Tự quản địa phương và vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân

Thứ nhất, theo xu hướng của thế giới, hiện nay các nước phát triển và đang phát triển đều rất ưa chuộng tổ chức chính quyền địa phương theo hướng tự quản. Năm 1985, bản HCTQĐPEC được thông qua, có hiệu lực từ ngày 01/9/1988 và hiện nay đã được 30 nước châu Âu phê chuẩn. Hiến chương này là cơ sở của Dự thảo HCQTTQĐP của Liên hiệp quốc. Bên cạnh đó, các quốc gia ASEAN cũng đang thực hiện ở các mức độ khác nhau các nội dung tự quản địa phương và trong phạm vi ASEAN cũng đã thành lập Hiệp hội các chính quyền địa phương11. Tự quản địa phương không còn là một mô hình để các nước nghiên cứu, mà nó đã trở thành hiện thực, một đòi hỏi bức thiết của các nước dân chủ thực sự, nên “Việt Nam cũng sẽ không thể nằm ngoài quỹ đạo chung đó, bởi lẽ Việt Nam đã cam kết và trên thực tế đang chủ động và tích cực tham gia vào quá trình hội nhập khu vực và quốc tế mà ở đó mẫu số chung của phân chia quyền lực theo chiều dọc là xu hướng tự quản địa phương”

pdf5 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 91 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tự quản địa phương và vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TỰ QUẢN ĐỊA PHƯƠNG VÀ VẤN ĐỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN CÔNG DÂN NGUYỄN THỊ THIỆN TRÍ* NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 1. Khái quát về tổ chức tự quản địa phương 1.1. Cơ sở của tổ chức tự quản địa phương Khi nhà nước chưa ra đời, loài người cũng tự biết tổ chức lại và sống thành các tổ chức xã hội đầu tiên như thị tộc, bộ lạc hay các công xã theo giáo phận ở phương Tây, công xã nông thôn ở phương Đông. Đó là các tổ chức tự quản đầu tiên của xã hội loài người. Khi chế độ công xã nguyên thủy tan rã, nhà nước ra đời, thì các công xã theo giáo phận ở phương Tây, công xã nông thôn ở phương Đông vẫn tồn tại và nó là các tổ chức tự quản đầu tiên trong các nhà nước. Sự bền vững của các công xã theo giáo phận ở phương Tây cao đến nỗi, chế độ tự quản địa phương đang được áp dụng trong các nước này ngày nay đa phần đều được xây dựng trên cơ sở các giáo phận, như ở Pháp, Anh, Thụy Điển, Nga Còn sự bền vững của các công xã nông thôn ở phương Đông biểu hiện qua sự tồn tại lâu đời của chế độ tự trị làng xã, ở phương Đông nói chung, Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, quyền lực nhà nước vốn luôn có nhu cầu được tập trung và cơ quan hành chính là thiết chế thể hiện tập trung bản chất cai trị của nhà nước. Khi xã hội phát triển, dân chủ được thừa nhận rộng rãi ở các cộng đồng dân cư thì mới đặt ra nhu cầu phải có các hình thức quản lý dân chủ. Do đó, bên cạnh bộ máy hành chính là sự ra đời của các cơ quan đại diện làm nhiệm vụ tư vấn hay tự quản dưới hình thức Hội đồng tự quản hay Hội nghị nhân dân và khi đó, khái niệm bộ máy chính quyền địa phương không còn bó hẹp trong phạm vi cơ quan hành chính địa phương mà còn có cả tổ chức tự quản địa phương1. Cách thức tổ chức chính quyền tự quản địa phương của mỗi nhà nước gắn liền với việc phân chia lãnh thổ quốc gia. Thông thường, có hai loại đơn vị lãnh thổ trong một nhà nước là đơn vị lãnh thổ tự nhiên và đơn vị lãnh thổ nhân tạo. Tổ chức tự quản địa phương được hình thành theo các đơn vị lãnh thổ tự nhiên là chủ yếu, nói cách khác, tổ chức tự quản địa phương khó có thể hình thành được trên cơ sở là đơn vị lãnh thổ nhân tạo. Với đơn vị lãnh thổ nhân tạo - là lãnh thổ do chính nhà cầm quyền thiết lập nên phần nhiều với mục đích “chia để trị” - sự phân chia lãnh thổ ấy phụ thuộc vào ý chí chủ quan và nhận thức cá nhân của nhà cầm quyền với mục đích cai trị là chủ yếu, dĩ nhiên từ bộ máy, nhân sự đến nguyên tắc quản lý của các vùng địa phương nhân tạo ấy đều được xây dựng như một bộ phận thuộc trung ương, do đó cơ sở cho nhân tố tự quản hình thành gần như không có. Ngược lại với đơn vị lãnh thổ nhân tạo, đơn vị lãnh thổ tự nhiên là các * ThS, GV Khoa Luật Hành chính, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. 