Tư tưởng về pháp luật và hoạt động
thực thi pháp luật tố tụng cũng là một trong
những tư tưởng có ý nghĩa lớn. Tinh thần
pháp luật tố tụng mà các triều đại phong
kiến Việt Nam mang lại, đó là: đã đưa ra
một hệ các quy tắc tố tụng để cán bộ tư pháp
chỉ được phép thực hiện trong phạm vi đó,
không được vượt quá, và phải luôn thể hiện
trách nhiệm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng
của con người, đặc biệt là nhóm người yếu
thế trong tố tụng.
Tinh thần này của pháp luật tố tụng
thời phong kiến có những điểm vượt thời
đại, thể hiện ở cả nội dung và cách thức
xây dựng. Nội dung pháp luật tố tụng đã tập
trung vào trách nhiệm của nhóm chủ thể có
thẩm quyền, gồm cả trách nhiệm công vụ và
trách nhiệm pháp lý. Hai loại trách nhiệm
này luôn được đặt trong tương quan với
quyền lợi của các bên tham gia tố tụng, của
con người nói chung. Các quy định phần lớn
thiết kế theo mô thức đưa ra cách thức xử sự,
dự liệu cụ thể chế tài xử lý vi phạm đối với
các cán bộ tư pháp trong quá trình tố tụng
như một đảm bảo cho hiệu quả và hiệu lực
của pháp luật. Sự độc đáo và tài tình này của
các nhà lập pháp phong kiến, mà điển hình
là triều Hậu Lê và triều Nguyễn đã làm cho
pháp luật tố tụng hình sự thực sự mang tinh
thần pháp quyền, thể hiện đúng thiên chức
của nó, như lời chỉ dụ của vua Lê Hiển Tông
khi ban hành Bộ Quốc triều hình luật: “liên
quan đến việc kiện tụng cốt ở chỗ trong sạch
và giảm bớt. nhằm dùng chính sự để công
bằng về lý trong các việc kiện tụng, khiến
dân có chỗ nương nhờ”
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
13 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 839 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Tư tưởng đề cao pháp luật trong các triều đại phong kiến Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phan Thị Lan Phương*
Phạm Thị Duyên Thảo**
* TS. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
** TS. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
Tóm tắt: 
Các triều đại phong kiến Việt Nam đều có tư tưởng đề cao pháp 
luật trong quá trình cai trị. Pháp luật được xem là công cụ để quản 
lý xã hội, xây dựng nhà nước tập quyền, bảo vệ quyền lợi của nhân 
dân, giám sát, đề cao trách nhiệm của quan chức trong quá trình 
thực thi công vụ. 
Summary: 
The Vietnamese feudal dynasties had thoughts of high honors 
to the lawful regulations during their ruling process. Legislation 
was considered as a tool for social management, establishing 
the powered centralized state, assuring the rights of the people, 
supervising and promoting the responsibility of officials in the 
course of performing their public mandates.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: pháp luật, tư tưởng, triều đại, 
phong kiến, giá trị. 
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 15/03/2018
Biên tập : 09/04/2018
Duyệt bài : 16/04/2018
Article Infomation:
Keywords: Laws; thoughts; dynasties; 
feudal; values
Article History:
Received : 15 Mar. 2018
Edited : 09 Apr. 2018
Approved : 16 Apr. 2018
TƯ TƯỞNG ĐỀ CAO PHÁP LUẬT
TRONG CÁC TRIỀU ĐẠI PHONG KIẾN VIỆT NAM
Lịch sử các triều đại phong kiến Việt 
Nam gắn liền với quá trình dựng nước, giữ 
nước và xây dựng mô hình chính quyền 
quân chủ chuyên chế. Quá trình đó, dù ở 
những mức độ khác nhau, đều có sự hiện 
diện của pháp luật. Vai trò của pháp luật đều 
được các triều đại phong kiến Việt Nam đề 
cao và coi trọng.
1. Pháp luật với việc quản lý xã hội, phát 
triển đất nước trong các triều đại phong 
kiến Việt Nam 
1.1 Triều đại Ngô - Đinh - Tiền Lê 
(939-1009)
Triều Ngô (939-965), sau khi lên ngôi, 
Ngô Quyền "bắt đầu xưng vương, lập Dương 
Thị làm hoàng hậu, đặt trăm quan, chế định 
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
13Số 8(360) T4/2018
triều nghi phẩm phục"1. Ngô Quyền làm vua 
được 6 năm, nhưng theo lời hậu thế "phàm 
chính lệnh ban ra không ai không vui lòng 
nghe theo"2. Dù đời sống nhà nước, pháp 
luật thời Ngô, như lời nhận xét của sử gia 
Phan Huy Chú "đã cách xa, sách vở thiếu 
sót, không thể biết được"3, nhưng có thể 
thấy, ngay từ những ngày đầu non trẻ của 
chính quyền tự chủ, ở Triều Ngô đã bước 
đầu có sự xuất hiện của pháp luật, ít nhất 
là về cách thức tổ chức bộ máy hành chính, 
chính quyền triều đình trung ương ("đặt 
trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục"). 
Bên cạnh việc kế thừa hệ thống luật tục, tập 
quán ở giai đoạn trước, thì đây là nền tảng 
quan trọng để nhà Ngô vận hành bộ máy nhà 
nước và phát triển xã hội.
Đến Triều Đinh (968-980), các yếu 
tố căn bản của một chính quyền độc lập đã 
hiện diện, vua cho: "đặt quốc hiệu là Đại Cồ 
Việt, dời kinh ấp về động Hoa Lư... đặt triều 
nghi"; "bắt đầu quy định cấp bậc văn võ, 
tăng đạo"4. Trong tổ chức chính quyền, nhà 
Đinh bắt đầu chú trọng hơn đến cấp chính 
quyền địa phương khi vừa kế thừa hệ thống 
tổ chức hành chính thời nhà Khúc, vừa thay 
thế hai cấp phủ, châu bằng cấp đạo để tiện 
việc quản lý. Trong quá trình điều hành đất 
nước, nhà Đinh chú trọng hoàn thiện các 
quy chế tổ chức và quản lý quân đội, đề cao 
phép tắc để răn dạy, tạo lập trật tự xã hội. 
Điển hình, nhà Đinh đã cho đặt vạc lớn ở 
sân đình, nuôi hổ giữ trong cũi và hạ lệnh 
"Kẻ nào trái phép thì bị bỏ vạc dầu sôi hoặc 
cho hổ xé xác ăn thịt", do đó mà mọi người 
đều sợ phục, không ai dám phạm. Đây chỉ 
là những biểu hiện điển hình, nhưng phần 
nào cho thấy một nguyên tắc trong đời sống 
chính trị pháp lý thời Đinh: đề cao "phép" 
- pháp luật, nghiêm trị những hành vi "trái 
phép" - vi phạm pháp luật.
Triều Tiền Lê (890-1009), đã tiến 
1 Đại Việt sử ký toàn thư, Dịch giả Cao Huy Giu, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2009, tr.120
2 Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr. 114
3 Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí. Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2005
4 Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr. 127, 207
5 Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr. 148
hành cải cách bộ máy nhà nước và pháp 
luật. Các công việc quan trọng của quốc gia 
như "định luật lệnh, chọn quân lính, chia 
tướng hiệu làm hai ban, đổi mười đạo làm 
phủ, lộ, châu"5 đã được tiến hành bài bản 
hơn so với hai triều đại trước. Năm 980, vua 
Lê Đại Hành cho điểm dân làm binh lính, 
năm 1002, đưa ra quy định về đánh roi và tử 
hình để xử phạt các quan lại khi có những 
vi phạm nghiêm trọng trong quá trình vận 
hành quyền lực nhà nước. Năm 1009, vua 
Lê Long Đĩnh "xuống chiếu cho lấy quân và 
dân" để đào kênh, đắp đường. Chính quyền 
địa phương đã được tổ chức thành 5 cấp; 
quân đội được định theo ngạch quân 10 đạo, 
quy định khung biên chế quân đội trong cả 
nước. Như vậy, nhà Tiền Lê đã chính thức 
tiến hành hoạt động lập pháp, các văn bản 
pháp luật đơn hành của nhà vua đã xuất hiện 
và là công cụ để quản lý các lĩnh vực của đời 
sống đất nước.
Có thể thấy rằng, dù tư liệu lịch sử về 
hoạt động lập pháp của các triều đại Ngô - 
Đinh - Tiền Lê còn lại rất ít ỏi, nhưng những 
tư liệu còn lại cho thấy, ý thức vận hành, 
quản lý đất nước bằng pháp luật đã xuất hiện 
ngay từ những ngày đầu của chính quyền tự 
chủ. Các triều đại này đã xem mục tiêu tập 
hợp sức mạnh của toàn thể nhân dân để bảo 
vệ nền độc lập dân tộc là mục tiêu lớn nhất. 
