Tư tưởng về pháp luật và hoạt động
thực thi pháp luật tố tụng cũng là một trong
những tư tưởng có ý nghĩa lớn. Tinh thần
pháp luật tố tụng mà các triều đại phong
kiến Việt Nam mang lại, đó là: đã đưa ra
một hệ các quy tắc tố tụng để cán bộ tư pháp
chỉ được phép thực hiện trong phạm vi đó,
không được vượt quá, và phải luôn thể hiện
trách nhiệm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng
của con người, đặc biệt là nhóm người yếu
thế trong tố tụng.
Tinh thần này của pháp luật tố tụng
thời phong kiến có những điểm vượt thời
đại, thể hiện ở cả nội dung và cách thức
xây dựng. Nội dung pháp luật tố tụng đã tập
trung vào trách nhiệm của nhóm chủ thể có
thẩm quyền, gồm cả trách nhiệm công vụ và
trách nhiệm pháp lý. Hai loại trách nhiệm
này luôn được đặt trong tương quan với
quyền lợi của các bên tham gia tố tụng, của
con người nói chung. Các quy định phần lớn
thiết kế theo mô thức đưa ra cách thức xử sự,
dự liệu cụ thể chế tài xử lý vi phạm đối với
các cán bộ tư pháp trong quá trình tố tụng
như một đảm bảo cho hiệu quả và hiệu lực
của pháp luật. Sự độc đáo và tài tình này của
các nhà lập pháp phong kiến, mà điển hình
là triều Hậu Lê và triều Nguyễn đã làm cho
pháp luật tố tụng hình sự thực sự mang tinh
thần pháp quyền, thể hiện đúng thiên chức
của nó, như lời chỉ dụ của vua Lê Hiển Tông
khi ban hành Bộ Quốc triều hình luật: “liên
quan đến việc kiện tụng cốt ở chỗ trong sạch
và giảm bớt. nhằm dùng chính sự để công
bằng về lý trong các việc kiện tụng, khiến
dân có chỗ nương nhờ”
13 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 364 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tư tưởng đề cao pháp luật trong các triều đại phong kiến Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phan Thị Lan Phương*
Phạm Thị Duyên Thảo**
* TS. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
** TS. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
Tóm tắt:
Các triều đại phong kiến Việt Nam đều có tư tưởng đề cao pháp
luật trong quá trình cai trị. Pháp luật được xem là công cụ để quản
lý xã hội, xây dựng nhà nước tập quyền, bảo vệ quyền lợi của nhân
dân, giám sát, đề cao trách nhiệm của quan chức trong quá trình
thực thi công vụ.
Summary:
The Vietnamese feudal dynasties had thoughts of high honors
to the lawful regulations during their ruling process. Legislation
was considered as a tool for social management, establishing
the powered centralized state, assuring the rights of the people,
supervising and promoting the responsibility of officials in the
course of performing their public mandates.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: pháp luật, tư tưởng, triều đại,
phong kiến, giá trị.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 15/03/2018
Biên tập : 09/04/2018
Duyệt bài : 16/04/2018
Article Infomation:
Keywords: Laws; thoughts; dynasties;
feudal; values
Article History:
Received : 15 Mar. 2018
Edited : 09 Apr. 2018
Approved : 16 Apr. 2018
TƯ TƯỞNG ĐỀ CAO PHÁP LUẬT
TRONG CÁC TRIỀU ĐẠI PHONG KIẾN VIỆT NAM
Lịch sử các triều đại phong kiến Việt
Nam gắn liền với quá trình dựng nước, giữ
nước và xây dựng mô hình chính quyền
quân chủ chuyên chế. Quá trình đó, dù ở
những mức độ khác nhau, đều có sự hiện
diện của pháp luật. Vai trò của pháp luật đều
được các triều đại phong kiến Việt Nam đề
cao và coi trọng.
1. Pháp luật với việc quản lý xã hội, phát
triển đất nước trong các triều đại phong
kiến Việt Nam
1.1 Triều đại Ngô - Đinh - Tiền Lê
(939-1009)
Triều Ngô (939-965), sau khi lên ngôi,
Ngô Quyền "bắt đầu xưng vương, lập Dương
Thị làm hoàng hậu, đặt trăm quan, chế định
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
13Số 8(360) T4/2018
triều nghi phẩm phục"1. Ngô Quyền làm vua
được 6 năm, nhưng theo lời hậu thế "phàm
chính lệnh ban ra không ai không vui lòng
nghe theo"2. Dù đời sống nhà nước, pháp
luật thời Ngô, như lời nhận xét của sử gia
Phan Huy Chú "đã cách xa, sách vở thiếu
sót, không thể biết được"3, nhưng có thể
thấy, ngay từ những ngày đầu non trẻ của
chính quyền tự chủ, ở Triều Ngô đã bước
đầu có sự xuất hiện của pháp luật, ít nhất
là về cách thức tổ chức bộ máy hành chính,
chính quyền triều đình trung ương ("đặt
trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục").
Bên cạnh việc kế thừa hệ thống luật tục, tập
quán ở giai đoạn trước, thì đây là nền tảng
quan trọng để nhà Ngô vận hành bộ máy nhà
nước và phát triển xã hội.
Đến Triều Đinh (968-980), các yếu
tố căn bản của một chính quyền độc lập đã
hiện diện, vua cho: "đặt quốc hiệu là Đại Cồ
Việt, dời kinh ấp về động Hoa Lư... đặt triều
nghi"; "bắt đầu quy định cấp bậc văn võ,
tăng đạo"4. Trong tổ chức chính quyền, nhà
Đinh bắt đầu chú trọng hơn đến cấp chính
quyền địa phương khi vừa kế thừa hệ thống
tổ chức hành chính thời nhà Khúc, vừa thay
thế hai cấp phủ, châu bằng cấp đạo để tiện
việc quản lý. Trong quá trình điều hành đất
nước, nhà Đinh chú trọng hoàn thiện các
quy chế tổ chức và quản lý quân đội, đề cao
phép tắc để răn dạy, tạo lập trật tự xã hội.