1 Bùi Xuân Đức, “Tự quản địa phương - vấn đề nhận thức và vận dụng ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 1/2007. 23NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 12 (268) T6/2014 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT vùng địa giới hình thành một cách tự nhiên, lâu dài trong lịch sử, dân cư quy tụ lại thành cộng đồng theo lối quần cư, có quan hệ chặt chẽ, lâu đời, thường là theo dấu hiệu huyết thống, nghề nghiệp, dân tộc, các đặc điểm chung về địa lý tự nhiên, truyền thống văn hóa, lịch sử Không có một khuôn mẫu chung cho các lãnh thổ này về số lượng cũng như mật độ dân cư, diện tích lãnh thổ và đặc điểm địa lý, có thể là đô thị hay nông thôn, miền núi hoặc miền xuôi, đất liền hoặc hải đảo2... Vì là lãnh thổ tự nhiên nên việc tổ chức quản lý lãnh thổ này rất cần tính đến nguyện vọng và ý chí của dân cư địa phương để tránh những thương tổn về tâm lý, chính trị mà chắc chắn sẽ phát sinh nếu trung ương áp đặt những khuôn mẫu chung mà không tính đến cũng như không thấy được những đặc thù vốn có của địa phương. Vì thế tổ chức chính quyền địa phương nơi đây cần mang nhiều tính tự quản và nó gắn liền với sự ra đời của tổ chức tự quản địa phương. 2.2. Khái niệm tổ chức tự quản địa phương Từ rất sớm, nhiều quốc gia trên thế giới đã sử dụng các tổ chức tự quản địa phương ở các cấp chính quyền khác nhau, đặc biệt là ở các nước tư bản phương Tây, nơi mà các thiết chế về tự do, dân chủ, bình đẳng được khai sinh và phát triển khá sớm. Sự phát triển của tự quản địa phương và những giá trị của nó đã không còn bó hẹp trong phạm vi một quốc gia. mà cả phải thừa nhận. Nhận thức về xây dựng một cơ sở pháp lý rõ ràng, vững chắc cho chính quyền địa phương là cần thiết cho việc hình thành vị trí của chính quyền địa phương như là một đối tác trong hệ thống điều hành nhà nước đã được thừa nhận ở tất cả các nước cộng đồng Châu Âu. Vì lẽ đó năm 1985, Hội đồng Châu Âu đã thông qua Hiến chương về chính quyền tự quản địa phương (HCTQĐPEC) như là một hiệp ước Châu Âu được đa số các nước thành viên Cộng đồng châu Âu (EC) ký và công nhận, do đó, nó trở thành bắt buộc đối với tất cả các nước thành viên của EC. HC- TQĐPEC có nêu định nghĩa về tự quản địa phương như sau: “Tự quản địa phương được hiểu là quyền và khả năng thực sự của cơ quan tự quản địa phương được quyết định và quản lý một phần lớn các công việc xã hội, trong khuôn khổ pháp luật và phải chịu trách nhiệm nhằm phục vụ lợi ích của dân cư địa phương”3. Việc EC thông qua HCTQĐPEC là tiền đề để Liên hiệp quốc cho khởi thảo Hiến chương quốc tế về chính quyền tự quản địa phương (Dự thảo HCQTTQĐP). Dự thảo này cũng đã đưa ra định nghĩa về tổ chức tự quản địa phương: “Chính quyền tự quản địa phương biểu thị quyền và khả năng của chính quyền địa phương, trong giới hạn của luật pháp điều tiết và quản lý một phần đáng kể các hoạt động công cộng theo đúng trách nhiệm của mình và vì lợi ích của nhân dân địa phương”4. 