Là những cư dân lâu đời ở Đồng bằng sông
Cửu Long, người Khmer Nam Bộ trong suốt hành
trình lịch sử của mình đã không ngừng dung nạp
các yếu tố văn hóa từ Ấn Độ, người Kinh, người
Hoa để hình thành một nét văn hóa rất riêng thậm
chí khác biệt với những nét văn hóa ở Campuchia
mà nghệ thuật Dù kê là một minh chứng.
Dù kê ra đời từ nhu cầu thiết thực của người
bình dân. Họ muốn truyền tải tình cảm, tâm sự,
ước mơ của mình vào các vở diễn. Nhiều yếu tố từ
sân khấu, diễn xướng, nhạc cụ, đến diễn viên, 
đều mang đậm sắc thái dân gian.
Cũng từ thực tế sinh động, phong phú và đa
dạng đó nên việc bảo tồn gìn giữ và phát triển loại
hình nghệ thuật thuật đặc sắc này hiện cũng gặp
không ít trở ngại. Cần lắm những công trình lí luận
nghiên cứu chuyên sâu hoàn chỉnh về Dù kê, song
song với đó là những chính sách hợp lí để truyền
dạy, gìn giữ giá trị văn hóa nghệ thuật đặc sắc này
của đồng bào dân tộc Khmer
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
3 trang | 
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 906 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Từ múa rô băm đến diễn xướng dù kê của người khmer Tây Nam Bộ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014182 Soá 13, thaùng 3/2014 183
TỪ MÚA RÔ BĂM ĐẾN DIỄN XƯỚNG DÙ KÊ 
CỦA NGƯỜI KHMER TÂY NAM BỘ
Thạch Ba Xuyên1
Tóm tắt
Người Khmer là dân tộc thiểu số duy nhất ở Việt Nam có loại hình diễn xướng sân khấu độc đáo, đó 
là nghệ thuật Dù kê. Trên sân khấu Dù kê, những diễn viên dù chuyên nghiệp hay không chuyên cũng đã 
kế thừa từ giá trị văn hóa truyền thống. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi bước đầu tìm hiểu ảnh 
hưởng của nghệ thuật Rô băm đến sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ.
Từ khóa: nghệ thuật diễn xướng, Dù kê, Rô băm, Tây Nam Bộ, Khmer
Abstract
The Khmer is the unique ethnic group in Vietnam which owns the original stage performance. That 
is Du ke art. On the stage the actors, either professional or unprofessional, heritage the traditional 
cutural value. In this report, we find out the influence of Ro bam art to the Southern Khmer Du ke art.
Key words: performing arts, Du ke, Ro bam, Southwest of Viet Nam, Khmer
1 Trường THPT Mai Thanh Thế - Sóc Trăng
1. Mở đầu
Diễn xướng Dù kê là loại hình nghệ thuật đặc 
trưng của người Khmer Tây Nam Bộ. Song, việc 
tìm hiểu tường tận loại hình này đến nay vẫn còn 
nhiều vấn đề cần quan tâm. Loại hình nghệ thuật 
cổ điển trong diễn xướng của người Khmer là Rô 
băm. Việc ảnh hưởng từ nghệ thuật Rô băm hay 
cách hát A day trong dân gian Khmer có tác động 
như thế nào đến Dù kê. Điều đó, chưa được các nhà 
nghiên cứu đi sâu lý giải. Trong bài viết này, chúng 
tôi bước đầu tìm hiểu vấn đề vừa đặt ra nêu trên. 
2. Nội dung
2.1. Diễn xướng là thuật ngữ được dùng khá quen 
thuộc trong nghiên cứu văn học nghệ thuật, đặc 
biệt là trong nghiên cứu văn học, văn hoá dân gian. 
Song, trong quá trình nhận diện, nhiều vấn đề liên 
quan đến thuật ngữ này còn chưa thật sự thống nhất.
Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) định 
nghĩa diễn xướng một cách ngắn gọn là: trình 
bày các sáng tác dân gian bằng lời lẽ, âm thanh, 
nhịp điệu. 
Nhà nghiên cứu Chu Xuân Diên thấy cần phải: 
Điều chỉnh đối với quan niệm quen thuộc về tính 
truyền miệng và tính diễn xướng của văn học dân 
gian nói riêng, đồng thời cần phải tìm những điều 
kiện mới của sự lưu truyền và sự tiếp nhận các sản 
phẩm văn học dân gian (Folklore) nói chung... Khi 
ghi chép tác phẩm văn học dân gian cần có những 
ghi chú về hình thức diễn xướng của nó.