Điển hình, nhà Đinh đã cho đặt vạc lớn ở
sân đình, nuôi hổ giữ trong cũi và hạ lệnh
"Kẻ nào trái phép thì bị bỏ vạc dầu sôi hoặc
cho hổ xé xác ăn thịt", do đó mà mọi người
đều sợ phục, không ai dám phạm. Đây chỉ
là những biểu hiện điển hình, nhưng phần
nào cho thấy một nguyên tắc trong đời sống
chính trị pháp lý thời Đinh: đề cao "phép"
- pháp luật, nghiêm trị những hành vi "trái
phép" - vi phạm pháp luật.
Triều Tiền Lê (890-1009), đã tiến
1 Đại Việt sử ký toàn thư, Dịch giả Cao Huy Giu, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2009, tr.120
2 Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr. 114
3 Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí. Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2005
4 Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr. 127, 207
5 Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr. 148
hành cải cách bộ máy nhà nước và pháp
luật. Các công việc quan trọng của quốc gia
như "định luật lệnh, chọn quân lính, chia
tướng hiệu làm hai ban, đổi mười đạo làm
phủ, lộ, châu"5 đã được tiến hành bài bản
hơn so với hai triều đại trước. Năm 980, vua
Lê Đại Hành cho điểm dân làm binh lính,
năm 1002, đưa ra quy định về đánh roi và tử
hình để xử phạt các quan lại khi có những
vi phạm nghiêm trọng trong quá trình vận
hành quyền lực nhà nước. Năm 1009, vua
Lê Long Đĩnh "xuống chiếu cho lấy quân và
dân" để đào kênh, đắp đường. Chính quyền
địa phương đã được tổ chức thành 5 cấp;
quân đội được định theo ngạch quân 10 đạo,
quy định khung biên chế quân đội trong cả
nước. Như vậy, nhà Tiền Lê đã chính thức
tiến hành hoạt động lập pháp, các văn bản
pháp luật đơn hành của nhà vua đã xuất hiện
và là công cụ để quản lý các lĩnh vực của đời
sống đất nước.
Có thể thấy rằng, dù tư liệu lịch sử về
hoạt động lập pháp của các triều đại Ngô -
Đinh - Tiền Lê còn lại rất ít ỏi, nhưng những
tư liệu còn lại cho thấy, ý thức vận hành,
quản lý đất nước bằng pháp luật đã xuất hiện
ngay từ những ngày đầu của chính quyền tự
chủ. Các triều đại này đã xem mục tiêu tập
hợp sức mạnh của toàn thể nhân dân để bảo
vệ nền độc lập dân tộc là mục tiêu lớn nhất.
Việc chuyển kinh đô lên vùng núi non hiểm
trở, xây dựng chính quyền trung ương với
chỗ dựa là quân đội vững mạnh, phát triển
hệ thống quan lại vận hành quyền lực nhà
nước theo khuôn phép của triều đình, bình
định các thế lực cát cứ... đều nhằm hướng
đến mục tiêu to lớn đó.
1.2 Triều đại Lý - Trần - Hồ
(1010-1407)
Triều Lý (1010-1025). Lần đầu tiên
trong lịch sử, một bộ luật thành văn - bộ
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
14 Số 8(360) T4/2018
Hình thư đã được ban hành năm 1042, vào
đời vua Lý Thái Tông. Xuất phát từ thực
tế "việc kiện tụng trong nước phiền nhiễu,
quan giữ việc hình câu nệ luật văn, cốt làm
khắc nghiệt, thậm chí bị oan uổng. Vua lấy
làm thương xót", Nhà vua đã cho "Ban hình
thư... sai trung thư sửa định luật lệnh, châm
chước cho thích dụng với thời bấy giờ, chia
ra môn loại, biên ra điều khoản, làm sách
Hình luật của triều đại, để cho người xem
dễ hiểu"6. Bộ Hình thư nhà Lý gồm 3 quyển,
tuy sớm thất truyền, nhưng là thành tựu to
lớn trong lịch sử pháp luật Đại Việt, minh
chứng nhà nước phong kiến Việt Nam đã có
thể có một nền pháp luật thống nhất trong cả
nước, đủ khả năng để điều chỉnh các quan
hệ xã hội.
Qua các đạo chiếu còn lại của triều Lý,
pháp luật đã được xem là công cụ để nhà
nước điều chỉnh các lĩnh vực quan hệ cơ bản
trong xã hội. Nội dung, tính chất, vị trí cùng
các nguyên tắc vận hành pháp luật của nhà
nước cũng được thể hiện khá rõ. Cụ thể:
Pháp luật là phương tiện để bảo vệ
quyền, lợi ích, giảm bớt sự khắc nghiệt, oan
uổng vốn dễ bị các quan lại của nhà nước
gây ra cho nhân dân. Điển hình là các chiếu
(năm 1208, 1042) về xử phạt binh lính cướp
của của dân, sẽ bị chém hoặc bị trượng; bảo
vệ quyền tự do của con người như các chiếu
cấm mua bán hoàng nam làm đầy tớ (năm
1042); bảo vệ thường dân trong chiến tranh
(chiếu năm 1044); bảo đảm an ninh trật tự
cho dân chúng trong hương ấp (chiếu năm
1128); nhà Lý cũng thường xuyên ban hành
các lệnh đại xá thiên hạ như miễn thuế, miễn
lao dịch, tha bổng hoặc giảm nhẹ hình phạt
cho tù nhân trong những dịp nhất định...
Pháp luật triều Lý đã bước đầu quy
định, đề cao trách nhiệm của quan lại trong
quá trình thực hiện quyền lực: quan lại phải
nghiêm chỉnh thừa hành công vụ được giao,
6 Đại việt Sử ký toàn thư, Sđd, tr. 186
7 Đại việt Sử ký toàn thư, Sđd, tr. 239
8 Đại việt Sử ký toàn thư, Sđd, tr. 269
9 Đại việt Sử ký toàn thư, Sđd, tr 196
không được phép lợi dụng việc công để mưu
lợi riêng, quan lại tham nhũng sẽ bị nghiêm
trị (chiếu các năm 1042, 1130, 1044). Trách
nhiệm của người dân trong việc ngăn ngừa
tội phạm, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật
cũng được nhà Lý quy định khá độc đáo: 3
hộ gia đình hợp thành một bảo, mỗi bảo phải
chịu trách nhiệm liên đới khi có người trong
bảo phạm tội liên quan đến chứa dấu hoàng
nam làm đầy tớ, hoặc giết trâu bò. Quy định
này đã thực sự mang tính giáo dục, phòng
ngừa của pháp luật (chiếu 2/1043, năm
1123).