Việc chuyển kinh đô lên vùng núi non hiểm 
trở, xây dựng chính quyền trung ương với 
chỗ dựa là quân đội vững mạnh, phát triển 
hệ thống quan lại vận hành quyền lực nhà 
nước theo khuôn phép của triều đình, bình 
định các thế lực cát cứ... đều nhằm hướng 
đến mục tiêu to lớn đó. 
1.2 Triều đại Lý - Trần - Hồ 
(1010-1407)
Triều Lý (1010-1025). Lần đầu tiên 
trong lịch sử, một bộ luật thành văn - bộ 
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
14 Số 8(360) T4/2018
Hình thư đã được ban hành năm 1042, vào 
đời vua Lý Thái Tông. Xuất phát từ thực 
tế "việc kiện tụng trong nước phiền nhiễu, 
quan giữ việc hình câu nệ luật văn, cốt làm 
khắc nghiệt, thậm chí bị oan uổng. Vua lấy 
làm thương xót", Nhà vua đã cho "Ban hình 
thư... sai trung thư sửa định luật lệnh, châm 
chước cho thích dụng với thời bấy giờ, chia 
ra môn loại, biên ra điều khoản, làm sách 
Hình luật của triều đại, để cho người xem 
dễ hiểu"6. Bộ Hình thư nhà Lý gồm 3 quyển, 
tuy sớm thất truyền, nhưng là thành tựu to 
lớn trong lịch sử pháp luật Đại Việt, minh 
chứng nhà nước phong kiến Việt Nam đã có 
thể có một nền pháp luật thống nhất trong cả 
nước, đủ khả năng để điều chỉnh các quan 
hệ xã hội.
Qua các đạo chiếu còn lại của triều Lý, 
pháp luật đã được xem là công cụ để nhà 
nước điều chỉnh các lĩnh vực quan hệ cơ bản 
trong xã hội. Nội dung, tính chất, vị trí cùng 
các nguyên tắc vận hành pháp luật của nhà 
nước cũng được thể hiện khá rõ. Cụ thể:
Pháp luật là phương tiện để bảo vệ 
quyền, lợi ích, giảm bớt sự khắc nghiệt, oan 
uổng vốn dễ bị các quan lại của nhà nước 
gây ra cho nhân dân. Điển hình là các chiếu 
(năm 1208, 1042) về xử phạt binh lính cướp 
của của dân, sẽ bị chém hoặc bị trượng; bảo 
vệ quyền tự do của con người như các chiếu 
cấm mua bán hoàng nam làm đầy tớ (năm 
1042); bảo vệ thường dân trong chiến tranh 
(chiếu năm 1044); bảo đảm an ninh trật tự 
cho dân chúng trong hương ấp (chiếu năm 
1128); nhà Lý cũng thường xuyên ban hành 
các lệnh đại xá thiên hạ như miễn thuế, miễn 
lao dịch, tha bổng hoặc giảm nhẹ hình phạt 
cho tù nhân trong những dịp nhất định...
Pháp luật triều Lý đã bước đầu quy 
định, đề cao trách nhiệm của quan lại trong 
quá trình thực hiện quyền lực: quan lại phải 
nghiêm chỉnh thừa hành công vụ được giao, 
6 Đại việt Sử ký toàn thư, Sđd, tr. 186
7 Đại việt Sử ký toàn thư, Sđd, tr. 239
8 Đại việt Sử ký toàn thư, Sđd, tr. 269
9 Đại việt Sử ký toàn thư, Sđd, tr 196
không được phép lợi dụng việc công để mưu 
lợi riêng, quan lại tham nhũng sẽ bị nghiêm 
trị (chiếu các năm 1042, 1130, 1044). Trách 
nhiệm của người dân trong việc ngăn ngừa 
tội phạm, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật 
cũng được nhà Lý quy định khá độc đáo: 3 
hộ gia đình hợp thành một bảo, mỗi bảo phải 
chịu trách nhiệm liên đới khi có người trong 
bảo phạm tội liên quan đến chứa dấu hoàng 
nam làm đầy tớ, hoặc giết trâu bò. Quy định 
này đã thực sự mang tính giáo dục, phòng 
ngừa của pháp luật (chiếu 2/1043, năm 
1123).
Pháp luật triều Lý thể hiện tinh thần 
nhân đạo, bảo vệ nhóm người yếu thế trong 
xã hội qua các đạo chiếu: cho phép người 
già 70-80 tuổi, trẻ em 10-15 tuổi, người ốm 
yếu nếu phạm tội trừ tội thập ác, được phép 
chuộc tội bằng tiền; chọn cấm quân không 
được chọn ở hộ cô độc (các chiếu năm 1042, 
1147).
Tư tưởng đề cao pháp luật của nhà Lý 
còn thể hiện trong việc thực hiện, áp dụng 
pháp luật. Khi vừa lên ngôi, vua Lý Thái Tổ 
đã cho xây cung Long Đức, lấy điện Diên 
Khánh, Quang Vũ làm nơi xử kiện và cho 
dân khiếu kiện, và quy định: "Từ nay ai có 
việc tranh kiện cho đến triều tâu bày, Vua 
thân xét quyết"7. Vua Lý Thái Tông vào năm 
1029 đã cho đặt ở phía đông thềm rồng điện 
Văn Minh, phía tây điện Quang Vũ, hai bên 
hữu thềm rồng đặt lầu chuông đối nhau để 
"dân chúng ai có oan ức việc kiện tụng oan 
uổng thì đánh chuông lên"8. Vua Lý Thánh 
Tông đã từng trực tiếp chỉ đạo: "người dân 
không biết mà mắc phải hình pháp, ta rất 
lấy làm thương. Từ năm về sau, không cứ 
gì tội nặng nhẹ, đều nhất loạt khoan giảm"9. 
"Trẫm ở trong cung nào lò sưởi ngự, nào áo 
lót cầu còn rét như thế này, nghĩ đến người 
tù giam trong ngục, khổ sở về gông cùm, 
chưa biết rõ ngay gian, ... có kẻ chết không 
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
15Số 8(360) T4/2018
đáng tội, trẫm rất thương xót. Vậy hạ lệnh 
cho hữu ty phát chăn chiếu và mỗi ngày hai 
lần phát cơm"10. Nhà Lý có nhiều chính sách 
khoan dung với kẻ phạm tội, coi tội nhân ở 
góc độ nào đó như là nạn nhân của xã hội, 
các hình phạt được cân nhắc nặng nhẹ hợp 
lý, nhằm để cải tạo, giáo hóa họ. 
Nhà Lý còn chú trọng đến việc nâng 
cao ý thức, hiểu biết pháp luật cho đội ngũ 
quan lại trong bộ máy nhà nước. Cho rằng, 
việc hiểu biết pháp luật là điều kiện và tiền 
đề tối thiểu để có thể làm quan, thực hiện 
tốt trọng trách quản lý nhà nước, Nhà Lý đã 
đưa các kiến thức pháp luật vào thành một 
trong những môn, nội dung thi tuyển quan 
lại. Tháng 2/1077, vua Lý Nhân Tông đã hạ 
chiếu quy định, thi tuyển quan lại phải thi 3 
môn: viết chữ, toán và pháp luật. Pháp luật 
còn được coi như môn học bắt buộc trong 
đào tạo quan lại bên cạnh các kiến thức 
khác11. 
Triều Trần (1225-1400). So với triều 
Lý, công việc pháp điển hóa, tập hợp hóa pháp 
luật ở triều Trần được chú trọng hơn. Triều 
Trần đã ban hành bộ Hình thư (năm 1341), 
cùng nhiều văn bản tập hợp hóa như: Quốc 
triều thông chế (1230), Quốc triều thường lễ 
(1230), Hoàng triều đại điển (1341), Hoàng 
triều Ngọc điệp (1267), Công văn cách thức 
(1290) cùng nhiều văn bản đơn hành của nhà 
vua như đạo, chiếu, lệnh quy định về các lĩnh 
vực hành chính, hình sự, dân sự, hôn nhân gia 
đình, tố tụng, kinh tế...
Pháp luật triều Trần, dù chịu ảnh hưởng 
của pháp luật Trung Hoa, nhưng trong quá 
trình lập pháp, đã thể hiện sự sáng tạo, tự chủ 
và tinh thần độc lập dân tộc. Điều này được 
minh chứng một phần từ chỉ dụ của vua Trần 
Nghệ Tông: "Triều trước dựng nước, có luật 
pháp, chế độ riêng, không theo quy chế của 
nhà Tống. Là vì Nam, Bắc; nước nào làm 
chủ nước đó, không phải bắt chước nhau"12. 