2. Vai trò của chính quyền tự quản địa phương và việc phát huy dân chủ, đảm bảo quyền con người Nguyên tắc chính quyền tự quản địa phương được coi là một yếu tố quan trọng của các nguyên tắc cơ bản về dân chủ, cao hơn nữa là đảm bảo quyền con người; sự bảo đảm về tính độc lập chính trị, hành chính và tài chính của chính quyền địa phương là những viên đá tảng đầu tiên của một nền dân chủ thực thụ5. Thứ nhất, tổ chức tự quản địa phương sẽ đảm bảo thực hiện nguyên tắc “quyền lực nhân dân” trên thực tế. Nhân dân là nguồn gốc của quyền lực nhà nước, nếu vì lý do khách quan hay chủ quan nào đó mà nhân 2 Nguyễn Cửu Việt, “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức đơn vị hành chính”, kỷ yếu hội thảo “Lý luận và thực tiễn xác lập đơn vị hành chính các cấp đáp ứng yêu cầu ổn định và phát triển đất nước”, Bộ Nội vụ tổ chức, TP.Hồ Chí Minh, 2007. 3 Bùi Xuân Đức, “Tự quản địa phương – vấn đề nhận thức và vận dụng ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 1/2007. 4 Dự thảo của Liên hiệp quốc về Hiến chương quốc tế về chính quyền tự quản địa phương. 5 Nguyễn Như Phát, “Mô hình chính quyền địa phương ở một số nước Châu Á – Thái bình dương”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 10/2002. Söë 12 (268) T6/2014 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP24 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT dân không tự mình thực hiện được thì quyền lực sẽ được ủy quyền cho thiết chế đại diện nhân dân và chính quyền trung ương là cấp đại diện cao nhất. Càng về cấp cơ sở thì tính đại diện càng thực chất và rõ ràng hơn, người dân thấy được quyền lực của mình đang được trực tiếp thực hiện. Theo đó, tự quản địa phương là mô hình tối ưu để thực hiện một cách hợp lý nguyên tắc “nhân dân là gốc của quyền lực nhà nước”. Cụ thể: (i) khi có tự quản, người dân sẽ có quyền thể hiện quan điểm, có quyền tự quyết các vấn đề ở địa phương, nói cách khác, đó là quyền quyết định các công việc gắn liền với đời sống của mỗi người dân một cách trực tiếp hoặc thông qua cơ quan tự quản địa phương của mình. Ví dụ như, theo Luật “Về những nguyên tắc chung tổ chức tự quản địa phương ở Liên bang Nga” năm 1993 thì “tự quản địa phương là việc nhân dân địa phương trực tiếp hoặc thông qua cơ quan tự quản địa phương quyết định một cách tự chủ và tự chịu trách nhiệm các vấn đề có ý nghĩa địa phương xuất phát từ lợi ích của nhân dân địa phương với sự tính đến các truyền thống lịch sử và các truyền thống khác của địa phương đó”6; (ii) người dân có quyền trực tiếp lựa chọn người đại diện cho mình để đề ra các chính sách phát triển cho cộng đồng địa phương, được tự do trực tiếp lựa chọn người điều hành cuộc sống hàng ngày tại địa phương của mình. Đó là các cơ quan riêng để giải quyết các công việc thuộc về địa phương, những cơ quan này không nằm trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước. Đóng vai trò quan trọng nhất là cơ quan đại diện do nhân dân địa phương bầu ra theo nhiệm kỳ. Ngoài ra, còn có các cơ quan hành chính địa phương, là cơ quan chấp hành của cơ quan đại diện, có thể do nhân dân trực tiếp bầu ra hoặc do cơ quan đại diện bầu ra. Cơ quan hành chính này chỉ trực thuộc và chịu trách nhiệm trước cơ quan đại diện, trước nhân dân địa phương chứ không trực thuộc hay chịu trách nhiệm trước cơ quan hành chính cấp trên. Cấu trúc của các cơ quan của chính quyền tự quản địa phương sẽ được quyết định bởi cư dân của địa phương một cách độc lập7. Ngoài ra, tính phi nhà nước của cơ quan tự quản địa phương cũng góp phần chứng minh tính dân chủ của mô hình này8; (iii) quyền lực và tham nhũng luôn đi đôi với nhau và tự quản địa phương