Tác giả Tô Ngọc Thanh trong bài viết Trình diễn 
dân gian Việt Nam đặt vấn đề sử dụng thuật ngữ 
trình diễn thay cho thuật ngữ diễn xướng bởi theo 
ông “Thuật ngữ diễn xướng” dễ dẫn đến liên tưởng 
về các loại hình nghệ thuật như âm nhạc, múa, sân 
khấu, trong đó bao gồm các yếu tố diễn xuất và ca 
xướng, tức là các nghệ thuật biểu diễn (Performing 
arts) (...). Để có một hàm nghĩa rộng hơn, thuật ngữ 
trình diễn (Presentation) tỏ ra thích hợp, theo đó, 
diễn xướng là một dạng của trình diễn.
Những năm gần đây, khái niệm diễn xướng 
dân gian vẫn được sử dụng để chỉ sự “hiện thực 
hoá” các tác phẩm văn học dân gian nói riêng, 
các sinh hoạt văn hoá dân gian nói chung. Điểm 
cần lưu ý là, các nhà nghiên cứu đã quan tâm đến 
nội hàm khái niệm diễn xướng; đã ít nhiều nhận 
ra sự khác biệt giữa diễn xướng truyền thống và 
diễn xướng hiện đại; đã lưu tâm đến việc ghi chép, 
miêu tả diễn xướng bằng nhiều hình thức khác 
nhau để lưu giữ. 
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi quan 
niệm rằng: Nghệ thuật Dù kê hay kịch hát Dù kê 
được hình thành và phát triển dựa trên nền tảng 
của múa Rô băm và hát A day.
2.2. Người Khmer là dân tộc duy nhất trong số 
các dân tộc thiểu số ở Việt Nam có nghệ thuật sân 
khấu riêng. Trước khi đạt đến một nền sân khấu 
Dù kê hoàn chỉnh, người Khmer Nam Bộ đã có 
những loại hình nghệ thuật diễn xướng sơ khai như 
hát đối đáp A day, và đỉnh cao của hình thức diễn 
xướng cổ nhất mà người Khmer Đồng bằng sông 
Cửu Long còn bảo lưu được là Rô băm. Chúng tôi 
xin điểm qua vài nét hai loại hình một mang tính 
dân gian, một mang tính chất cung đình này. 
Hát A day: là loại hò hát đối đáp do một trai gái 
thách đố nhau bằng lời thơ, có nhạc đệm. Người 
trả lời phải dùng thơ đúng số chữ của người hỏi 
và vần phải đúng khi bắt vào chữ cuối cùng. Mỗi 
người hát bốn hoặc tám câu. Lối diễn xướng này 
giống như lối hò đối đáp của người Kinh. Người 
Khmer bình dân rất thích lối hát A day trong các 
buổi sinh hoạt vui chơi tại các phum sróc hay tại 
sân chùa,
Rô băm còn có tên gọi là hát rằm hay hát Ream 
kê, nhưng tên gọi quen thuộc nhất là Rô băm (múa hát 
Rô băm). Có thể liên tưởng Rô băm của người Khmer 
với nghệ thuật hát Tiều của người Hoa, hát Bội của 
người Kinh. Nhiều người gọi sân khấu Rô băm là sân 
khấu kịch múa, bởi loại vũ kịch mặt nạ này sử dụng 
múa như một ngôn ngữ chính yếu, hát chỉ là phần phụ. 
Các điệu múa trong Rô băm vừa sinh động vừa mềm 
mại. Các điệu múa cơ bản của Rô băm là Rom yeak 
(múa Chằn), Apsara (múa Tiên), Txu txai (điệu kết 
hợp của 12 động tác múa), múa khỉ Hanuman, Diễn 
viên múa trên nền tiếng hát ở hậu trường, múa trên 
nền nhạc không lời. Lúc đối thoại thì không có nhạc 
và cũng không có múa. Riêng vai Hề thì không có múa 
và cũng không có hát, hề chỉ pha trò theo khẩu ngữ 
hoặc ứng diễn.
Rô băm có hai tuyến nhân vật: chính diện và 
phản diện. Phái chính diện thường là vua, hoàng 
hậu, công chúa và các nhân vật tài giỏi văn, võ, 
các loại vật như khỉ, voi, Phái ác tập trung ở 
nhân vật Chằn. Chằn nữ không mang mặt nạ. 
