. Maynard, B.D.
Lucas Jr., G.S. Wagner, High-frequency QRS
electrocardiogram analysis during exercise stress
testing for detecting ischemia, International
Journal of Cardiology 124 (2008) 198-203. https://
doi.org/10.1016/j.ijcard.2007.02.002.
[3] T.T. Schlegel, W.B. Kulecz, J.L. DePalma, A.H.
Feiveson, J.S. Wilson, M.A. Rahman, M.W.
Bungo, Real-Time 12-Lead High-Frequency QRS
Electrocardiography for Enhanced Detection of
Myocardial Ischemia and Coronary Artery
Disease, Mayo Clinic Proceedings 79 (2004) 339-
350. https://doi.org/10.4065/79.3.339.
[4] B.H. Langner, Further Studies in High Fidelity
Electrocardiography: Myocardial Infarction,
Circulation VIII (1953) 905-913. https://doi.org/
10.1161/01.CIR.8.6.905.
[5] M. Ringborn, J. Pettersson, E. Persson, S.G.
Warren, P. Platonov, O. Pahlm, G.S. Wagner,
Comparison of high-frequency QRS components
and ST-segment elevation to detect and quantify
acute myocardial ischemia, Journal of
Electrocardiology 43 (2010) 113-120. https://doi.
org/10.1016/j.jelectrocard.2009.11.009.
[6] D. Rosenmann, Y. Mogilevski, G. Amit, L.R.
Davrath, D. Tzivoni, High-frequency QRS
analysis improves the specificity of exercise ECG
testing in women referred for angiography, Journal
of Electrocardiology 46 (2013) 19-26. https://doi.
org/10.1016/j.jelectrocard.2012.08.007.
[7] S. Abboud, Subtle alterations in the high-
frequency QRS potentials during myocardial
ischemia in dogs, Computers and Biomedical
Research 20 (1987) 384-395. https://doi.org/10.
1016/j.jelectrocard.2012.08.007.
73,37
42,31
85,2
25,98
79
71
94
39
63
68
11
97
67,3 69,5
63,6
72,8
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Se Sp P+ P-
H
iệ
u
s
u
ất
[
%
]
Tham số so sánh
Thuật toán đề xuất
Eran Toledo [10]
Alberto Conti [13]
Ori Galante [14]
H.V. Manh, P.M. Thang / VNU Journal of Science: Natural Sciences and Technology, Vol. 36, No. 1 (2020) 25-35
35
[8] A.L. Goldberger, V. Bhargava, V. Froelicher, J.
Covell, Effect of myocardial infarction on high-
frequency QRS potentials, Journal
Electrocardiology 13 (1980) 367-372. https://doi.
org/10.1161/01.CIR.64.1.34.
[9] J. Pettersson, O. Pahlm, E. Carro, L. Edenbrandt,
M. Ringborn, L. Sörnmo, S.G. Warren, G.S.
Wagner, Changes in high-frequency QRS
components are more sensitive than ST-segment
deviation for detecting acute coronary artery
occlusion, Journal of the American College of
Cardiology 36 (2000) 1827-1834. https://doi.org/
10.1016/S0735-1097(00)00936-0.
[10] E. Toledo, J.A. Lipton, S.G. Warren, S. Abboud,
M. Broce, D.R. Lilly, C. Maynard, B.D. Lucas Jr.,
G.S. Wagner, Detection of stress-induced
myocardial ischemia from the depolarization
phase of the cardiac cycle-a preliminary study,
Journal of Electrocardiology 42 (2009) 240-247.
https://doi.org/10.1016/j.jelectrocard.2008.12.023.
[11] G. Amit, O. Galante, L.R. Davrath, O. Luria, S.
Abboud, D. Zahger, High-frequency QRS analysis
in patients with acute myocardial infarction: A
preliminary study, Annals of Noninvasive
Electrocardiology 18 (2013) 149-156. https://doi.
org/10.1111/anec.12023.
[12] E. Trägårdh, O. Pahlm, G.S. Wagner, J. Pettersson,
Reduced high-frequency QRS components in
patients with ischemic heart disease compared to
normal subjects, Journal of Electrocardiology 37
(2004) 157-162. https://doi.org/10.1016/j.jelectro
card.2004.02.004.
[13] A. Conti, A. Alesi, G. Aspesi, N.D. Bernardis, S.
Bianchi, A. Coppa, C. Donnini, C. Grifoni, A.
Becucci, C. Casula, High-frequency QRS analysis
compared to conventional ST-segment analysis in
patients with chest pain and normal ECG referred
for exercise tolerance test, Cardiology Journal 22
(2015) 141-149. https://doi.org/10.1016/j.ajem.2015.
11.044.
[14] O. Galante, G. Amit, Y. Granot, L.R. Davrath, S.
Abboud, D. Zahger, High-frequency QRS analysis
in the evaluation of chest pain in the emergency
department, Journal of Electrocardiology 50 (2017)
457-465. https://doi.org/10.1016/j.jelectrocard.
2017. 02.009.
[15] D. Rosenmann, Y. Mogilevski, G. Amit, L.R.
Davrath, D. Tzivoni, High-frequency QRS
analysis improves the specificity of exercise ECG
testing in women referred for angiography, Journal
of Electrocardiology 46 (2013) 19-26. https://doi.
org/10.1016/j.jelectrocard.2012.08.007.
[16] G. Amit, Y. Granot, S. Abboud, Quantifying QRS
changes during myocardial ischemia: Insights
from high frequency electrocardiography, Journal
of Electrocardiology 47 (2014) 505-511. https://
doi.org/10.1016/j.jelectrocard.2014.03.006.
[17] T. Sharir, K. Merzon, I. Kruchin, A, Bojko, E.
Toledo, A. Asman, P. Chouraqui, Use of
electrocardiographic depolarization abnormalities
for detection of stress-induced ischemia as defined
by myocardial perfusion imaging, American
Journal of Cardiology 109 (2012) 642-650. https://
doi.org/10.1016/j.amjcard.2011.10.022.
[18] https://www.medcalc.org/calc/diagnostic_test.ph,
(accessed 13 October 2019).
[19] https://physionet.org/content/ptbdb/1.0.0/
(accessed 10 September 2019).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
tu_dong_chan_doan_nhoi_mau_co_tim_dua_tren_phan_tich_qrs_tan.pdf