Pháp luật triều Lý thể hiện tinh thần
nhân đạo, bảo vệ nhóm người yếu thế trong
xã hội qua các đạo chiếu: cho phép người
già 70-80 tuổi, trẻ em 10-15 tuổi, người ốm
yếu nếu phạm tội trừ tội thập ác, được phép
chuộc tội bằng tiền; chọn cấm quân không
được chọn ở hộ cô độc (các chiếu năm 1042,
1147).
Tư tưởng đề cao pháp luật của nhà Lý
còn thể hiện trong việc thực hiện, áp dụng
pháp luật. Khi vừa lên ngôi, vua Lý Thái Tổ
đã cho xây cung Long Đức, lấy điện Diên
Khánh, Quang Vũ làm nơi xử kiện và cho
dân khiếu kiện, và quy định: "Từ nay ai có
việc tranh kiện cho đến triều tâu bày, Vua
thân xét quyết"7. Vua Lý Thái Tông vào năm
1029 đã cho đặt ở phía đông thềm rồng điện
Văn Minh, phía tây điện Quang Vũ, hai bên
hữu thềm rồng đặt lầu chuông đối nhau để
"dân chúng ai có oan ức việc kiện tụng oan
uổng thì đánh chuông lên"8. Vua Lý Thánh
Tông đã từng trực tiếp chỉ đạo: "người dân
không biết mà mắc phải hình pháp, ta rất
lấy làm thương. Từ năm về sau, không cứ
gì tội nặng nhẹ, đều nhất loạt khoan giảm"9.
"Trẫm ở trong cung nào lò sưởi ngự, nào áo
lót cầu còn rét như thế này, nghĩ đến người
tù giam trong ngục, khổ sở về gông cùm,
chưa biết rõ ngay gian, ... có kẻ chết không
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
15Số 8(360) T4/2018
đáng tội, trẫm rất thương xót. Vậy hạ lệnh
cho hữu ty phát chăn chiếu và mỗi ngày hai
lần phát cơm"10. Nhà Lý có nhiều chính sách
khoan dung với kẻ phạm tội, coi tội nhân ở
góc độ nào đó như là nạn nhân của xã hội,
các hình phạt được cân nhắc nặng nhẹ hợp
lý, nhằm để cải tạo, giáo hóa họ.
Nhà Lý còn chú trọng đến việc nâng
cao ý thức, hiểu biết pháp luật cho đội ngũ
quan lại trong bộ máy nhà nước. Cho rằng,
việc hiểu biết pháp luật là điều kiện và tiền
đề tối thiểu để có thể làm quan, thực hiện
tốt trọng trách quản lý nhà nước, Nhà Lý đã
đưa các kiến thức pháp luật vào thành một
trong những môn, nội dung thi tuyển quan
lại. Tháng 2/1077, vua Lý Nhân Tông đã hạ
chiếu quy định, thi tuyển quan lại phải thi 3
môn: viết chữ, toán và pháp luật. Pháp luật
còn được coi như môn học bắt buộc trong
đào tạo quan lại bên cạnh các kiến thức
khác11.
Triều Trần (1225-1400). So với triều
Lý, công việc pháp điển hóa, tập hợp hóa pháp
luật ở triều Trần được chú trọng hơn. Triều
Trần đã ban hành bộ Hình thư (năm 1341),
cùng nhiều văn bản tập hợp hóa như: Quốc
triều thông chế (1230), Quốc triều thường lễ
(1230), Hoàng triều đại điển (1341), Hoàng
triều Ngọc điệp (1267), Công văn cách thức
(1290) cùng nhiều văn bản đơn hành của nhà
vua như đạo, chiếu, lệnh quy định về các lĩnh
vực hành chính, hình sự, dân sự, hôn nhân gia
đình, tố tụng, kinh tế...
Pháp luật triều Trần, dù chịu ảnh hưởng
của pháp luật Trung Hoa, nhưng trong quá
trình lập pháp, đã thể hiện sự sáng tạo, tự chủ
và tinh thần độc lập dân tộc. Điều này được
minh chứng một phần từ chỉ dụ của vua Trần
Nghệ Tông: "Triều trước dựng nước, có luật
pháp, chế độ riêng, không theo quy chế của
nhà Tống. Là vì Nam, Bắc; nước nào làm
chủ nước đó, không phải bắt chước nhau"12.
Hay trong một Chiếu tháng 10/1374, nhà
10 Đại việt Sử ký toàn thư, Sđd, tr 194
11 Cao Văn Liên, Pháp luật các triều đại Việt Nam và các nước, Nxb. Thanh Niên, Hà Nội, 2004, tr.204
12 Đại việt Sử ký toàn thư, Sđd, tr. 151
Trần đã cấm quân và dân không được mặc
áo, chải đầu theo người phương Bắc và bắt
chước tiếng nói của người các nước Chiêm
Thành, Lào để giữ gìn bản sắc dân tộc.
Tư tưởng cai trị khoan hòa, lấy dân
làm gốc từ thời nhà Lý, cũng như tư tưởng
"khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc"
của Trần Quốc Tuấn được nhà Trần tiếp tục
xem là "thượng sách giữ nước", được vận
dụng trong quá trình xây dựng pháp luật và
quản lý xã hội của mình.
Pháp luật triều Trần đã kế thừa các lĩnh
vực điều chỉnh cơ bản của pháp luật triều
Lý, đồng thời có sự phát triển đặc biệt về
lĩnh vực pháp luật dân sự. Những quy định
cụ thể về cách thức thiết lập di chúc, văn khế
liên quan đến mua bán ruộng đất hoặc vay
mượn đã được bổ sung, phát triển. Pháp luật
thời này là công cụ hữu dụng bảo vệ sở hữu
tư nhân và giải quyết các tranh chấp ngày
càng gia tăng trong xã hội.
Để pháp luật được thực hiện nghiêm
chỉnh, các vi phạm được xét xử kịp thời, việc
giám sát, trách nhiệm của quan lại trong việc
bảo vệ pháp luật được đề cao, nhà Trần đã
lập ra hệ thống các cơ quan pháp luật mang
tính chuyên trách ở trung ương, như: Thẩm
hình viện, Tam ty viện giữ chức năng của
cơ quan tòa án, kiểm sát. Cụ thể, Thẩm hình
viện có chức năng xem xét các vụ kiện tụng
thành án rồi cùng với Tam ty viện định tội.