Chằn nam mang mặt nạ miệng rộng, nhe nanh, 
mắt trợn. Chằn thường hò hét, các điệu múa của 
chằn như Patchơnlơnxách (chân khuỳnh), Mục 
caxách (đi ngang, ngông nghênh), chiêng-rụn 
(đi xéo), trơtômpong (múa gậy), chayvơaysét 
(phản ngựa),
2.3. Người Khmer ở Campuchia gọi loại hình diễn 
xướng Dù kê của người Khmer miền Tây Nam Bộ 
là Loukhon Bassăk – tức là kịch múa của vùng Hậu 
Giang. Loukhon trong ngôn ngữ Khmer bắt nguồn 
từ chữ lakhou của người Java có nghĩa là bước đi, là 
chậm rãi, là giản dị. Cả ba nét nghĩa này đều đúng 
cho một loại hình nghệ thuật biết dung hòa này. 
Dù kê đã ra đời như một sự kế thừa và phân 
tích nghệ thuật Rô băm bằng cách thu thập các yếu 
tố nghệ thuật Việt, Hoa. Tên gọi “dù” trong tiếng 
Khmer có nghĩa là gom góp, vớt vát, sửa đổi; còn 
“kê” là kế thừa, là sợi dây nối dài. Tóm lại, Dù 
kê giống như loại hình nghệ thuật Cải lương của 
người Kinh. 
Do phát xuất từ cung đình với những với 
quy trình chặt chẽ và ổn định, kịch bản của các 
vở diễn Rô băm đều lấy trong chuyện xưa tích 
cũ. Khảo sát thực tế, chúng tôi nhận thấy các vở 
diễn của đoàn Rô băm ở ấp Bưng Chông, xã Tài 
Văn, huyện Trần Đề (Sóc Trăng) thường biểu diễn 
các kịch bản về trường ca Ream kê, Sângsalachi, 
Preleakchinavong, Tứp sangva... được biên soạn 
sẵn trong lá buông (satra slâc rith). Điều đó vô tình 
đã làm cho Rô băm không thể chuyển tải các đề tài 
đương đại và mất dần sức hấp dẫn. Dù kê ra đời 
nhiều vở diễn ca ngợi đạo lý nhưng đậm chất trữ 
tình biểu hiện qua những cung bậc cảm xúc của 
tình yêu đôi lứa trong sáng, cao đẹp. 
Các đoàn Dù kê thường thể hiện các kịch bản 
dân gian như Chao Sanh - Chao Thung (cùng 
motif với Thạch Sanh - Lý Thông của người Kinh), 
Chao Sro Tôp Chêc (cùng motif với Trần Minh 
khố chuối), Neang Kòntuốc, Neang Chôngângkam 
(cùng motif với Tấm Cám), Neang Sê Đa, 
Ratanavông, ... 
Về lối biểu diễn của sân khấu Rô băm bắt buộc 
phải theo một nguyên tắc nhất định như hình thể 
uốn cong, vừa múa vừa hát và các nhân vật phụ 
như Chằn (yeak), các con thú như chim đại bàng, 
ngựa, khỉ, rồng... phải đeo mặt nạ. Trước khi diễn 
vở tuồng, các đoàn Rô băm phải khai diễn thường 
là điệu hum rôn (gồm 4 nam, 4 nữ) và múa tính 
cách chằn (yeak rom gồm một hoặc nhiều chằn 
tùy vào vở tuồng)... Đây được xem là màn múa bắt 
buộc để cổ vũ tinh thần cho diễn viên, đồng thời 
thu hút khán giả bằng những động tác múa uyển 
chuyển, dịu dàng của các diễn viên với trang phục 
sặc sỡ đẹp như nàng tiên giáng trần. 
Và không quá khi nói rằng từ múa Rô băm 
hành trình của những đường cong là một trong 
những nhan sắc uyển chuyển sinh động cho nghệ 
thuật biểu diễn Dù kê. 
Với khoảng một triệu ba trăm ngàn người, dân 
tộc Khmer đông thứ hai sau người Kinh ở Đồng 
bằng sông Cửu Long. Người Khmer sống xen kẽ 
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014182 Soá 13, thaùng 3/2014 183
TỪ MÚA RÔ BĂM ĐẾN DIỄN XƯỚNG DÙ KÊ 
CỦA NGƯỜI KHMER TÂY NAM BỘ
Thạch Ba Xuyên1
Tóm tắt
Người Khmer là dân tộc thiểu số duy nhất ở Việt Nam có loại hình diễn xướng sân khấu độc đáo, đó 
là nghệ thuật Dù kê. Trên sân khấu Dù kê, những diễn viên dù chuyên nghiệp hay không chuyên cũng đã 
kế thừa từ giá trị văn hóa truyền thống. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi bước đầu tìm hiểu ảnh 
hưởng của nghệ thuật Rô băm đến sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ.