Hay trong một Chiếu tháng 10/1374, nhà 
10 Đại việt Sử ký toàn thư, Sđd, tr 194
11 Cao Văn Liên, Pháp luật các triều đại Việt Nam và các nước, Nxb. Thanh Niên, Hà Nội, 2004, tr.204
12 Đại việt Sử ký toàn thư, Sđd, tr. 151
Trần đã cấm quân và dân không được mặc 
áo, chải đầu theo người phương Bắc và bắt 
chước tiếng nói của người các nước Chiêm 
Thành, Lào để giữ gìn bản sắc dân tộc.
Tư tưởng cai trị khoan hòa, lấy dân 
làm gốc từ thời nhà Lý, cũng như tư tưởng 
"khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc" 
của Trần Quốc Tuấn được nhà Trần tiếp tục 
xem là "thượng sách giữ nước", được vận 
dụng trong quá trình xây dựng pháp luật và 
quản lý xã hội của mình.
Pháp luật triều Trần đã kế thừa các lĩnh 
vực điều chỉnh cơ bản của pháp luật triều 
Lý, đồng thời có sự phát triển đặc biệt về 
lĩnh vực pháp luật dân sự. Những quy định 
cụ thể về cách thức thiết lập di chúc, văn khế 
liên quan đến mua bán ruộng đất hoặc vay 
mượn đã được bổ sung, phát triển. Pháp luật 
thời này là công cụ hữu dụng bảo vệ sở hữu 
tư nhân và giải quyết các tranh chấp ngày 
càng gia tăng trong xã hội.
Để pháp luật được thực hiện nghiêm 
chỉnh, các vi phạm được xét xử kịp thời, việc 
giám sát, trách nhiệm của quan lại trong việc 
bảo vệ pháp luật được đề cao, nhà Trần đã 
lập ra hệ thống các cơ quan pháp luật mang 
tính chuyên trách ở trung ương, như: Thẩm 
hình viện, Tam ty viện giữ chức năng của 
cơ quan tòa án, kiểm sát. Cụ thể, Thẩm hình 
viện có chức năng xem xét các vụ kiện tụng 
thành án rồi cùng với Tam ty viện định tội. 
Đăng văn viện (sau đổi thành Đình úy ty) là 
cơ quan xét xử những án tình ghi tội nặng 
nhằm đảm bảo sự chính xác, khách quan 
trong quá trình áp dụng pháp luật; Ngự sử 
đài là cơ quan giữ phong hóa, pháp độ, giám 
sát quan lại trong việc thi hành pháp luật để 
tránh hiện tượng lạm dụng quyền lực nhà 
nước. Năm 1244, Chiếu quy định cách thức 
thi hành các luật hình đã được ban hành, 
tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc áp 
dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có 
thẩm quyền.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
16 Số 8(360) T4/2018
Trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm 
công vụ được đề cao đối với cả dân chúng 
và quan lại. Nếu như nhà Lý quy định trách 
nhiệm liên đới, kiểm soát đối với 1 bảo là 
3 gia đình, thì đến nhà Trần mở rộng thành 
10 gia đình, thậm chí còn rộng đến cả một 
phường, xã (như đối với tội hàng giặc mà 
dân hai phường Bà Điểm và Băng Hà đã 
phải chịu - làm lang mộc binh và suốt đời 
không được thi cử làm quan). Đối với hệ 
thống quan lại quản lý nhà nước, bên cạnh 
trách nhiệm công vụ, quy định quan chế 
(chiến năm 1246) phải gánh vác, còn phải 
tuân thủ Hoàng pháp của triều đình, dòng 
họ, để có những ứng xử phù hợp với đòi hỏi 
của lễ giáo phong kiến (quan lại phải tham 
dự đầy đủ các lễ hội thề đền Đồng Cổ: tận 
trung với Vua, với xã tắc). 
Có thể thấy rằng, điểm nổi bật nhất 
trong tư tưởng chính trị pháp lý của nhà Trần 
là đề cao tính nghiêm minh của pháp luật. 
Pháp luật với hệ thống hình phạt nặng, đa 
dạng, mang tính răn đe cùng quá trình thực 
thi pháp luật nghiêm khắc sẽ quyết định trật 
tự, sự vững mạnh của xã hội, củng cố mô 
hình trung ương tập quyền.
- Triều Hồ (1400-1407): Nhà Trần giai 
đoạn cuối, về lý thuyết vẫn duy trì mô hình 
cai trị tập quyền thân dân, nhưng thực tế, có 
nhiều mâu thuẫn với mô hình đó: vua tôi vơ 
vét của cải của dân, tư hữu ruộng đất phát 
triển mạnh, phá vỡ bệ đỡ là chế độ công về 
tư hữu về ruộng đất, sức mạnh của triều đình 
trung ương suy giảm; tư tưởng từ bi hỷ xả 
của đạo Phật không còn thích dụng với tình 
trạng bất công, rối ren của đất nước. Nhà Hồ 
nhân cơ hội đó đã cướp ngôi nhà Trần.
Sau khi lên ngôi, nhà Hồ đã phải 
đương đầu với hàng loạt khó khăn như sự sa 
sút về kinh tế của đất nước, năng lực quản 
lý của đội ngũ công chức; sự ly tán của các 
tầng lớp dân cư; nạn xâm lăng đe dọa; đặc 
biệt là "lòng dân không thuận" do sự lên 
ngôi không "chính danh" của nhà Hồ. Để 
khắc phục những hạn chế này, ban đầu, nhà 
Hồ về cơ bản tiếp tục cho thi hành pháp luật 
của các triều đại Lý - Trần để ổn định xã hội, 
"phòng khi lòng dân nhớ tục cũ". Sau đó, đã 
dần thực hiện hàng loạt các cuộc cải cách 
với mục đích khôi phục sức mạnh của chính 
quyền trung ương, bảo vệ và phát triển đất 
nước. Điển hình phải kể đến những chính 
sách quan trọng như: chính sách hạn điền 
(năm 1397), chính sách hạn nô (năm 1401), 
các chính sách cải cách kinh tế, xã hội khác 
như phát hành tiền giấy, thống nhất đơn vị 
đo lường, đổi mới chế độ thuế khóa, chính 
sách về an ninh lương thực quốc gia, đồng 
thời cho "sửa lại luật hình", ban hành bộ Đại 
ngu quan chế hình luật.
Chính sách hạn điền là việc nhà nước 
định lượng sở hữu tư nhân về đất đai. Mỗi 
chủ sở hữu chỉ được sở hữu tối đa 10 mẫu 
ruộng (riêng đại vương, trưởng công chúa... 
được miễn trừ), số ruộng dôi ra cũng như số 
ruộng không chịu kê khai nếu bị phát hiện sẽ 
thuộc sở hữu công của nhà nước. Chính sách 
này đã làm tăng số lượng ruộng đất thuộc sở 
hữu nhà nước, đồng thời là cơ sở cho chính 
sách hạn nô. Hạn nô là hạn chế số gia nô 
của mỗi quý tộc, nhằm kiểm soát số đinh 
và ngăn chặn tình trạng nông nô hóa nông 
dân đang có xu hướng phát triển thời kỳ 
đó. Chính sách cải cách thuế khóa với mục 
đích tăng cường sự đóng góp của tầng lớp 
trung lưu, giảm bớt cho người nghèo như: 
tăng thuế đối với ruộng đất tư, tăng giảm 
mức thuế đối với từng loại đất tùy thuộc vào 
tính chất sử dụng, như giảm thuế chung với 
ruộng bãi dâu, chia ruộng bãi dâu để đánh 
thuế theo từng mức cao thấp khác nhau tùy 
thuộc vào ruộng xấu hay tốt, chỉ thu thuế 
đinh với những người có ruộng, còn lại nếu 
không có ruộng thì miễn chứ không thu 
đồng loạt như thời trước, đối với đàn bà góa, 
trẻ mồ côi thì không phải đóng thuế. Ngoài 
ra, nhà Hồ còn có chính sách đảm bảo an 
ninh lương thực quốc gia bằng cách cho xây 
dựng các kho "thường bình" ở địa phương, 
cấp tiền để mua lương thực dự trữ khi giá hạ, 
và bán ra khi giá lên để ổn định giá lương 
thực cho người dân...
Những chính sách cải cách của nhà 
Hồ, dù còn dang dở, chưa được lòng dân, 
các thế lực hưởng lợi chủ yếu vẫn là họ hàng 
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
17Số 8(360) T4/2018
tôn thất nhà Hồ và tầng lớp phong kiến có 
của, nhưng cũng không thể phủ nhận việc 
nhà Hồ đã nhận thức được nguyên nhân cuộc 
khủng hoảng kinh tế, chính trị của nhà Trần, 
nhận thức được vai trò của nhà nước trong 
việc xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật, 
tiến hành các cuộc cải cách để phát triển 
kinh tế đất nước, ổn định đời sống nhân dân. 