Đăng văn viện (sau đổi thành Đình úy ty) là
cơ quan xét xử những án tình ghi tội nặng
nhằm đảm bảo sự chính xác, khách quan
trong quá trình áp dụng pháp luật; Ngự sử
đài là cơ quan giữ phong hóa, pháp độ, giám
sát quan lại trong việc thi hành pháp luật để
tránh hiện tượng lạm dụng quyền lực nhà
nước. Năm 1244, Chiếu quy định cách thức
thi hành các luật hình đã được ban hành,
tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc áp
dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
16 Số 8(360) T4/2018
Trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm
công vụ được đề cao đối với cả dân chúng
và quan lại. Nếu như nhà Lý quy định trách
nhiệm liên đới, kiểm soát đối với 1 bảo là
3 gia đình, thì đến nhà Trần mở rộng thành
10 gia đình, thậm chí còn rộng đến cả một
phường, xã (như đối với tội hàng giặc mà
dân hai phường Bà Điểm và Băng Hà đã
phải chịu - làm lang mộc binh và suốt đời
không được thi cử làm quan). Đối với hệ
thống quan lại quản lý nhà nước, bên cạnh
trách nhiệm công vụ, quy định quan chế
(chiến năm 1246) phải gánh vác, còn phải
tuân thủ Hoàng pháp của triều đình, dòng
họ, để có những ứng xử phù hợp với đòi hỏi
của lễ giáo phong kiến (quan lại phải tham
dự đầy đủ các lễ hội thề đền Đồng Cổ: tận
trung với Vua, với xã tắc).
Có thể thấy rằng, điểm nổi bật nhất
trong tư tưởng chính trị pháp lý của nhà Trần
là đề cao tính nghiêm minh của pháp luật.
Pháp luật với hệ thống hình phạt nặng, đa
dạng, mang tính răn đe cùng quá trình thực
thi pháp luật nghiêm khắc sẽ quyết định trật
tự, sự vững mạnh của xã hội, củng cố mô
hình trung ương tập quyền.
- Triều Hồ (1400-1407): Nhà Trần giai
đoạn cuối, về lý thuyết vẫn duy trì mô hình
cai trị tập quyền thân dân, nhưng thực tế, có
nhiều mâu thuẫn với mô hình đó: vua tôi vơ
vét của cải của dân, tư hữu ruộng đất phát
triển mạnh, phá vỡ bệ đỡ là chế độ công về
tư hữu về ruộng đất, sức mạnh của triều đình
trung ương suy giảm; tư tưởng từ bi hỷ xả
của đạo Phật không còn thích dụng với tình
trạng bất công, rối ren của đất nước. Nhà Hồ
nhân cơ hội đó đã cướp ngôi nhà Trần.
Sau khi lên ngôi, nhà Hồ đã phải
đương đầu với hàng loạt khó khăn như sự sa
sút về kinh tế của đất nước, năng lực quản
lý của đội ngũ công chức; sự ly tán của các
tầng lớp dân cư; nạn xâm lăng đe dọa; đặc
biệt là "lòng dân không thuận" do sự lên
ngôi không "chính danh" của nhà Hồ. Để
khắc phục những hạn chế này, ban đầu, nhà
Hồ về cơ bản tiếp tục cho thi hành pháp luật
của các triều đại Lý - Trần để ổn định xã hội,
"phòng khi lòng dân nhớ tục cũ". Sau đó, đã
dần thực hiện hàng loạt các cuộc cải cách
với mục đích khôi phục sức mạnh của chính
quyền trung ương, bảo vệ và phát triển đất
nước. Điển hình phải kể đến những chính
sách quan trọng như: chính sách hạn điền
(năm 1397), chính sách hạn nô (năm 1401),
các chính sách cải cách kinh tế, xã hội khác
như phát hành tiền giấy, thống nhất đơn vị
đo lường, đổi mới chế độ thuế khóa, chính
sách về an ninh lương thực quốc gia, đồng
thời cho "sửa lại luật hình", ban hành bộ Đại
ngu quan chế hình luật.
Chính sách hạn điền là việc nhà nước
định lượng sở hữu tư nhân về đất đai. Mỗi
chủ sở hữu chỉ được sở hữu tối đa 10 mẫu
ruộng (riêng đại vương, trưởng công chúa...
được miễn trừ), số ruộng dôi ra cũng như số
ruộng không chịu kê khai nếu bị phát hiện sẽ
thuộc sở hữu công của nhà nước. Chính sách
này đã làm tăng số lượng ruộng đất thuộc sở
hữu nhà nước, đồng thời là cơ sở cho chính
sách hạn nô. Hạn nô là hạn chế số gia nô
của mỗi quý tộc, nhằm kiểm soát số đinh
và ngăn chặn tình trạng nông nô hóa nông
dân đang có xu hướng phát triển thời kỳ
đó. Chính sách cải cách thuế khóa với mục
đích tăng cường sự đóng góp của tầng lớp
trung lưu, giảm bớt cho người nghèo như:
tăng thuế đối với ruộng đất tư, tăng giảm
mức thuế đối với từng loại đất tùy thuộc vào
tính chất sử dụng, như giảm thuế chung với
ruộng bãi dâu, chia ruộng bãi dâu để đánh
thuế theo từng mức cao thấp khác nhau tùy
thuộc vào ruộng xấu hay tốt, chỉ thu thuế
đinh với những người có ruộng, còn lại nếu
không có ruộng thì miễn chứ không thu
đồng loạt như thời trước, đối với đàn bà góa,
trẻ mồ côi thì không phải đóng thuế. Ngoài
ra, nhà Hồ còn có chính sách đảm bảo an
ninh lương thực quốc gia bằng cách cho xây
dựng các kho "thường bình" ở địa phương,
cấp tiền để mua lương thực dự trữ khi giá hạ,
và bán ra khi giá lên để ổn định giá lương
thực cho người dân...
Những chính sách cải cách của nhà
Hồ, dù còn dang dở, chưa được lòng dân,
các thế lực hưởng lợi chủ yếu vẫn là họ hàng
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
17Số 8(360) T4/2018
tôn thất nhà Hồ và tầng lớp phong kiến có
của, nhưng cũng không thể phủ nhận việc
nhà Hồ đã nhận thức được nguyên nhân cuộc
khủng hoảng kinh tế, chính trị của nhà Trần,
nhận thức được vai trò của nhà nước trong
việc xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật,
tiến hành các cuộc cải cách để phát triển
kinh tế đất nước, ổn định đời sống nhân dân.