Từ khóa: nghệ thuật diễn xướng, Dù kê, Rô băm, Tây Nam Bộ, Khmer
Abstract
The Khmer is the unique ethnic group in Vietnam which owns the original stage performance. That 
is Du ke art. On the stage the actors, either professional or unprofessional, heritage the traditional 
cutural value. In this report, we find out the influence of Ro bam art to the Southern Khmer Du ke art.
Key words: performing arts, Du ke, Ro bam, Southwest of Viet Nam, Khmer
1 Trường THPT Mai Thanh Thế - Sóc Trăng
1. Mở đầu
Diễn xướng Dù kê là loại hình nghệ thuật đặc 
trưng của người Khmer Tây Nam Bộ. Song, việc 
tìm hiểu tường tận loại hình này đến nay vẫn còn 
nhiều vấn đề cần quan tâm. Loại hình nghệ thuật 
cổ điển trong diễn xướng của người Khmer là Rô 
băm. Việc ảnh hưởng từ nghệ thuật Rô băm hay 
cách hát A day trong dân gian Khmer có tác động 
như thế nào đến Dù kê. Điều đó, chưa được các nhà 
nghiên cứu đi sâu lý giải. Trong bài viết này, chúng 
tôi bước đầu tìm hiểu vấn đề vừa đặt ra nêu trên. 
2. Nội dung
2.1. Diễn xướng là thuật ngữ được dùng khá quen 
thuộc trong nghiên cứu văn học nghệ thuật, đặc 
biệt là trong nghiên cứu văn học, văn hoá dân gian. 
Song, trong quá trình nhận diện, nhiều vấn đề liên 
quan đến thuật ngữ này còn chưa thật sự thống nhất.
Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) định 
nghĩa diễn xướng một cách ngắn gọn là: trình 
bày các sáng tác dân gian bằng lời lẽ, âm thanh, 
nhịp điệu. 
Nhà nghiên cứu Chu Xuân Diên thấy cần phải: 
Điều chỉnh đối với quan niệm quen thuộc về tính 
truyền miệng và tính diễn xướng của văn học dân 
gian nói riêng, đồng thời cần phải tìm những điều 
kiện mới của sự lưu truyền và sự tiếp nhận các sản 
phẩm văn học dân gian (Folklore) nói chung... Khi 
ghi chép tác phẩm văn học dân gian cần có những 
ghi chú về hình thức diễn xướng của nó.
Tác giả Tô Ngọc Thanh trong bài viết Trình diễn 
dân gian Việt Nam đặt vấn đề sử dụng thuật ngữ 
trình diễn thay cho thuật ngữ diễn xướng bởi theo 
ông “Thuật ngữ diễn xướng” dễ dẫn đến liên tưởng 
về các loại hình nghệ thuật như âm nhạc, múa, sân 
khấu, trong đó bao gồm các yếu tố diễn xuất và ca 
xướng, tức là các nghệ thuật biểu diễn (Performing 
arts) (...). Để có một hàm nghĩa rộng hơn, thuật ngữ 
trình diễn (Presentation) tỏ ra thích hợp, theo đó, 
diễn xướng là một dạng của trình diễn.
Những năm gần đây, khái niệm diễn xướng 
dân gian vẫn được sử dụng để chỉ sự “hiện thực 
hoá” các tác phẩm văn học dân gian nói riêng, 
các sinh hoạt văn hoá dân gian nói chung. Điểm 
cần lưu ý là, các nhà nghiên cứu đã quan tâm đến 
nội hàm khái niệm diễn xướng; đã ít nhiều nhận 
ra sự khác biệt giữa diễn xướng truyền thống và 
diễn xướng hiện đại; đã lưu tâm đến việc ghi chép, 
miêu tả diễn xướng bằng nhiều hình thức khác 
nhau để lưu giữ. 
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi quan 
niệm rằng: Nghệ thuật Dù kê hay kịch hát Dù kê 
được hình thành và phát triển dựa trên nền tảng 
của múa Rô băm và hát A day.