chính là phương thức kiểm soát và hạn chế tham nhũng một cách hiệu quả, cho phép ngăn chặn mọi nguy cơ hỗn loạn. Lịch sử đã chứng minh rằng, nếu hoạt động của các quan chức địa phương không được kiểm soát thì nông dân ở các làng xã sớm muộn cũng tấn công lại các quan chức địa phương. Giải pháp duy nhất là hình thành các chính quyền tự quản để nhân dân có cơ hội lựa chọn và kiểm soát cán bộ. Tuy nhiên, không phải ai cũng chấp nhận mô hình tự quản vì họ cho rằng, “dân chủ như là món đồ trang sức” không cần thiết, nhất là đối với nông dân vì nông dân chưa hiểu thế nào là dân chủ dù là ở mức 6 Bùi Xuân Đức, “Tư quản địa phương – vấn đề nhận thức và vận dụng ở Việt Nam hiện nay”, tlđd. 7 Hiến pháp Cộng hòa Liên bang Nga 1985. 8 Tư tưởng về tính phi nhà nước của cơ quan tự quản địa phương bắt đầu manh nha từ thời trung cổ ở châu Âu và trở thành một học thuyết có tính lý luận từ giữa thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX với sự xuất hiện của các nhà tư tưởng lớn như Emayo, OlaBand, Oxretxlo Tuy nhiên, tính phi nhà nước của tự quản địa phương cho đến nay cũng bị phê phán ngay cả trong những nước đang áp dụng chế độ tự quản địa phương. Từ sau thế kỷ XIX, khi chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh thành tư bản độc quyền thì học thuyết về tính độc lập và tính phi nhà nước của tự quản địa phương đã bị lên án nhằm tránh nguy cơ đối lập giữa quyền lực nhà nước và quyền tự quản địa phương. Ở các nước XHCN trước đây, việc thừa nhận tính phi nhà nước của cơ quan tự quản địa phương lại càng không thể, vì lý luận về tính thống nhất của quyền lực nhà nước của nhân dân và đó còn là nguyên lý cơ bản để tổ chức chính quyền địa phương trong nhà nước XHCN. Ở Liên Xô, ngay sau khi chế độ nhà nước XHCN Xô viết sụp đổ thì tính phi nhà nước của tự quản địa phương của chính quyền Enxin đã bị phê phán vì việc thừa nhận tính phi nhà nước của cơ quan tự quản địa phương đã tước bỏ tính quyền lực nhà nước của các Xô viết địa phương do dân bầu. Tuy nhiên, dù bị phê phán và cho rằng việc thừa nhận tính phi nhà nước của tự quản địa phương là quan niệm đã lỗi thời với hàng loạt những nguy cơ, nhưng Hiến pháp và Luật về tự quản địa phương của Cộng hòa Liên bang Nga - đặc biệt sau khi Putin lên cầm quyền - vẫn tiếp tục khẳng định tính phi nhà nước của cơ quan tự quản địa phương. Xem Trương Đắc Linh, “HĐND trên chặng đường đổi mới tổ chức chính quyền điạ phương”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 9/2001. Söë 12 (268) T6/2014 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP 25 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT đơn giản nhất. Nhưng thực tế lại đòi hỏi dân chủ như một phương thức duy trì trật tự ở nông thôn, nông dân dù không hiểu lý luận về dân chủ nhưng cần dân chủ để sống và lao động. Thứ hai, tự quản địa phương sẽ đáp ứng nhu cầu xây dựng một nhà nước phục vụ. Một nhà nước phục vụ là cơ sở cho một nền dân chủ đích thực, khi những giá trị của con người được đề cao thì mọi phương thức tổ chức chính quyền đều nhằm hướng đến phục vụ con người được tốt hơn. Khi có tự quản địa phương, người dân địa phương sẽ được hưởng tốt nhất các loại dịch vụ ở địa phương. Ý nghĩa này có vai trò quan trọng nên thậm chí ở các đô thị tự quản việc cung cấp dịch vụ được coi là mục đích cơ bản và quan trọng nhất để trung ương quyết định trao quyền tự quản cho địa phương. Từ phân cấp theo ngành chuyển sang phân cấp mạnh theo lãnh thổ nên các lãnh thổ ngày càng giữ vai trò quan trọng trong việc đảm bảo cung cấp các dịch vụ công