Các cuộc cải cách kinh tế mà nhà Hồ đề ra 
và bước đầu thực hiện cho thấy tư tưởng về 
trách nhiệm của nhà nước, của người quản 
lý trong việc hoạch định chính sách, pháp 
luật nhằm phát triển kinh tế đất nước, duy 
trì trật tự xã hội: nhà nước, chứ không phải 
chủ thể nào khác, phải là chủ thể chủ yếu có 
trách nhiệm định hướng, giải quyết các công 
việc trọng đại của quốc gia.
1.3 Triều Hậu Lê (đầu thế kỷ XV đến 
đầu thế kỷ XVI)
Triều Hậu Lê được xem là triều đại có 
đời sống pháp luật phong phú nhất. Ngay từ 
thời Lê Thái Tổ, cùng với việc kiện toàn bộ 
máy nhà nước, việc xây dựng pháp luật đã 
rất được chú trọng. Pháp luật chính là thứ 
“để cho lớn nhỏ cùng ràng buộc nhau, khinh 
trọng cùng kiểm chế nhau. Uy quyền không 
bị lợi dụng, thế nước vậy là khó lay. Thành 
thói quen theo đạo giữ phép, không có lỗi 
trái nghĩa phạm hình”13. Pháp luật được phát 
huy vai trò một cách tối đa trong đời sống, 
hệ thống các văn bản pháp luật được ban 
hành chiếm số lượng đáng kể, hình thức đa 
dạng, như: Bộ Quốc triều hình luật (Bộ luật 
Hồng Đức, 1428), bộ Luật thư do Nguyễn 
Trãi biên soạn (1440), Bộ Lê triều quan chế 
(1471), Thiên Nam dư hạ tập (1483), Hồng 
Đức thiện chính thư (1470), Quốc triều 
khám tụng điều lệ (1777), cùng hàng trăm 
văn bản pháp luật đơn hành như chiếu, chỉ, 
dụ, sắc, lệnh của nhà vua được ban hành.
Pháp luật, trong đời sống pháp lý của 
nhà Lê đã thực sự trở thành công cụ để quản 
lý đất nước, là phương tiện cao nhất để bảo 
vệ quyền, lợi ích chính đáng của con người, 
13 Viện Sử học, Lê triều quan chế, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1997, tr. 13-14
trật tự xã hội. Việc tuân thủ và thực thi pháp 
luật nghiêm minh được xem là thước đo đối 
với chất lượng của hệ thống quan chức thừa 
hành công vụ nhà Lê.
Hầu hết các quan hệ xã hội quan trọng 
đều được nhà Lê quy tắc hóa. Trong đó, 
nhiều quan hệ xã hội được điều chỉnh theo 
hướng bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của 
con người. Pháp luật thời kỳ này còn dung 
hòa được các quy tắc quản lý xã hội với 
phong tục tập quán, truyền thống của dân 
tộc. Pháp luật hình sự dù có hệ thống các 
hình phạt nghiêm khắc, nhưng vẫn thể hiện 
tinh thần nhân đạo khi đã bước đầu phân 
biệt được lỗi cố ý, vô ý trong quá trình xác 
định tính chất của hành vi cũng như truy cứu 
trách nhiệm hình sự; đề cao nguyên tắc "vô 
luật bất hình"; nhân đạo với nhóm người yếu 
thế trong xã hội, như miễn giảm trách nhiệm 
đối với người già, trẻ em, phụ nữ có thai, 
người tàn tật; trường hợp quan lại bạo hành, 
tra tấn, ngược đãi tù nhân bị nghiêm trị.
Trong lĩnh vực dân sự, pháp luật triều 
Lê đã thể hiện những điểm tiến bộ khi quy 
định về sở hữu, thừa kế, hợp đồng. Trong 
thừa kế, pháp luật đã ghi nhận cả quyền thừa 
kế của con gái, con nuôi, người vợ; trong lao 
động, phụ nữ được trả công ngang bằng với 
đàn ông: "không có sự phân biệt về tiền công 
nhật cho lao động đàn ông với đàn bà" (Điều 
23 Quốc triều hình luật). Đây được xem là 
những điểm tiến bộ vượt bậc của pháp luật 
Hậu Lê, khi đã vượt ra khỏi định kiến Nho 
giáo "trọng nam khinh nữ" thông thường.
Trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình, 
pháp luật Hậu Lê đã đặc biệt bảo vệ quyền 
lợi của người phụ nữ: họ được đảm bảo 
quyền về tài sản, có quyền có tài sản riêng; 
có quyền được bảo vệ hôn nhân; quyền được 
ly dị khi quyền lợi chính đáng bị xâm hại...
Trong lĩnh vực tố tụng, pháp luật Hậu 
Lê có sự phát triển vượt bậc. Các quy định tố 
tụng không chỉ được quy định tại hai chương 
Bộ vong và Đoán ngục của Bộ Quốc triều 
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
18 Số 8(360) T4/2018
hình luật, mà còn được quy định trong riêng 
một bộ luật tố tụng là Bộ Quốc triều khám 
tụng điều lệ. Ở góc độ tích cực nhất, pháp 
luật tố tụng Hậu Lê, đặc biệt trong là Bộ 
Quốc triều Khám tụng điều lệ, đã có những 
tư tưởng cơ bản về liêm chính tư pháp. Thể 
hiện ở việc, Bộ luật đề cao ý thức trách 
nhiệm, lương tâm nghề nghiệp của các cán 
bộ tư pháp trong việc tôn trọng và bảo vệ 
quyền con người, bảo vệ công lý như: yêu 
cầu cán bộ tư pháp giải quyết các vấn đề tố 
tụng phải trên tinh thần bảo vệ được cao nhất 
các lợi ích hợp pháp của các bên liên quan; 
các hành vi xâm hại đến quyền con người 
từ phía cán bộ tư pháp đều bị nghiêm trị 
(Lệ về khám tụng). Bộ luật cũng chứa đựng 
tinh thần đấu tranh chống tham nhũng, bảo 
đảm sự trong sạch của tư pháp khi quy định 
rõ ràng các vấn đề liên quan đến các loại 
án phí, có nhiều quy định nhằm hạn chế sự 
nhũng nhiễu từ phía cán bộ tư pháp (Lệ về 
tróc bắt, Lệ về tiền tạ đảm). Đặc biệt, đã có 
những đảm bảo cho liêm chính tư pháp khi 
bước đầu có cơ chế bảo đảm sự độc lập của 
các chủ thể tham gia tố tụng; bước đầu có cơ 
chế đảm bảo năng lực tiếp cận công lý cho 
người dân nhằm thúc đẩy trách nhiệm của 
cơ quan tư pháp. Cụ thể, đã có những quy 
định về thời hạn, thời hiệu khởi kiện, cách 
thức nộp đơn, cách thức khởi kiện, chống 
án, cách thức kiểm tra, ghi bản án, cách thức 
công khai bản án, quyết định sau khi xét xử; 
cách thức soát tụng của cơ quan tư pháp cấp 
trên với cấp dưới (Lệ soát tụng, Lệ kiện tụng 
sự ức hiếp, Lệ về tróc bắt)... 
Pháp luật tạo cơ chế kiểm soát bộ máy 
nhà nước, quy định trách nhiệm của quan 
lại trong thừa hành công vụ. Việc kiểm soát, 
hạn chế lạm quyền, tiếm quyền trong tổ 
chức, hoạt động của bộ máy nhà nước là tư 
tưởng chủ đạo của pháp luật thời Hậu Lê, 
nhất là ở triều đại Lê Thánh Tông. Kiểm soát 
quyền lực vừa là phương tiện, vừa là mục 
đích trong tổ chức và vận hành quyền lực 
nhà nước. Nhà Hậu Lê đã xây dựng một cơ 
chế người đứng đầu nhà nước trực tiếp điều 
hành, kiểm soát quyền lực nhà nước, hạn 
chế khâu trung gian bằng cách bỏ các chức 
như tể tướng, đại hành khiến. Các cơ quan 
quản lý được chuyên môn hóa và luôn có 
sự giám sát, kiểm soát, ràng buộc quyền lực 
hữu hiệu với nhau. Điển hình có thể kể đến 
hai thiết chế cơ bản là Lục Khoa giám sát 
Lục Bộ và Ngự sử đài giám sát quan lại cùng 
phong hóa pháp độ của triều đình. Trong quá 
trình áp dụng pháp luật, đề cao trách nhiệm 
cá nhân và đạo đức công vụ của người áp 
dụng pháp luật, đảm bảo thẩm quyền, thời 
hạn và trình tự áp dụng pháp luật, đề cao 
tính chính đáng và hợp pháp của quyết định 
áp dụng pháp luật thông qua việc quy định 
chặt chẽ thời hạn, cách thức áp dụng, cách 
thức ghi bản án... Đặc biệt, nhà Hậu Lê có 
cơ chế hạn chế quyền lực của chính nhà 
vua - bằng các hình thức như lập cơ quan 
can gián, quy định không sử dụng các quyết 
định nhất thời của Vua như tiền lệ...