Các cuộc cải cách kinh tế mà nhà Hồ đề ra
và bước đầu thực hiện cho thấy tư tưởng về
trách nhiệm của nhà nước, của người quản
lý trong việc hoạch định chính sách, pháp
luật nhằm phát triển kinh tế đất nước, duy
trì trật tự xã hội: nhà nước, chứ không phải
chủ thể nào khác, phải là chủ thể chủ yếu có
trách nhiệm định hướng, giải quyết các công
việc trọng đại của quốc gia.
1.3 Triều Hậu Lê (đầu thế kỷ XV đến
đầu thế kỷ XVI)
Triều Hậu Lê được xem là triều đại có
đời sống pháp luật phong phú nhất. Ngay từ
thời Lê Thái Tổ, cùng với việc kiện toàn bộ
máy nhà nước, việc xây dựng pháp luật đã
rất được chú trọng. Pháp luật chính là thứ
“để cho lớn nhỏ cùng ràng buộc nhau, khinh
trọng cùng kiểm chế nhau. Uy quyền không
bị lợi dụng, thế nước vậy là khó lay. Thành
thói quen theo đạo giữ phép, không có lỗi
trái nghĩa phạm hình”13. Pháp luật được phát
huy vai trò một cách tối đa trong đời sống,
hệ thống các văn bản pháp luật được ban
hành chiếm số lượng đáng kể, hình thức đa
dạng, như: Bộ Quốc triều hình luật (Bộ luật
Hồng Đức, 1428), bộ Luật thư do Nguyễn
Trãi biên soạn (1440), Bộ Lê triều quan chế
(1471), Thiên Nam dư hạ tập (1483), Hồng
Đức thiện chính thư (1470), Quốc triều
khám tụng điều lệ (1777), cùng hàng trăm
văn bản pháp luật đơn hành như chiếu, chỉ,
dụ, sắc, lệnh của nhà vua được ban hành.
Pháp luật, trong đời sống pháp lý của
nhà Lê đã thực sự trở thành công cụ để quản
lý đất nước, là phương tiện cao nhất để bảo
vệ quyền, lợi ích chính đáng của con người,
13 Viện Sử học, Lê triều quan chế, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1997, tr. 13-14
trật tự xã hội. Việc tuân thủ và thực thi pháp
luật nghiêm minh được xem là thước đo đối
với chất lượng của hệ thống quan chức thừa
hành công vụ nhà Lê.
Hầu hết các quan hệ xã hội quan trọng
đều được nhà Lê quy tắc hóa. Trong đó,
nhiều quan hệ xã hội được điều chỉnh theo
hướng bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của
con người. Pháp luật thời kỳ này còn dung
hòa được các quy tắc quản lý xã hội với
phong tục tập quán, truyền thống của dân
tộc. Pháp luật hình sự dù có hệ thống các
hình phạt nghiêm khắc, nhưng vẫn thể hiện
tinh thần nhân đạo khi đã bước đầu phân
biệt được lỗi cố ý, vô ý trong quá trình xác
định tính chất của hành vi cũng như truy cứu
trách nhiệm hình sự; đề cao nguyên tắc "vô
luật bất hình"; nhân đạo với nhóm người yếu
thế trong xã hội, như miễn giảm trách nhiệm
đối với người già, trẻ em, phụ nữ có thai,
người tàn tật; trường hợp quan lại bạo hành,
tra tấn, ngược đãi tù nhân bị nghiêm trị.
Trong lĩnh vực dân sự, pháp luật triều
Lê đã thể hiện những điểm tiến bộ khi quy
định về sở hữu, thừa kế, hợp đồng. Trong
thừa kế, pháp luật đã ghi nhận cả quyền thừa
kế của con gái, con nuôi, người vợ; trong lao
động, phụ nữ được trả công ngang bằng với
đàn ông: "không có sự phân biệt về tiền công
nhật cho lao động đàn ông với đàn bà" (Điều
23 Quốc triều hình luật). Đây được xem là
những điểm tiến bộ vượt bậc của pháp luật
Hậu Lê, khi đã vượt ra khỏi định kiến Nho
giáo "trọng nam khinh nữ" thông thường.
Trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình,
pháp luật Hậu Lê đã đặc biệt bảo vệ quyền
lợi của người phụ nữ: họ được đảm bảo
quyền về tài sản, có quyền có tài sản riêng;
có quyền được bảo vệ hôn nhân; quyền được
ly dị khi quyền lợi chính đáng bị xâm hại...
Trong lĩnh vực tố tụng, pháp luật Hậu
Lê có sự phát triển vượt bậc. Các quy định tố
tụng không chỉ được quy định tại hai chương
Bộ vong và Đoán ngục của Bộ Quốc triều
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
18 Số 8(360) T4/2018
hình luật, mà còn được quy định trong riêng
một bộ luật tố tụng là Bộ Quốc triều khám
tụng điều lệ. Ở góc độ tích cực nhất, pháp
luật tố tụng Hậu Lê, đặc biệt trong là Bộ
Quốc triều Khám tụng điều lệ, đã có những
tư tưởng cơ bản về liêm chính tư pháp. Thể
hiện ở việc, Bộ luật đề cao ý thức trách
nhiệm, lương tâm nghề nghiệp của các cán
bộ tư pháp trong việc tôn trọng và bảo vệ
quyền con người, bảo vệ công lý như: yêu
cầu cán bộ tư pháp giải quyết các vấn đề tố
tụng phải trên tinh thần bảo vệ được cao nhất
các lợi ích hợp pháp của các bên liên quan;
các hành vi xâm hại đến quyền con người
từ phía cán bộ tư pháp đều bị nghiêm trị
(Lệ về khám tụng). Bộ luật cũng chứa đựng
tinh thần đấu tranh chống tham nhũng, bảo
đảm sự trong sạch của tư pháp khi quy định
rõ ràng các vấn đề liên quan đến các loại
án phí, có nhiều quy định nhằm hạn chế sự
nhũng nhiễu từ phía cán bộ tư pháp (Lệ về
tróc bắt, Lệ về tiền tạ đảm). Đặc biệt, đã có
những đảm bảo cho liêm chính tư pháp khi
bước đầu có cơ chế bảo đảm sự độc lập của
các chủ thể tham gia tố tụng; bước đầu có cơ
chế đảm bảo năng lực tiếp cận công lý cho
người dân nhằm thúc đẩy trách nhiệm của
cơ quan tư pháp. Cụ thể, đã có những quy
định về thời hạn, thời hiệu khởi kiện, cách
thức nộp đơn, cách thức khởi kiện, chống
án, cách thức kiểm tra, ghi bản án, cách thức
công khai bản án, quyết định sau khi xét xử;
cách thức soát tụng của cơ quan tư pháp cấp
trên với cấp dưới (Lệ soát tụng, Lệ kiện tụng
sự ức hiếp, Lệ về tróc bắt)...