và các dịch vụ an sinh xã hội, người dân được bảo vệ và có cuộc sống thoải mái, tiện nghi tại địa phương. Ví dụ, “Công xã đô thị Anh, với quyền tự chủ mạnh mẽ của mình đã đạt được những thành tựu tốt nhất trong lĩnh vực xây dựng tiện nghi đô thị và ngược lại, không có một đô thị nào lại kém tiện nghi hơn các đô thị Nga vốn phụ thuộc hoàn toàn vào sự bao cấp của Chính phủ”9. Thứ ba, việc tổ chức địa phương tự quản là phương thức tổ chức chính quyền tốt nhất để “giải phóng” con người khỏi sự bóc lột và cai trị của quyền lực nhà nước. Nhà nước càng có nhiều cấp chính quyền thì mức độ cai trị càng nhiều, cấp chính quyền này chồng lên cấp chính quyền kia. Khi có tự quản địa phương thì cấp trên của địa phương tự quản chỉ là pháp luật và nhà nước trung ương, sẽ giải phóng cho người dân khỏi sự cai trị nhiều tầng, nhiều cấp. Ngoài ra, giữa địa phương và nhà nước trung ương lại có những quy định ràng buộc đảm bảo quyền tự chủ của địa phương. Mục đích cuối cùng của mỗi nhà nước là cư dân phát triển, pháp luật được tôn trọng, tự do, dân chủ được đảm bảo và trên hết, quyền con người không bị xâm hại bởi các thiết chế của nhà nước. Tự quản địa phương sẽ đáp ứng được những điều đó vì tự địa phương sẽ làm cho mình phát triển, cạnh tranh với các địa phương khác, biết khai thác thế mạnh của địa phương mình, có tự quản sẽ không sinh ra ỷ lại, và hơn hết, pháp luật của nhà nước sẽ được tôn trọng một cách tự nhiên vì cái khung pháp lý đủ lớn cho những sáng tạo hợp lý của các địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh những giá trị rõ ràng thì tự quản địa phương cũng có các hạn chế nhất định. Đó là tâm lý “tự quản” dẫn đến sự co cụm của các cơ quan tự quản, tâm lý thờ ơ của dân cư địa phương trước những vấn đề chung của cả nước hay vấn đề của địa phương khác. Đặc biệt là trong trường hợp năng lực tự quản của các địa phương phát triển đến mức không cần đến sự hỗ trợ của trung ương hay các địa phương khác thì ngoài tâm lý thờ ơ là sự phân biệt khá lớn giữa các dân cư ở các địa phương tự quản với nhau, dù cùng là công dân của một nhà nước hay của một bang nhưng lại nhận được các phúc lợi và các dịch vụ ở các mức độ khác nhau10. Những hạn chế trên có thể khắc phục, như có thể biến cái hạn chế thành cái tích cực, như biến tâm lý “địa phương chủ nghĩa” thành “lòng tự hào địa phương”, tăng tính chủ động, sáng tạo của địa phương, phát huy quyền làm chủ của người dân. Tuy vậy, những điều kể trên về chính quyền tự quản địa phương không có nghĩa khẳng định mô hình chính quyền tự quản địa phương là tuyệt vời nhất, nếu một mô hình có phù hợp với một nơi nào đó thì do trước mắt chưa tìm được mô hình nào tốt hơn. Nhưng xét dưới góc độ dân chủ và vì sự đảm 9 GS. L.Velikhốp, dẫn theo Bùi Xuân Đức, “Tự quản địa phương – vấn đề nhận thức và vận dụng ở Việt Nam hiện nay”, tlđd 10 David J. Mccarthy, Local governmental law, West, 2003 Söë 12 (268) T6/2014 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP26 NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT bảo quyền con người, thì trước mắt, chưa có mô hình tổ chức chính quyền địa phương nào tốt hơn tổ chức tự quản địa phương. 