Trong các bộ luật cơ bản của nhà Hậu 
Lê, trách nhiệm quan lại luôn được quy định 
dưới hai hình thức: một là, trách nhiệm công 
vụ; hai là, trách nhiệm pháp lý. Quan lại 
luôn phải có sự chính trực, mẫn cán, vô tư 
trong quá trình thực thi công vụ, đồng thời 
luôn phải chịu dự liệu sẵn các hậu quả pháp 
lý bất lợi và sẽ bị áp dụng nếu như vi phạm. 
Tư tưởng đề cao vai trò của nhà nước 
trong việc tổ chức thực hiện pháp luật, bảo 
vệ quyền lợi Nhân dân. Theo Lê Thánh 
Tông: “Lễ nghĩa để sửa tốt lòng dân, nông 
tang để có đủ cơm áo, hai việc cần kíp ấy của 
chính sự là chức trách của các thú mục”. 
Các chính sách của nhà nước do đó đều trực 
tiếp, gián tiếp phải liên quan đến việc thực 
hiện mục tiêu Nhân dân no ấm, yên bình. 
Trách nhiệm của các thừa hiến phủ, huyện 
châu các xứ là “phải bỏ hết tệ trước, phàm 
sắc lệnh của triều định phải một lòng vâng 
làm, Nhân dân bị đói rét phải nhiều cách 
kinh lý”. Nhà nước phải nhận thức được “Để 
dân được no ấm, cần bớt sự trưng thuế và 
cung ứng”; phải khuyến khích dân việc canh 
nông, đắp đê, giữ nước, bồi bổ ruộng đất, 
định lệ bồi đắp ruộng đất phù hợp với đồng 
chiêm, đồng mùa để “tiện cho dân", để cho 
dân khỏi đói khổ... 
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
19Số 8(360) T4/2018
Nhà nước chính là chủ thể phải đảm 
bảo tính công khai, minh bạch của pháp luật: 
“Từ nay về sau, phàm có các chỉ, các lệ về 
việc lớn nhỏ thì bộ phụ trách, xứ ty và các 
nha môn phủ huyện châu đều biên ra bảng 
treo dán lên, để cho nhân dân tuân theo mà 
làm”14. Pháp luật phải được xây dựng phù 
hợp với đạo đức, phải là công cụ để bảo vệ 
đạo đức: “Lấy pháp luật mà trị tội, sao bằng 
lấy phép mà bảo trước”15, “Người ta sở dĩ 
khác giống cầm thú là vì có lễ để phong giữ. 
Nếu không có lễ thì bừa bãi tình dục, phóng 
đãng xằng bậy, không gì không làm.”16 
Để pháp luật phát huy được các giá trị 
tự thân của nó, các hành vi vi phạm pháp 
luật phải bị xử lý thật thích đáng, bất kể kẻ vi 
phạm pháp luật ở địa vị nào, và nhiệm vụ đó 
nhà nước phải đảm bảo: “Đặt luật là để trừ 
kẻ gian, sao dung được bọn coi thường pháp 
luật”, “Quân pháp chỉ có một chứ không có 
hai”17. Thực tế chứng minh, vua Lê Thánh 
Tông đã cho xử lý rất nặng đối với các vụ 
việc mà người vi phạm là các quan chức của 
nhà nước. Người thi hành pháp luật là cần 
phải tuân thủ pháp luật trước tiên, cho nên, 
thời hạn phải đưa một vụ việc vi phạm pháp 
luật ra xử lý được quy định rất cụ thể; đặc 
biệt, đối với những trường hợp các cá nhân, 
cơ quan nhà nước có thẩm quyền gây ra oan 
ức cho người bị áp dụng đều có quy định 
hướng dẫn cách giải quyết và chế tài xử lý 
nghiêm khắc.
Nhà Hậu Lê cũng thường đề cập đến 
tính công khai, minh bạch cần phải có của 
pháp luật: “Từ nay về sau, phàm có các chỉ, 
các lệ về việc lớn nhỏ thì bộ phụ trách, xứ 
ty và các nha môn phủ huyện châu đều biên 
ra bảng treo dán lên, để cho nhân dân tuân 
theo mà làm”18. Pháp luật còn phải phù hợp 
với đạo đức, phải là công cụ để bảo vệ đạo 
14 Ngô Sĩ Liên, Sđd, tr.667
15 Ngô Sĩ Liên, Sđd, tr.633
16 Ngô Sĩ Liên, Sđd, tr.652
17 Ngô Sĩ Liên, Sđd, tr.622
18 Ngô Sĩ Liên, Sđd, tr.667
19 Ngô Sĩ Liên, Sđd, tr.633
20 Ngô Sĩ Liên, Sđd, tr.652
đức: “Lấy pháp luật mà trị tội, sao bằng 
lấy phép mà bảo trước”19, “Người ta sở dĩ 
khác giống cầm thú là vì có lễ để phong giữ. 
Nếu không có lễ thì bừa bãi tình dục, phóng 
đãng xằng bậy, không gì không làm.”20 Việc 
tôn trọng pháp luật được nhà Hậu Lê yêu 
cầu trở thành một thói quen, lối sống của 
mọi người.
1.4 Triều Nguyễn (1832-1884)
Là triều đại cuối cùng trong lịch sử 
phong kiến Việt Nam, trên tinh thần kế thừa 
những thành tựu của triều đại trước, Triều 
Nguyễn đã xây dựng một hệ thống chính 
quyền, cùng hệ thống pháp luật có quy mô 
lớn. Nhằm xây dựng một nền quân chủ 
chuyên chế với quyền lực tập trung vào nhà 
Vua, một bộ máy hành chính mạnh, đất nước 
ổn định, phát triển, nhà Nguyễn càng ý thức 
rõ vai trò của pháp luật trong đời sống. Công 
tác xây dựng pháp luật được nhà Nguyễn 
chú trọng, với các thành tựu điển hình như: 
Bộ Hoàng Việt luật lệ (1815), Hội điển toát 
yếu (1833), Khâm định Đại Nam hội điển sự 
lệ (1843-1855), Minh Mệnh chính yếu, Đại 
Nam điển lệ toát yếu...
Hệ thống pháp luật triều Nguyễn đã 
tạo cơ sở cho quá trình điều chỉnh các quan 
hệ xã hội thuộc hầu hết các lĩnh vực trên 
toàn lãnh thổ Việt Nam. Tư tưởng đề cao 
pháp luật của triều Nguyễn, bên cạnh không 
ít điểm tương đồng với các triều đại trước, là 
các biểu hiện cơ bản như: phải kết hợp đức 
trị và pháp trị trong quá trình quản lý nhà 
nước, chú trọng nhất định đến các tập quán, 
phong tục của làng xã Việt Nam; pháp luật 
quy định và bảo vệ quyền lợi của nhân dân; 
là phương tiện quan trong trong chế ước, 
hạn chế, kiểm soát quyền lực nhà nước.
- Đề cao tư tưởng pháp trị kết hợp đức 
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
20 Số 8(360) T4/2018
trị trong quản lý xã hội. Pháp luật, với hệ 
thống hình phạt, theo quan điểm nhà Nguyễn 
không những để “răn dạy kẻ ác”, “tru diệt 
lòng tham”, mà còn là yếu tố chi phối hành 
động của nhà vua, quan lại, là “phép nước”, 
tránh việc “giấu diếm tư lợi”, để “nghiêm 
trị không tha” những hành vi vi phạm. Pháp 
luật còn mang tính giáo dục “Hình phạt là 
một công cụ dùng để giáo hóa”21, pháp luật 
phải mang nội dung nhân đạo, chứa đựng 
các quy định thưởng phạt rõ ràng, để tác 
động vào ý thức của dân, để dân tự giác thực 
hiện pháp luật. Pháp luật không chỉ “hợp 
với đời xưa” mà còn phải “châm chước việc 
đời nay”. 