2.2. Người Khmer là dân tộc duy nhất trong số 
các dân tộc thiểu số ở Việt Nam có nghệ thuật sân 
khấu riêng. Trước khi đạt đến một nền sân khấu 
Dù kê hoàn chỉnh, người Khmer Nam Bộ đã có 
những loại hình nghệ thuật diễn xướng sơ khai như 
hát đối đáp A day, và đỉnh cao của hình thức diễn 
xướng cổ nhất mà người Khmer Đồng bằng sông 
Cửu Long còn bảo lưu được là Rô băm. Chúng tôi 
xin điểm qua vài nét hai loại hình một mang tính 
dân gian, một mang tính chất cung đình này. 
Hát A day: là loại hò hát đối đáp do một trai gái 
thách đố nhau bằng lời thơ, có nhạc đệm. Người 
trả lời phải dùng thơ đúng số chữ của người hỏi 
và vần phải đúng khi bắt vào chữ cuối cùng. Mỗi 
người hát bốn hoặc tám câu. Lối diễn xướng này 
giống như lối hò đối đáp của người Kinh. Người 
Khmer bình dân rất thích lối hát A day trong các 
buổi sinh hoạt vui chơi tại các phum sróc hay tại 
sân chùa,
Rô băm còn có tên gọi là hát rằm hay hát Ream 
kê, nhưng tên gọi quen thuộc nhất là Rô băm (múa hát 
Rô băm). Có thể liên tưởng Rô băm của người Khmer 
với nghệ thuật hát Tiều của người Hoa, hát Bội của 
người Kinh. Nhiều người gọi sân khấu Rô băm là sân 
khấu kịch múa, bởi loại vũ kịch mặt nạ này sử dụng 
múa như một ngôn ngữ chính yếu, hát chỉ là phần phụ. 
Các điệu múa trong Rô băm vừa sinh động vừa mềm 
mại. Các điệu múa cơ bản của Rô băm là Rom yeak 
(múa Chằn), Apsara (múa Tiên), Txu txai (điệu kết 
hợp của 12 động tác múa), múa khỉ Hanuman, Diễn 
viên múa trên nền tiếng hát ở hậu trường, múa trên 
nền nhạc không lời. Lúc đối thoại thì không có nhạc 
và cũng không có múa. Riêng vai Hề thì không có múa 
và cũng không có hát, hề chỉ pha trò theo khẩu ngữ 
hoặc ứng diễn.
Rô băm có hai tuyến nhân vật: chính diện và 
phản diện. Phái chính diện thường là vua, hoàng 
hậu, công chúa và các nhân vật tài giỏi văn, võ, 
các loại vật như khỉ, voi, Phái ác tập trung ở 
nhân vật Chằn. Chằn nữ không mang mặt nạ. 
Chằn nam mang mặt nạ miệng rộng, nhe nanh, 
mắt trợn. Chằn thường hò hét, các điệu múa của 
chằn như Patchơnlơnxách (chân khuỳnh), Mục 
caxách (đi ngang, ngông nghênh), chiêng-rụn 
(đi xéo), trơtômpong (múa gậy), chayvơaysét 
(phản ngựa),
2.3. Người Khmer ở Campuchia gọi loại hình diễn 
xướng Dù kê của người Khmer miền Tây Nam Bộ 
là Loukhon Bassăk – tức là kịch múa của vùng Hậu 
Giang. Loukhon trong ngôn ngữ Khmer bắt nguồn 
từ chữ lakhou của người Java có nghĩa là bước đi, là 
chậm rãi, là giản dị. Cả ba nét nghĩa này đều đúng 
cho một loại hình nghệ thuật biết dung hòa này. 
Dù kê đã ra đời như một sự kế thừa và phân 
tích nghệ thuật Rô băm bằng cách thu thập các yếu 
tố nghệ thuật Việt, Hoa. Tên gọi “dù” trong tiếng 
Khmer có nghĩa là gom góp, vớt vát, sửa đổi; còn 
“kê” là kế thừa, là sợi dây nối dài. Tóm lại, Dù 
kê giống như loại hình nghệ thuật Cải lương của 
người Kinh. 
Do phát xuất từ cung đình với những với 
quy trình chặt chẽ và ổn định, kịch bản của các 
vở diễn Rô băm đều lấy trong chuyện xưa tích 
cũ. Khảo sát thực tế, chúng tôi nhận thấy các vở 
diễn của đoàn Rô băm ở ấp Bưng Chông, xã Tài 
Văn, huyện Trần Đề (Sóc Trăng) thường biểu diễn 
các kịch bản về trường ca Ream kê, Sângsalachi, 
Preleakchinavong, Tứp sangva... được biên soạn 
sẵn trong lá buông (satra slâc rith). Điều đó vô tình 
đã làm cho Rô băm không thể chuyển tải các đề tài 
đương đại và mất dần sức hấp dẫn. Dù kê ra đời 
nhiều vở diễn ca ngợi đạo lý nhưng đậm chất trữ 
tình biểu hiện qua những cung bậc cảm xúc của 
tình yêu đôi lứa trong sáng, cao đẹp. 