3. Chính quyền địa phương Việt Nam với vấn đề tự quản Cũng như các nước khác trên thế giới, Nhà nước ta luôn quan tâm đến tổ chức chính quyền địa phương và chính quyền địa phương là một nội dung quan trọng trong cải cách bộ máy nhà nước. Cải cách chính quyền địa phương ở nước ta ngày nay không chỉ vì lý do tìm kiếm một mô hình triển khai quyền lực nhà nước ở địa phương thật hiệu quả mà còn vì mục tiêu phát triển dân chủ, đảm bảo quyền con người và xây dựng một nhà nước pháp quyền. Việt Nam đã có truyền thống tự quản lâu đời, nhưng vì những lý do lịch sử nên truyền thống này dần mất đi, đặc biệt là trong thời kỳ chiến tranh và sau đó là thời kỳ thực hiện cơ chế quản lý tập trung, bao cấp. Cho đến nay, mặc dù chúng ta đã cố gắng tổ chức một chính quyền địa phương linh hoạt và được phân quyền rộng rãi nhưng vẫn còn nhiều bất cập từ quy định pháp luật cho đến thực tiễn áp dụng pháp luật, đặc biệt là chính quyền cấp xã. Về cơ bản, mô hình tổ chức chính quyền địa phương nước ta là mô hình tập trung dân chủ, trong đó chứa đựng hỗn hợp các yếu tố tập trung và phần nào là yếu tố tự quản. Đến nay, dấu ấn của cơ chế tập trung bao cấp vẫn còn khá đậm nét trong tổ chức bộ máy chính quyền địa phương. Điều đó dẫn đến việc chưa thật sự đặt chính quyền địa phương vào thế phải tự chủ thực hiện các hoạt động một cách tích cực, năng động và có trách nhiệm đối với dân cư địa phương, vì thế vấn đề dân chủ và đảm bảo quyền con người chưa được đảm bảo. Xét về truyền thống lịch sử, tình hình hiện tại và xu hướng phát triển, nước ta có nhu cầu và cơ sở để tổ chức chính quyền địa phương theo mô hình phân quyền và tự quản, vì những lý do sau: Thứ nhất, theo xu hướng của thế giới, hiện nay các nước phát triển và đang phát triển đều rất ưa chuộng tổ chức chính quyền địa phương theo hướng tự quản. Năm 1985, bản HCTQĐPEC được thông qua, có hiệu lực từ ngày 01/9/1988 và hiện nay đã được 30 nước châu Âu phê chuẩn. Hiến chương này là cơ sở của Dự thảo HCQTTQĐP của Liên hiệp quốc. Bên cạnh đó, các quốc gia ASEAN cũng đang thực hiện ở các mức độ khác nhau các nội dung tự quản địa phương và trong phạm vi ASEAN cũng đã thành lập Hiệp hội các chính quyền địa phương11. Tự quản địa phương không còn là một mô hình để các nước nghiên cứu, mà nó đã trở thành hiện thực, một đòi hỏi bức thiết của các nước dân chủ thực sự, nên “Việt Nam cũng sẽ không thể nằm ngoài quỹ đạo chung đó, bởi lẽ Việt Nam đã cam kết và trên thực tế đang chủ động và tích cực tham gia vào quá trình hội nhập khu vực và quốc tế mà ở đó mẫu số chung của phân chia quyền lực theo chiều dọc là xu hướng tự quản địa phương”12. Thứ hai, những bất cập của mô hình tổ chức chính quyền địa phương tập trung hiện nay cho thấy, nếu cứ giữ nguyên mô hình này, chính những hạn chế của cơ chế tập trung vốn không dễ cải thiện sẽ chống lại chính chế độ chính trị mà chúng ta đang theo đuổi. Kết hợp với cơ chế quản lý tập trung, hàng loạt những vấn đề khác như: con người, bộ máy, chính sách, thủ tục hiện nay đã không tránh khỏi việc gây nên sự mất niềm tin từ phía người dân. Họ không thật sự tìm thấy sự an tâm, an toàn khi đặt mình dưới sự quản lý của Nhà nước nếu như không muốn nói là quá phiền hà. Nói rộng ra, các vấn đề cực kỳ đáng mơ ước của công dân sẽ có được trong chế độ tự quản địa phương sẽ không bao giờ được thực hiện trong cơ chế tập trung như: quyền tự quyết 11 Nguyễn Cửu Việt, “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức đơn vị hành chính”, kỷ yếu hội thảo “Lý luận và thực tiễn xác lập đơn vị hành chính các cấp đáp ứng yêu cầu ổn định và phát triển đất nước”, Tlđd. 12 Nguyễn Như Phát, “Mô hình chính quyền địa phương ở một số nước Châu Á – Thái bình dương”, Tlđd. (Xem tiÕp trang 35) Söë 12 (268) T6/2014 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP 27

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftu_quan_dia_phuong_va_van_de_bao_dam_quyen_con_nguoi_quyen_c.pdf
Tài liệu liên quan