Các lĩnh vực quan hệ pháp luật trong 
Bộ luật Gia Long, dù được đánh giá không 
kế thừa hoàn toàn những tiến bộ của bộ luật 
Hồng Đức, nhưng cũng thể hiện rõ tinh thần 
nhân đạo, kết hợp pháp trị, đức trị, phong 
tục, tập quán dân tộc. Như trong lĩnh vực 
hình sự, đã quy định rõ hơn các nguyên tắc 
cơ bản, đã có sự phân định rõ các loại tội 
phạm để tiện cho việc xem xét trách nhiệm 
pháp lý, các nguyên tắc chiếu cố đối với 
nhóm người yếu thế phạm tội vẫn được duy 
trì. Lĩnh vực dân sự đã có sự phát triển nhất 
định khi quy định cụ thể hơn về việc xác 
định chủ sở hữu liên quan đến nhặt được 
của rơi, đồ chôn giấu (Điều 136 Bộ luật Gia 
Long); về hợp đồng, về trách nhiệm dân sự 
đã có phân loại cụ thể, phù hợp với các tiêu 
chuẩn đạo đức của xã hội (do vi phạm khế 
ước, do gây thiệt hại, do hành vi phạm tội); 
nhiều trường hợp chia thừa kế, Bộ luật Gia 
Long vẫn cho phép theo "luật cũ" mà xử.
Trong lĩnh vực tố tụng, pháp luật triều 
Nguyễn có đã có sự chuyên môn hóa khi 
toàn bộ quá trình giải quyết vụ án từ nhận 
đơn, điều tra, khám nghiệm, giam giữ, xét 
xử, thi hành án đều thuộc quyền của một nha 
môn. Các cấp xét xử đã được phân rõ ràng; 
đã bước đầu có sự phân định thẩm quyền xét 
xử theo loại vụ việc (việc dân và việc quân). 
Trách nhiệm của các cơ quan trong quá trình 
21 Quốc Quốc sử quán triều Nguyễn, Sđd, tr.333
tố tụng được quy định rõ nhằm hướng đến 
việc giải quyết nhanh chóng, hiệu quả vụ 
việc. Các thủ tục bắt người, giam giữ, khảo 
cung, xét xử, thi hành án đều có quy định rõ. 
Đặc biệt, pháp luật triều Nguyễn quy định 
trách nhiệm của quan lại trong tố tụng rất 
nghiêm khắc. Quan án sẽ bị nghiêm trị khi 
để lọt tội phạm, làm oan sai hoặc vi phạm 
công lý, xâm phạm đến quyền con người; 24 
trường hợp về sự thêm bớt được quy định 
làm căn cứ để định tội quan án; đặc biệt, 
quan án có trách nhiệm phải biện minh cho 
tội nhân nếu như nhận thấy vụ việc có minh 
chứng có thể chứng minh tội nhân bị oan, 
nếu không thực hiện trách nhiệm này sẽ bị 
xử như tội cố ý thêm tội cho người khác...
- Đề cao vai trò của người thực thi 
pháp luật. Pháp luật muốn thực sự có hiệu 
quả, cần phải được sử dụng một cách thấu 
tình đạt lý, người sử dụng pháp luật phải có 
độ linh hoạt nhất định. Bởi bản thân pháp 
luật, vốn đã khắc nghiệt vì vẫn được đánh 
đồng với hình luật ở thời bấy giờ, lại còn 
thường lạc hậu vì “Luật theo ý đời xưa, 
mà lệ lại châm chước việc đời nay, thay 
đổi biến thông, không thể như keo gắn cột 
mà cố định được”, do đó, nhà Nguyễn đã 
chủ trương khoan dung trong việc thi hành, 
không quá cứng nhắc, quá phụ thuộc và các 
quy định cụ thể của pháp luật, mà “tình cũng 
nên thương, nếu theo đúng luật mà xử tử, thì 
đâu phải ý nghĩ thương xót được, cho phép 
tâu để giảm tội phạt”. Hình phạt là thứ làm 
cho dân sợ nhưng cái làm cho dân “biết hổ 
thẹn mà đổi lỗi” chính là “đức hạnh” được 
“dẫn đạo” đến nơi đến chốn. Pháp luật trong 
đời sống phải được thực thi đồng thời với 
các chính sách hợp lý của nhà nước. Không 
thể chỉ trông chờ vào sự nghiêm khắc của 
hình phạt do nhà nước độc quyền thi hành, 
mà cần phải có sự hỗ trợ của toàn xã hội, của 
mỗi người dân trong việc tố cáo tội phạm, 
chủ động bảo vệ quyền và lợi ích của mình 
trên cơ sở sự hỗ trợ kịp thời về vật chất của 
nhà nước “tiền của triều đình cốt để giữ dân, 
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
21Số 8(360) T4/2018
sau khi việc trộm cướp phát ra, sự chi phí 
không ít, sao bằng dự tính cách treo giải 
thưởng cho mọi người đều ra sức dò bắt, để 
có hiệu quả hết trộm yên dân”. Áp dụng hình 
phạt phải đúng người đúng tội, trách nhiệm 
phải được đặt ra trực tiếp đối với người có 
hành vi vi phạm, không có chuyện chịu tội 
thay như trước “người làm ra tội, phải chịu 
hình phạt, nếu mỗi việc, mỗi người cho thay 
nhau chịu tội thì ra tha kẻ phạm tội, mà phạt 
đứa vô can”22. Trách nhiệm trước pháp luật 
phải được đặt ra đối với mọi trường hợp, bất 
kể người thực hiện hành vi vi phạm đó là ai: 
“nếu vì con em mà không áp dụng pháp luật, 
thời lấy gì làm gương cho mọi người”. 
- Đề cao quyền lợi của Nhân dân. 
Trong hệ tư tưởng của nhà Nguyễn, tình 
yêu thương Nhân dân, tinh thần tôn trọng 
Nhân dân, được thể hiện khá đa diện, trước 
hết “Dân là gốc nước. Dân không yêu mến 
thì ngươi có thể hưởng giầu sang mãi được 
không?”. Từ quan niệm Nhân dân là nền 
tảng, là hạt nhân xây dựng nên nước, Minh 
Mệnh đã đi đến nguyên tắc “trị nước lấy 
được lòng dân làm gốc”, bản thân thấy mình 
phải hóa thân vào dân, đặt mình vào địa vị, 
tình cảm của dân “yêu cái dân yêu, ghét cái 
dân ghét” “người làm chính trị không thể 
trái ý muốn của dân”23. Từ việc nhận thức 
đúng vai trò của quần chúng nhân dân, Minh 
Mệnh xác định và hướng đến giải quyết một 
vấn đề mang tính bản ngã luận đó là: “Dân 
lấy việc ăn làm lớn nhất”24, cho nên, mọi 
việc quốc gia đại sự, cuối cùng là để nhân 
dân được no ấm, đây là mục đích sống còn 
và là tiền đề để phát triển đất nước: “Nếu cứ 
ngồi nhìn dân kêu đói thì kho tàng chứa đầy 
để làm gì?”, “Điều đáng lo ấy là lo dân ta 
đói kém thôi”. Do vậy, ông chủ trương phải 
củng cố và phát triển dân sinh “gốc của việc 
dân sinh là làm ruộng, siêng năng cấy gặt, 
thu được mùa to”25.
22 Quốc sử quán triều Nguyễn, Sđd, tr. 352
23 Đại Nam Thực lục chính biên, Sđd, tập IX, tr.67
24 Đại Nam Thực lục chính biên, Sđd, Tập XII, tr. 91
25 Quốc sử quán triều Nguyễn, Sđd, tập 2, tr. 61
26 Vũ Thị Phụng, Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2007, tr.135
- Pháp luật là đại lượng cơ bản để chế 
ước, hạn chế, kiểm soát quyền lực nhà nước. 
So với thời Hậu Lê, việc chế ước, kiểm soát 
quyền lực được nhà Nguyễn phát triển và 
thi hành triệt để hơn với các thiết chế hoàn 
thiện hơn. Các cuộc cải cách đã diễn ra khá 
triệt để. Ở Trung ương, Minh Mệnh quy 
định cụ thể về chế độ, chức trách của quan 
lại, về nhiệm vụ cơ bản của 6 bộ, quy định 
cụ thể 6 khoa (do cấp sự trung đứng đầu) 
tương ứng bên cạnh 6 bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh, 
Hình, Công) và 6 tự (do tự khanh đứng 
đầu). Đây là các cơ quan chịu trách nhiệm 
trực tiếp trước vua. Hai cơ quan giúp việc 
quan trọng cho vua là Viện Cơ mật và Nội 
các (dưới thời Gia Long là Văn thư phòng) 
vẫn được duy trì. Đặc biệt, ở trung ương, tổ 
chức các cơ quan cao cấp là Đô sát viện phụ 
trách việc kiểm sát (phát hiện, tâu lên vua 
những việc làm của các bộ không đúng quy 
tắc, lễ nghi, có quyền buộc tội những việc 
làm không đúng của hoàng thân và quan lại 
ở trung ương và địa phương26) và Đại lý tự 
phụ trách việc xét xử, hai cơ quan này kết 
hợp với bộ Hình thành Tam pháp ty. Tam 
pháp ty có trụ sở là Công chính đường với 
nhiệm vụ là nhận đơn, bàn luận và trình vua, 
sau khi có chỉ thị của vua thì phân bổ việc thi 
hành cho các cơ quan tương ứng. Bên cạnh 
các cơ quan này, còn có những viên quan 
khâm sai, kinh lược làm nhiệm vụ thanh tra 
tình hình ở các địa phương để phục vụ nhà 
vua trong việc cai trị đất nước.