Các đoàn Dù kê thường thể hiện các kịch bản 
dân gian như Chao Sanh - Chao Thung (cùng 
motif với Thạch Sanh - Lý Thông của người Kinh), 
Chao Sro Tôp Chêc (cùng motif với Trần Minh 
khố chuối), Neang Kòntuốc, Neang Chôngângkam 
(cùng motif với Tấm Cám), Neang Sê Đa, 
Ratanavông, ... 
Về lối biểu diễn của sân khấu Rô băm bắt buộc 
phải theo một nguyên tắc nhất định như hình thể 
uốn cong, vừa múa vừa hát và các nhân vật phụ 
như Chằn (yeak), các con thú như chim đại bàng, 
ngựa, khỉ, rồng... phải đeo mặt nạ. Trước khi diễn 
vở tuồng, các đoàn Rô băm phải khai diễn thường 
là điệu hum rôn (gồm 4 nam, 4 nữ) và múa tính 
cách chằn (yeak rom gồm một hoặc nhiều chằn 
tùy vào vở tuồng)... Đây được xem là màn múa bắt 
buộc để cổ vũ tinh thần cho diễn viên, đồng thời 
thu hút khán giả bằng những động tác múa uyển 
chuyển, dịu dàng của các diễn viên với trang phục 
sặc sỡ đẹp như nàng tiên giáng trần. 
Và không quá khi nói rằng từ múa Rô băm 
hành trình của những đường cong là một trong 
những nhan sắc uyển chuyển sinh động cho nghệ 
thuật biểu diễn Dù kê. 
Với khoảng một triệu ba trăm ngàn người, dân 
tộc Khmer đông thứ hai sau người Kinh ở Đồng 
bằng sông Cửu Long. Người Khmer sống xen kẽ 
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014184 Soá 13, thaùng 3/2014 185
với các tộc người khác và cũng trống lúa nước, 
nhưng với hình thức sống tập trung trong phum 
sróc, người Khmer vẫn bảo lưu được bản sắc văn 
hóa vốn có. Mỗi phum sróc của người Khmer 
không thể thiếu ngôi chùa, nơi thờ Phật, gửi cốt tổ 
tiên mà còn là nơi bảo tổn thư tích cổ, là trung tâm 
văn hóa giáo dục. Trong một môi trường văn hóa 
được bảo tồn chặt chẽ như vậy, người Khmer có 
điều kiện phát huy loại hình nghệ thuật đại chúng 
như Dù kê. Các quy chuẩn nghệ thuật sẵn có với 
những motif ổn định cho phép việc thiết kế sân 
khấu, đạo cụ bằng bàn tay nghiệp dư. 
Nếu Rô băm đòi hỏi diễn viên múa chuyên 
nghiệp, tổ chức sân khấu quy phạm và phức tạp thì 
với bản chất không chuyên cho phép nghệ thuật Dù 
kê sống trong đời sống người Khmer Tây Nam Bộ. 
Biểu hiện sinh động nhất là nguồn diễn viên có thể 
được huy động từ một phum sróc nào đó. Và thế 
là trong vài đêm có cô thôn nữ chăm trồng hành, 
trồng cải đã sống đời hoàng hậu giữa cung đình. Còn 
người nông dân giỏi cày cấy đã thành hoàng tử nhiều 
quyền phép sẵn sàng vượt hiểm nguy để đón nhận sự 
trầm trồ thán phục từ khán giả. 
Lễ hội đóng một vai trò quan trọng trong đời 
sống người Khmer. Mỗi năm, người Khmer tổ 
chức khoảng 22 lễ hội Phật giáo và tín ngưỡng dân 
gian chưa kể số lễ tết theo phong tục tập quán cổ 
truyền. Các lễ hội dân gian trước là để làm phước 
như cách gọi Bean của người Khmer, sau là cơ hội 
để thỏa sức múa hát và bao giờ cũng phải có A day, 
Rô băm, Dù kê. 