Pháp luật tạo cơ chế kiểm soát bộ máy
nhà nước, quy định trách nhiệm của quan
lại trong thừa hành công vụ. Việc kiểm soát,
hạn chế lạm quyền, tiếm quyền trong tổ
chức, hoạt động của bộ máy nhà nước là tư
tưởng chủ đạo của pháp luật thời Hậu Lê,
nhất là ở triều đại Lê Thánh Tông. Kiểm soát
quyền lực vừa là phương tiện, vừa là mục
đích trong tổ chức và vận hành quyền lực
nhà nước. Nhà Hậu Lê đã xây dựng một cơ
chế người đứng đầu nhà nước trực tiếp điều
hành, kiểm soát quyền lực nhà nước, hạn
chế khâu trung gian bằng cách bỏ các chức
như tể tướng, đại hành khiến. Các cơ quan
quản lý được chuyên môn hóa và luôn có
sự giám sát, kiểm soát, ràng buộc quyền lực
hữu hiệu với nhau. Điển hình có thể kể đến
hai thiết chế cơ bản là Lục Khoa giám sát
Lục Bộ và Ngự sử đài giám sát quan lại cùng
phong hóa pháp độ của triều đình. Trong quá
trình áp dụng pháp luật, đề cao trách nhiệm
cá nhân và đạo đức công vụ của người áp
dụng pháp luật, đảm bảo thẩm quyền, thời
hạn và trình tự áp dụng pháp luật, đề cao
tính chính đáng và hợp pháp của quyết định
áp dụng pháp luật thông qua việc quy định
chặt chẽ thời hạn, cách thức áp dụng, cách
thức ghi bản án... Đặc biệt, nhà Hậu Lê có
cơ chế hạn chế quyền lực của chính nhà
vua - bằng các hình thức như lập cơ quan
can gián, quy định không sử dụng các quyết
định nhất thời của Vua như tiền lệ...
Trong các bộ luật cơ bản của nhà Hậu
Lê, trách nhiệm quan lại luôn được quy định
dưới hai hình thức: một là, trách nhiệm công
vụ; hai là, trách nhiệm pháp lý. Quan lại
luôn phải có sự chính trực, mẫn cán, vô tư
trong quá trình thực thi công vụ, đồng thời
luôn phải chịu dự liệu sẵn các hậu quả pháp
lý bất lợi và sẽ bị áp dụng nếu như vi phạm.
Tư tưởng đề cao vai trò của nhà nước
trong việc tổ chức thực hiện pháp luật, bảo
vệ quyền lợi Nhân dân. Theo Lê Thánh
Tông: “Lễ nghĩa để sửa tốt lòng dân, nông
tang để có đủ cơm áo, hai việc cần kíp ấy của
chính sự là chức trách của các thú mục”.
Các chính sách của nhà nước do đó đều trực
tiếp, gián tiếp phải liên quan đến việc thực
hiện mục tiêu Nhân dân no ấm, yên bình.
Trách nhiệm của các thừa hiến phủ, huyện
châu các xứ là “phải bỏ hết tệ trước, phàm
sắc lệnh của triều định phải một lòng vâng
làm, Nhân dân bị đói rét phải nhiều cách
kinh lý”. Nhà nước phải nhận thức được “Để
dân được no ấm, cần bớt sự trưng thuế và
cung ứng”; phải khuyến khích dân việc canh
nông, đắp đê, giữ nước, bồi bổ ruộng đất,
định lệ bồi đắp ruộng đất phù hợp với đồng
chiêm, đồng mùa để “tiện cho dân", để cho
dân khỏi đói khổ...
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
19Số 8(360) T4/2018
Nhà nước chính là chủ thể phải đảm
bảo tính công khai, minh bạch của pháp luật:
“Từ nay về sau, phàm có các chỉ, các lệ về
việc lớn nhỏ thì bộ phụ trách, xứ ty và các
nha môn phủ huyện châu đều biên ra bảng
treo dán lên, để cho nhân dân tuân theo mà
làm”14. Pháp luật phải được xây dựng phù
hợp với đạo đức, phải là công cụ để bảo vệ
đạo đức: “Lấy pháp luật mà trị tội, sao bằng
lấy phép mà bảo trước”15, “Người ta sở dĩ
khác giống cầm thú là vì có lễ để phong giữ.
Nếu không có lễ thì bừa bãi tình dục, phóng
đãng xằng bậy, không gì không làm.”16
Để pháp luật phát huy được các giá trị
tự thân của nó, các hành vi vi phạm pháp
luật phải bị xử lý thật thích đáng, bất kể kẻ vi
phạm pháp luật ở địa vị nào, và nhiệm vụ đó
nhà nước phải đảm bảo: “Đặt luật là để trừ
kẻ gian, sao dung được bọn coi thường pháp
luật”, “Quân pháp chỉ có một chứ không có
hai”17. Thực tế chứng minh, vua Lê Thánh
Tông đã cho xử lý rất nặng đối với các vụ
việc mà người vi phạm là các quan chức của
nhà nước. Người thi hành pháp luật là cần
phải tuân thủ pháp luật trước tiên, cho nên,
thời hạn phải đưa một vụ việc vi phạm pháp
luật ra xử lý được quy định rất cụ thể; đặc
biệt, đối với những trường hợp các cá nhân,
cơ quan nhà nước có thẩm quyền gây ra oan
ức cho người bị áp dụng đều có quy định
hướng dẫn cách giải quyết và chế tài xử lý
nghiêm khắc.