Tuy không hoàn toàn giống nhau, 
nhưng tựu chung lại, các triều đại phong 
kiến Việt Nam đều đã nhận thấy vai trò to 
lớn của pháp luật, đều xem pháp luật là công 
cụ quan trọng để xây dựng, tổ chức và vận 
hành bộ máy chính quyền; bảo vệ quyền, lợi 
ích của nhân dân và đặc biệt là kiểm soát, 
nâng cao hiệu quả thực hiện quyền lực nhà 
nước, nâng cao trách nhiệm của đội ngũ 
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
22 Số 8(360) T4/2018
quan lại trong quá trình thực thi công vụ. 
Vậy, những yếu tố nào được xem là có vai 
nền tảng của tư tưởng chính trị pháp lý này?
2. Nền tảng tư tưởng đề cao pháp 
luật của các triều đại phong kiến 
Việt Nam 
Việc nhận thức, đề cao vai trò của 
pháp luật trong các triều đại phong kiến Việt 
Nam không phải trong một sớm một chiều, 
mà được bồi đắp, tác động từ không ít các 
yếu tố mang tính nền tảng như:
- Bối cảnh chính trị, kinh tế - xã hội 
Đại Việt sau khi giành chính quyền độc lập, 
tự chủ và yêu cầu khách quan trong quản lý, 
phát triển đất nước của các triều đại phong 
kiến Việt Nam.
Chiến thắng Bạch Đằng lừng lẫy năm 
938 đã mở ra cho dân tộc Việt Nam một 
thời kỳ mới: thời kỳ xây dựng, bảo vệ và 
phát triển chính quyền phong kiến tự chủ, 
độc lập. Tuy nhiên, sau hơn 1.000 năm Bắc 
thuộc, di sản để lại cho Đại Việt không chỉ 
là sự lạc hậu, kém phát triển về kinh tế, sự 
phức tạp, lai nhập về văn hóa, nguy cơ ngoại 
xâm vẫn luôn rình rập mà còn là cả hệ thống 
các quan hệ xã hội đa dạng, mâu thuẫn, xu 
hướng cát cứ phát triển. 
Công việc trọng đại mà các nhà nước 
buổi đầu tự chủ phải gánh vác là bằng mọi 
giá giữ vững độc lập, tự chủ, từng bước xây 
dựng nhà nước quân chủ trung ương tập 
quyền, xây dựng nền văn hóa mang tính dân 
tộc. Các lĩnh vực quan hệ xã hội cần được 
điều chỉnh theo hướng tăng cường sự thống 
nhất, đoàn kết các thành phần dân cư trong 
xã hội, nhằm tập trung và phát huy được cao 
nhất sức mạnh toàn dân trong việc giành và 
giữ chính quyền. Kế đó, quyền lực nhà nước 
phải được duy trì trên cơ sở tập trung sức 
mạnh vào Nhà vua và chính quyền triều đình 
trung ương, nhằm từng bước trấn áp và hạn 
chế các thế lực phong kiến cát cứ, xây dựng 
một xã hội có trật tự, kỷ cương đáp ứng nhu 
cầu và nguyện vọng của Nhân dân - những 
con người vốn đã cùng các triều đại nếm 
mật, nằm gai trong quá trình đánh đuổi giặc 
ngoại xâm.
Bên cạnh đó, là áp lực trong việc thực 
hiện các chức năng xã hội của Nhà nước như 
đắp đê, trị thủy, khắc phục những hạn chế 
do yếu tố địa hình ven biển, dốc, nhiều sông 
ngòi mang lại. Theo đó, công việc đắp đê trị 
thủy và chống giặc ngoại xâm là những chức 
năng thường xuyên và đặc biệt quan trọng 
của Nhà nước Việt Nam. Muốn thực hiện 
được các chức năng xã hội quan trọng này, 
phải tập hợp được sức mạnh của đông đảo 
quần chúng. Nhà nước phải trở thành một 
chủ thể thay mặt xã hội, đại diện cho toàn 
thể xã hội để giải quyết các vấn đề trọng đại 
đó trên cơ sở sự ủng hộ, đồng lòng của Nhân 
dân. Vậy nên, nhiều nhà nước phong kiến 
đã lấy việc đảm bảo sự đồng thuận, niềm 
tin trước Nhân dân thành một mục tiêu của 
Nhà nước. Nhân dân trở thành chủ thể để 
đánh giá về hiệu quả hoạt động của Nhà 
nước. Việc hiện thực hóa các chức năng xã 
hội trở thành một áp lực lên Nhà nước. Do 
đó, Nhà nước không thể không tính đến các 
cách thức để tăng cường hiệu quả hoạt động 
đồng thời kiểm soát và hạn chế sự lạm dụng 
quyền lực. 
Và chỉ có pháp luật, với các đặc trưng 
vốn có của nó, mới thực sự là công cụ cơ bản 
giúp các triều đại tổ chức lại xã hội, đồng 
thời giải quyết tất cả các yêu cầu khách quan 
của xã hội Đại Việt những ngày đầu dựng 
nước, bảo vệ chính quyền. 
- Sự thấm nhuần lý thuyết Đức trị và 
Pháp trị trong quá trình cai trị của các triều 
đại phong kiến 
Nho giáo (đức trị), với các tư tưởng 
dân vi bản, tôn quân quyền, pháp tiên vương, 
hay chính danh đã là những tiền đề quan 
trọng cho tổ chức và hoạt động của bộ máy 
nhà nước. Pháp giáo (pháp trị) là tư tưởng 
cai trị, quản lý nhà nước bằng pháp luật, 
pháp luật là công cụ làm nên trật tự và bình 
đẳng trong xã hội. Bậc làm vua phải thâu 
tóm quyền lực nhà nước bằng các thuật của 
mình trong các lĩnh vực như tổ chức bộ máy 
nhà nước, kiểm tra giám sát, thưởng phạt, 
dùng người... để có thể đảm bảo cho pháp 
luật được thi hành trong cuộc sống. 
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
23Số 8(360) T4/2018
Quá trình vận dụng các lý thuyết Đức 
trị và Pháp trị của Trung Quốc đã cho thấy 
những hạn chế của chính chúng nếu vận 
dụng đơn lẻ, máy móc vào xã hội. Nho giáo 
với chủ trương đức trị đã không thể điều hòa 
nổi những mâu thuẫn khốc liệt trong xã hội 
Tây Chu do phân phong ruộng đất và cát cứ; 
ngược lại, sự tàn bạo, hà khắc của lý thuyết 
pháp trị được vận dụng triệt để trong nhà 
Tần đã làm cho nhà Tần nhanh chóng bị diệt 
vong, lý thuyết pháp trị bị nghi ngờ. Điều 
này được nhà Đông Hán, và hầu hết các 
triều đại tiếp sau của Trung Quốc rút kinh 
nghiệm, tiến hành chính sách cai trị mềm 
dẻo, có sự kết hợp cả hai yếu tố Đức trị và 
Pháp trị. 
Dân tộc Đại Việt nằm dưới ách cai 
trị của các triều đại Trung Quốc hơn 10 thế 
kỷ, nên đã vừa thụ động, vừa chủ động tiếp 
nhận các lý thuyết cai trị này. Và theo thời 
gian, sự kết hợp Đức trị với Pháp trị trong 
quá trình xây dựng, bảo vệ và phát triển đất 
nước đã được thấm nhuần, vận dụng đầy 
sáng tạo, linh hoạt trong đời sống pháp lý 
của các vương triều phong kiến Việt Nam. 