Ngoài những lễ hội cố định hành năm như 
Phật Đản, nhập hạ, xuất hạ, dâng y, đắp núi cát, 
đặt cơm vắt, Cũng có những lễ hội vài năm mới 
tổ chức một lần như Bean Chol Sama. Hệ thống lễ 
hội dày đặc đã lưu giữ vững chắc bản sắc văn hóa 
Khmer. Vì lời nhắc nhở ngàn đời luôn được gửi 
trong những âm sắc rực rỡ, trong những nghi thức 
cổ truyền trang trọng và trong những vở Dù kê mà 
quá khứ dân tộc luôn ẩn hiện sau những tuồng tích 
ngợi ca nhân nghĩa và niềm tin vào cái thiện 
Là một dân tộc sùng bái đạo Phật, người 
Khmer đưa luật nhân quả vào hầu hết các vở diễn. 
Như vở Hoàng tử Linh Thum, nhân vật có nhiều 
loại người, loại thú, nhiều tình tiết đan xen nhưng 
vẫn lấy tư tưởng Phật giáo làm chủ đạo để cuối 
cùng dù khó khăn trắc trở đến mấy thì thiện vẫn 
thắng ác đúng như sự chờ đợi của người xem.
3. Kết luận
Là những cư dân lâu đời ở Đồng bằng sông 
Cửu Long, người Khmer Nam Bộ trong suốt hành 
trình lịch sử của mình đã không ngừng dung nạp 
các yếu tố văn hóa từ Ấn Độ, người Kinh, người 
Hoa để hình thành một nét văn hóa rất riêng thậm 
chí khác biệt với những nét văn hóa ở Campuchia 
mà nghệ thuật Dù kê là một minh chứng. 
Dù kê ra đời từ nhu cầu thiết thực của người 
bình dân. Họ muốn truyền tải tình cảm, tâm sự, 
ước mơ của mình vào các vở diễn. Nhiều yếu tố từ 
sân khấu, diễn xướng, nhạc cụ, đến diễn viên, 
đều mang đậm sắc thái dân gian.
Cũng từ thực tế sinh động, phong phú và đa 
dạng đó nên việc bảo tồn gìn giữ và phát triển loại 
hình nghệ thuật thuật đặc sắc này hiện cũng gặp 
không ít trở ngại. Cần lắm những công trình lí luận 
nghiên cứu chuyên sâu hoàn chỉnh về Dù kê, song 
song với đó là những chính sách hợp lí để truyền 
dạy, gìn giữ giá trị văn hóa nghệ thuật đặc sắc này 
của đồng bào dân tộc Khmer.
Tài liệu tham khảo
Chu Xuân Diên. 2002. Văn hóa dân gian và những biến đổi văn hóa – xã hội hiện nay in trong Văn hóa 
dân gian và sự phát triển văn hóa đô thị. NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội.
Hoàng Phê. 1994. Từ điển Tiếng Việt. NXB Giáo dục. Hà Nội. 
Nhiều tác giả. 1977. Kỷ yếu Hội nghị khoa học chuyên đề: Mối quan hệ giữa diễn xướng dân gian và 
nghệ thuật sân khấu. Viện Nghệ thuật - Bộ Văn hóa. Hà Nội.
Nguyễn Hằng Phương. 2010. Diễn xướng ca dao theo dòng thời gian. Tạp chí Nghiên cứu văn học. số 6.
Tô Ngọc Thanh. 2007. Trình diễn sân khấu dân gian Việt Nam in trong Ghi chép về văn hóa và âm nhạc. 
NXB. Khoa học xã hội. Hà Nội.
Trần Minh Thương. 2012. Nghệ thuật hát Dù kê của người Khmer Sóc Trăng, Văn hóa Phật giáo. ngày 
15 tháng 6 năm 2012.
Trần Minh Thương. 2013. Văn hóa dân gian phi vật thể của người Khmer Sóc Trăng. Công trình đạt giải 
Ba của Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam.
NGHỆ THUẬT DÙ KÊ
VÀ SỰ GIAO THOA VỚI CÁC LOẠI HÌNH SÂN KHẤU 
CỦA CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
 Tài Lê Khanh 1
Tóm tắt
Bài viết giới thiệu khái quát những điểm chung của nền nghệ thuật Đông Nam Á và một số loại hình 
sân khấu truyền thống tiêu biểu của Đông Nam Á. Trên cơ sở đó, bước đầu tìm hiểu những nét giao thoa 
giữa nghệ thuật Dù kê Khmer Nam Bộ và các loại hình nghệ thuật sân khấu Đông Nam Á.