Nhà Hậu Lê cũng thường đề cập đến
tính công khai, minh bạch cần phải có của
pháp luật: “Từ nay về sau, phàm có các chỉ,
các lệ về việc lớn nhỏ thì bộ phụ trách, xứ
ty và các nha môn phủ huyện châu đều biên
ra bảng treo dán lên, để cho nhân dân tuân
theo mà làm”18. Pháp luật còn phải phù hợp
với đạo đức, phải là công cụ để bảo vệ đạo
14 Ngô Sĩ Liên, Sđd, tr.667
15 Ngô Sĩ Liên, Sđd, tr.633
16 Ngô Sĩ Liên, Sđd, tr.652
17 Ngô Sĩ Liên, Sđd, tr.622
18 Ngô Sĩ Liên, Sđd, tr.667
19 Ngô Sĩ Liên, Sđd, tr.633
20 Ngô Sĩ Liên, Sđd, tr.652
đức: “Lấy pháp luật mà trị tội, sao bằng
lấy phép mà bảo trước”19, “Người ta sở dĩ
khác giống cầm thú là vì có lễ để phong giữ.
Nếu không có lễ thì bừa bãi tình dục, phóng
đãng xằng bậy, không gì không làm.”20 Việc
tôn trọng pháp luật được nhà Hậu Lê yêu
cầu trở thành một thói quen, lối sống của
mọi người.
1.4 Triều Nguyễn (1832-1884)
Là triều đại cuối cùng trong lịch sử
phong kiến Việt Nam, trên tinh thần kế thừa
những thành tựu của triều đại trước, Triều
Nguyễn đã xây dựng một hệ thống chính
quyền, cùng hệ thống pháp luật có quy mô
lớn. Nhằm xây dựng một nền quân chủ
chuyên chế với quyền lực tập trung vào nhà
Vua, một bộ máy hành chính mạnh, đất nước
ổn định, phát triển, nhà Nguyễn càng ý thức
rõ vai trò của pháp luật trong đời sống. Công
tác xây dựng pháp luật được nhà Nguyễn
chú trọng, với các thành tựu điển hình như:
Bộ Hoàng Việt luật lệ (1815), Hội điển toát
yếu (1833), Khâm định Đại Nam hội điển sự
lệ (1843-1855), Minh Mệnh chính yếu, Đại
Nam điển lệ toát yếu...
Hệ thống pháp luật triều Nguyễn đã
tạo cơ sở cho quá trình điều chỉnh các quan
hệ xã hội thuộc hầu hết các lĩnh vực trên
toàn lãnh thổ Việt Nam. Tư tưởng đề cao
pháp luật của triều Nguyễn, bên cạnh không
ít điểm tương đồng với các triều đại trước, là
các biểu hiện cơ bản như: phải kết hợp đức
trị và pháp trị trong quá trình quản lý nhà
nước, chú trọng nhất định đến các tập quán,
phong tục của làng xã Việt Nam; pháp luật
quy định và bảo vệ quyền lợi của nhân dân;
là phương tiện quan trong trong chế ước,
hạn chế, kiểm soát quyền lực nhà nước.
- Đề cao tư tưởng pháp trị kết hợp đức
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
20 Số 8(360) T4/2018
trị trong quản lý xã hội. Pháp luật, với hệ
thống hình phạt, theo quan điểm nhà Nguyễn
không những để “răn dạy kẻ ác”, “tru diệt
lòng tham”, mà còn là yếu tố chi phối hành
động của nhà vua, quan lại, là “phép nước”,
tránh việc “giấu diếm tư lợi”, để “nghiêm
trị không tha” những hành vi vi phạm. Pháp
luật còn mang tính giáo dục “Hình phạt là
một công cụ dùng để giáo hóa”21, pháp luật
phải mang nội dung nhân đạo, chứa đựng
các quy định thưởng phạt rõ ràng, để tác
động vào ý thức của dân, để dân tự giác thực
hiện pháp luật. Pháp luật không chỉ “hợp
với đời xưa” mà còn phải “châm chước việc
đời nay”.
Các lĩnh vực quan hệ pháp luật trong
Bộ luật Gia Long, dù được đánh giá không
kế thừa hoàn toàn những tiến bộ của bộ luật
Hồng Đức, nhưng cũng thể hiện rõ tinh thần
nhân đạo, kết hợp pháp trị, đức trị, phong
tục, tập quán dân tộc. Như trong lĩnh vực
hình sự, đã quy định rõ hơn các nguyên tắc
cơ bản, đã có sự phân định rõ các loại tội
phạm để tiện cho việc xem xét trách nhiệm
pháp lý, các nguyên tắc chiếu cố đối với
nhóm người yếu thế phạm tội vẫn được duy
trì. Lĩnh vực dân sự đã có sự phát triển nhất
định khi quy định cụ thể hơn về việc xác
định chủ sở hữu liên quan đến nhặt được
của rơi, đồ chôn giấu (Điều 136 Bộ luật Gia
Long); về hợp đồng, về trách nhiệm dân sự
đã có phân loại cụ thể, phù hợp với các tiêu
chuẩn đạo đức của xã hội (do vi phạm khế
ước, do gây thiệt hại, do hành vi phạm tội);
nhiều trường hợp chia thừa kế, Bộ luật Gia
Long vẫn cho phép theo "luật cũ" mà xử.
Trong lĩnh vực tố tụng, pháp luật triều
Nguyễn có đã có sự chuyên môn hóa khi
toàn bộ quá trình giải quyết vụ án từ nhận
đơn, điều tra, khám nghiệm, giam giữ, xét
xử, thi hành án đều thuộc quyền của một nha
môn. Các cấp xét xử đã được phân rõ ràng;
đã bước đầu có sự phân định thẩm quyền xét
xử theo loại vụ việc (việc dân và việc quân).
Trách nhiệm của các cơ quan trong quá trình
21 Quốc Quốc sử quán triều Nguyễn, Sđd, tr.333
tố tụng được quy định rõ nhằm hướng đến
việc giải quyết nhanh chóng, hiệu quả vụ
việc. Các thủ tục bắt người, giam giữ, khảo
cung, xét xử, thi hành án đều có quy định rõ.