Có thể thấy, đặc biệt là ở triều Hậu Lê, triều 
Nguyễn, Đức trị và Pháp trị đã trở thành nền 
tảng tư tưởng của nhà nước trong quá trình 
quản lý xã hội, chi phối mọi quan hệ cơ bản 
trong xã hội, từ cách thức tổ chức và hoạt 
động của bộ máy nhà nước, tiêu chuẩn, đến 
cơ chế chịu trách nhiệm của những người 
thừa hành công vụ,... Đây cũng chính là yếu 
tố tác động đến quan niệm về nội dung cũng 
như cách thức vận hành, sử dụng pháp luật 
trong thực tiễn của pháp luật phong kiến 
Đại Việt.
- Sự ảnh hưởng mạnh mẽ của các 
phong tục, tập quán, truyền thống đạo lý 
tốt đẹp của dân tộc Việt Nam trong đời sống 
pháp lý.
Dễ nhận thấy, nội dung của pháp luật 
phong kiến Việt Nam không chỉ là các quy 
tắc, mà còn thể hiện sự kết hợp, tôn trọng, 
phát huy tác dụng điều chỉnh của các phong 
tục, tập quán, truyền thống đạo lý tốt đẹp 
của dân tộc Việt Nam. Điều này do chính 
yếu tố sự ảnh hưởng của các phong tục, tập 
quán, truyền thống đạo lý của dân tộc Việt 
Nam đem đến cho pháp luật. 
Sở dĩ có yếu tố nền tảng này là vì: 
làng, xã Việt Nam là những đơn vị tụ cư tự 
nhiên được hình thành trong quá trình phát 
triển của công xã thị tộc huyết thống. Sự cố 
kết làng xã đã trở thành truyền thống do đặc 
thù sản xuất nông nghiệp lúa nước và yêu 
cầu khách quan của lịch sử dựng nước và 
giữ nước Việt Nam. Các phong tục, truyền 
thống của làng xã mang lại đã giúp giải 
quyết được một phần không nhỏ các quan hệ 
trong xã hội, đồng thời tạo thành nét riêng 
khác cho pháp luật Việt Nam. Do đó, việc 
pháp luật phong kiến Việt Nam chứa đựng 
và phát huy vai trò của phong tục, tập quán 
là một cách để giai cấp thống trị nâng cao 
chất lượng của pháp luật. Đồng thời, thông 
qua đó, chính quyền phong kiến muốn kiểm 
soát, hạn chế quyền lực nhà nước, đặc biệt ở 
cấp xã nhằm thay đổi thực tế này. 
3. Giá trị hiện đại của tư tưởng đề cao 
pháp luật trong quản lý nhà nước và 
xã hội 
Trước hết giá trị từ quan niệm pháp 
luật là đại lượng cơ bản để bảo vệ quyền, 
lợi ích chính đáng của người dân, bảo đảm 
quyền con người. Tư tưởng này đã có tác 
động nhất định lên cách thức tổ chức và 
hoạt động của bộ máy nhà nước trong lịch 
sử. Pháp luật đề cao trách nhiệm của Nhà 
nước trong việc đảm bảo quyền và lợi ích 
của Nhân dân, xem việc chăm lo, bảo vệ 
nhân dân là mục đích cao nhất trong hoạt 
động của nhà nước. Theo đó, mọi chính sách 
pháp luật cần phải xuất phát từ con người, 
hướng đến bảo vệ con người; việc xây dựng 
chính sách, pháp luật phải có sự tham gia 
của Nhân dân. 
Tư tưởng quản lý nhà nước, xã hội 
bằng pháp luật kết hợp với đạo đức mà 
không ít triều đại trong lịch sử phong kiến 
Việt Nam đã thực hành cũng là một định 
hướng quan trọng trong quá trình quản lý 
xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền. Tư 
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
24 Số 8(360) T4/2018
tưởng này không chỉ có giá trị ở chỗ nó đề 
cao sự kết hợp hài hòa giữa pháp luật và đạo 
đức trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, 
ở yêu cầu về các giá trị đạo đức trong pháp 
luật mà còn nhấn mạnh đến các "khoảng 
trống" cần thiết mà pháp luật cần phải có để 
đạo đức có thể phát huy hết vai trò của nó 
trong đời sống xã hội. Ở một góc độ nào đó, 
đây cũng chính là yêu cầu về việc mở rộng 
phạm vi trách nhiệm thụ động của Nhà nước 
trước việc hiện thực hóa các quyền cơ bản 
của con người.
Pháp luật phải là công cụ cơ bản để 
hạn chế, kiểm soát và giám sát quyền lực 
nhà nước. Tư tưởng hiện đại này đã được 
thể hiện khá cụ thể trong không ít triều đại 
phong kiến Việt Nam. Hạn chế, kiểm soát 
quyền lực để chống lạm quyền, tiếm quyền, 
nâng cao hiệu quả hoạt động của nhà nước 
và cũng chính là để bảo vệ tính thống nhất 
của quyền lực vào Nhân dân. Nhân dân là 
gốc của quyền lực, hay quyền lực nhân dân 
là tối cao chỉ có thể thành hiện thực khi 
quyền lực nhà nước bị hạn chế, kiểm soát. 
Do đó, cách thức tổ chức nhà nước nào có 
lợi cho việc bảo vệ quyền lực nhân dân nhất, 
hạn chế được sự vượt quyền của nhà nước 
nhất sẽ phải là cách thức tổ chức được lựa 
chọn. Nhân dân trao quyền cho các cơ quan 
nhà nước, với các chức năng, nhiệm vụ khác 
nhau, có thể giám sát, kiểm soát được nhau, 
và để cùng thực hiện hiệu quả quyền lực nhà 
nước chính là một yêu cầu mang ý nghĩa 
khách quan.
Tư tưởng đề cao trách nhiệm trực tiếp 
và liên đới của các cơ quan công quyền trong 
quá trình thực hiện quyền lực nhà nước cũng 
là một tư tưởng có giá trị lớn. Hiếm thấy 
trong hệ thống pháp luật thực định nào, vấn 
đề trách nhiệm công vụ, trách nhiệm pháp 
lý cá nhân lại được đề cập mạnh mẽ như 
các triều vua thời đầu Hậu Lê, và thời nhà 
Nguyễn. Hầu hết trong những văn bản pháp 
luật quan trọng như Bộ Quốc triều hình luật, 
27 Quốc triều khám tụng điều lệ, Sđd, tr. 269
Bộ Quốc triều khám tụng điều lệ, bộ Hoàng 
Việt luật lệ, các quy định liên quan đến trách 
nhiệm công vụ đều dự liệu kèm theo trách 
nhiệm pháp lý cá nhân của công chức thừa 
hành nếu vi phạm, thậm chí còn được nhấn 
mạnh như bộ phận chính của quy phạm 
pháp luật. 
Tư tưởng về pháp luật và hoạt động 
thực thi pháp luật tố tụng cũng là một trong 
những tư tưởng có ý nghĩa lớn. Tinh thần 
pháp luật tố tụng mà các triều đại phong 
kiến Việt Nam mang lại, đó là: đã đưa ra 
một hệ các quy tắc tố tụng để cán bộ tư pháp 
chỉ được phép thực hiện trong phạm vi đó, 
không được vượt quá, và phải luôn thể hiện 
trách nhiệm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng 
của con người, đặc biệt là nhóm người yếu 
thế trong tố tụng.
Tinh thần này của pháp luật tố tụng 
thời phong kiến có những điểm vượt thời 
đại, thể hiện ở cả nội dung và cách thức 
xây dựng. Nội dung pháp luật tố tụng đã tập 
trung vào trách nhiệm của nhóm chủ thể có 
thẩm quyền, gồm cả trách nhiệm công vụ và 
trách nhiệm pháp lý. Hai loại trách nhiệm 
này luôn được đặt trong tương quan với 
quyền lợi của các bên tham gia tố tụng, của 
con người nói chung. Các quy định phần lớn 
thiết kế theo mô thức đưa ra cách thức xử sự, 
dự liệu cụ thể chế tài xử lý vi phạm đối với 
các cán bộ tư pháp trong quá trình tố tụng 
như một đảm bảo cho hiệu quả và hiệu lực 
của pháp luật. Sự độc đáo và tài tình này của 
các nhà lập pháp phong kiến, mà điển hình 
là triều Hậu Lê và triều Nguyễn đã làm cho 
pháp luật tố tụng hình sự thực sự mang tinh 
thần pháp quyền, thể hiện đúng thiên chức 
của nó, như lời chỉ dụ của vua Lê Hiển Tông 
khi ban hành Bộ Quốc triều hình luật: “liên 
quan đến việc kiện tụng cốt ở chỗ trong sạch 
và giảm bớt... nhằm dùng chính sự để công 
bằng về lý trong các việc kiện tụng, khiến 
dân có chỗ nương nhờ”27 
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
25Số 8(360) T4/2018
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
tu_tuong_de_cao_phap_luat_trong_cac_trieu_dai_phong_kien_vie.pdf