Từ khóa: tính độc nhất của sân khấu Dù kê, loại hình nghệ thuật đặc biệt, sân khấu truyền thống của 
đồng bào Khmer Nam Bộ, nghệ thuật âm nhạc truyền thống - dàn dựng biểu diễn.
Abstract
 This paper is to introduce general points between the art of Southeast Asia and some typical types 
of traditional theatre of Southeast Asia. On that basis, this paper is also to find out interference between 
Southern Khmer Du ke and Southern Asia art.
Keys work: the unique of Du ke theater, distinctive form of art, the Southern Khmer’s traditional 
theatre, traditional musical art- choreograph performance. 
1 Bộ môn Quản trị Văn phòng - Trường Đại học Trà Vinh
1. Đặt vấn đề
Ở Nam Bộ, người Khmer cư trú ở hầu hết 
các tỉnh thành nhưng tập trung đông nhất là ba 
tỉnh miền Tây Nam Bộ: Trà Vinh, Sóc Trăng, An 
Giang. Người Khmer rất thân thiện, vui vẻ và có 
năng khiếu về âm nhạc, diễn ca. Người Khmer là 
dân tộc thiểu số duy nhất có hình thức sân khấu 
riêng còn hoạt động cho đến ngày nay, đó là hai 
loại hình sân khấu dân gian cổ truyền nổi tiếng: 
Dù kê và Rô băm độc đáo với nhiều đoàn hát hàng 
năm lưu diễn theo mùa.
Vị trí của nền văn nghệ dân gian trong lịch sử 
dân tộc là rất lớn, không chỉ bởi giá trị tự thân mà 
còn vì đó là nguồn cảm hứng, là “bầu sữa” nuôi 
dưỡng nghệ thuật ca múa nhạc, sân khấu chuyên 
nghiệp Khmer đương đại. Trong nền sân khấu 
truyền thống Khmer, Dù kê trở thành món ăn tinh 
thần không thể thiếu trong đời sống người Khmer 
Nam Bộ. Lịch sử hàng trăm năm của sân khấu 
truyền thống đã khẳng định cái gì do nhân dân 
sáng tạo ra, thì cái đó có chỗ đứng trong đời sống 
tinh thần của họ.
Vấn đề văn hóa nói chung, nghệ thuật nói 
riêng, nhất là nghệ thuật truyền thống Đông Nam 
Á đang được các nhà quản lí nhà nước, nhà nghiên 
cứu quan tâm bởi tính đa dạng, phong phú và vai 
trò, vị trí quan trọng của nó. Phân tích làm rõ nét 
tính độc đáo của nghệ thuật truyền thống của các 
quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, đặc 
biệt là nghệ thuật sân khấu Dù kê của người Khmer 
Nam Bộ, đồng thời rút ra những nét khác biệt về 
văn hóa, nghệ thuật khu vực gắn với điều kiện kinh 
tế- xã hội- lịch sử đặc thù của mỗi dân tộc sẽ nâng 
cao hiểu biết, tăng mối giao lưu và đề cao sự tôn 
trọng lẫn nhau. Bài viết đề cập đến nhiều nói nét 
tương đồng, điểm sáng tạo của nghệ thuật Dù kê 
của đồng bào Khmer.
2. Điểm chung của nền nghệ thuật truyền 
thống Đông Nam Á
2.1. Văn hóa lúa nước là điểm chung của các 
nền văn hóa truyền thống Đông Nam Á
Đông Nam Á là một trong những khu vực có 
nền văn hóa cổ xưa của thế giới. Nền văn hóa ở 
đây vừa được hội tụ những nét văn hóa Đông-Tây, 
vừa mang sắc thái độc đáo, muôn hình muôn vẻ. 
Đặc biệt là nền văn minh nông nghiệp lúa nước.
Sự ra đời của văn minh nông nghiệp lúa nước 
một phần do môi trường qui định, mặt khác là do 
cách lựa chọn và ứng xử của cư dân tại đây. Cũng 
chính nền văn hóa lúa nước này đã chi phối đến 
tất cả các mặt đời sống của cư dân trong khu vực: 
Do yêu cầu sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là công 
tác thủy lợi, đắp đê và bảo vệ vùng đất màu mỡ, 
các tộc người đã liên kết lại trong một hệ thống 
chính trị gồm nhiều “mường” do một tù trưởng của 
mường lớn có ưu thế về quân sự, kinh tế hay tôn 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
tu_mua_ro_bam_den_dien_xuong_du_ke_cua_nguoi_khmer_tay_nam_b.pdf