Đặc biệt, pháp luật triều Nguyễn quy định
trách nhiệm của quan lại trong tố tụng rất
nghiêm khắc. Quan án sẽ bị nghiêm trị khi
để lọt tội phạm, làm oan sai hoặc vi phạm
công lý, xâm phạm đến quyền con người; 24
trường hợp về sự thêm bớt được quy định
làm căn cứ để định tội quan án; đặc biệt,
quan án có trách nhiệm phải biện minh cho
tội nhân nếu như nhận thấy vụ việc có minh
chứng có thể chứng minh tội nhân bị oan,
nếu không thực hiện trách nhiệm này sẽ bị
xử như tội cố ý thêm tội cho người khác...
- Đề cao vai trò của người thực thi
pháp luật. Pháp luật muốn thực sự có hiệu
quả, cần phải được sử dụng một cách thấu
tình đạt lý, người sử dụng pháp luật phải có
độ linh hoạt nhất định. Bởi bản thân pháp
luật, vốn đã khắc nghiệt vì vẫn được đánh
đồng với hình luật ở thời bấy giờ, lại còn
thường lạc hậu vì “Luật theo ý đời xưa,
mà lệ lại châm chước việc đời nay, thay
đổi biến thông, không thể như keo gắn cột
mà cố định được”, do đó, nhà Nguyễn đã
chủ trương khoan dung trong việc thi hành,
không quá cứng nhắc, quá phụ thuộc và các
quy định cụ thể của pháp luật, mà “tình cũng
nên thương, nếu theo đúng luật mà xử tử, thì
đâu phải ý nghĩ thương xót được, cho phép
tâu để giảm tội phạt”. Hình phạt là thứ làm
cho dân sợ nhưng cái làm cho dân “biết hổ
thẹn mà đổi lỗi” chính là “đức hạnh” được
“dẫn đạo” đến nơi đến chốn. Pháp luật trong
đời sống phải được thực thi đồng thời với
các chính sách hợp lý của nhà nước. Không
thể chỉ trông chờ vào sự nghiêm khắc của
hình phạt do nhà nước độc quyền thi hành,
mà cần phải có sự hỗ trợ của toàn xã hội, của
mỗi người dân trong việc tố cáo tội phạm,
chủ động bảo vệ quyền và lợi ích của mình
trên cơ sở sự hỗ trợ kịp thời về vật chất của
nhà nước “tiền của triều đình cốt để giữ dân,
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
21Số 8(360) T4/2018
sau khi việc trộm cướp phát ra, sự chi phí
không ít, sao bằng dự tính cách treo giải
thưởng cho mọi người đều ra sức dò bắt, để
có hiệu quả hết trộm yên dân”. Áp dụng hình
phạt phải đúng người đúng tội, trách nhiệm
phải được đặt ra trực tiếp đối với người có
hành vi vi phạm, không có chuyện chịu tội
thay như trước “người làm ra tội, phải chịu
hình phạt, nếu mỗi việc, mỗi người cho thay
nhau chịu tội thì ra tha kẻ phạm tội, mà phạt
đứa vô can”22. Trách nhiệm trước pháp luật
phải được đặt ra đối với mọi trường hợp, bất
kể người thực hiện hành vi vi phạm đó là ai:
“nếu vì con em mà không áp dụng pháp luật,
thời lấy gì làm gương cho mọi người”.
- Đề cao quyền lợi của Nhân dân.
Trong hệ tư tưởng của nhà Nguyễn, tình
yêu thương Nhân dân, tinh thần tôn trọng
Nhân dân, được thể hiện khá đa diện, trước
hết “Dân là gốc nước. Dân không yêu mến
thì ngươi có thể hưởng giầu sang mãi được
không?”. Từ quan niệm Nhân dân là nền
tảng, là hạt nhân xây dựng nên nước, Minh
Mệnh đã đi đến nguyên tắc “trị nước lấy
được lòng dân làm gốc”, bản thân thấy mình
phải hóa thân vào dân, đặt mình vào địa vị,
tình cảm của dân “yêu cái dân yêu, ghét cái
dân ghét” “người làm chính trị không thể
trái ý muốn của dân”23. Từ việc nhận thức
đúng vai trò của quần chúng nhân dân, Minh
Mệnh xác định và hướng đến giải quyết một
vấn đề mang tính bản ngã luận đó là: “Dân
lấy việc ăn làm lớn nhất”24, cho nên, mọi
việc quốc gia đại sự, cuối cùng là để nhân
dân được no ấm, đây là mục đích sống còn
và là tiền đề để phát triển đất nước: “Nếu cứ
ngồi nhìn dân kêu đói thì kho tàng chứa đầy
để làm gì?”, “Điều đáng lo ấy là lo dân ta
đói kém thôi”. Do vậy, ông chủ trương phải
củng cố và phát triển dân sinh “gốc của việc
dân sinh là làm ruộng, siêng năng cấy gặt,
thu được mùa to”25.
22 Quốc sử quán triều Nguyễn, Sđd, tr. 352
23 Đại Nam Thực lục chính biên, Sđd, tập IX, tr.67
24 Đại Nam Thực lục chính biên, Sđd, Tập XII, tr. 91
25 Quốc sử quán triều Nguyễn, Sđd, tập 2, tr. 61
26 Vũ Thị Phụng, Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2007, tr.135
- Pháp luật là đại lượng cơ bản để chế
ước, hạn chế, kiểm soát quyền lực nhà nước.
So với thời Hậu Lê, việc chế ước, kiểm soát
quyền lực được nhà Nguyễn phát triển và
thi hành triệt để hơn với các thiết chế hoàn
thiện hơn. Các cuộc cải cách đã diễn ra khá
triệt để. Ở Trung ương, Minh Mệnh quy
định cụ thể về chế độ, chức trách của quan
lại, về nhiệm vụ cơ bản của 6 bộ, quy định
cụ thể 6 khoa (do cấp sự trung đứng đầu)
tương ứng bên cạnh 6 bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh,
Hình, Công) và 6 tự (do tự khanh đứng
đầu). Đây là các cơ quan chịu trách nhiệm
trực tiếp trước vua. Hai cơ quan giúp việc
quan trọng cho vua là Viện Cơ mật và Nội
các (dưới thời Gia Long là Văn thư phòng)
vẫn được duy trì. Đặc biệt, ở trung ương, tổ
chức các cơ quan cao cấp là Đô sát viện phụ
trách việc kiểm sát (phát hiện, tâu lên vua
những việc làm của các bộ không đúng quy
tắc, lễ nghi, có quyền buộc tội những việc
làm không đúng của hoàng thân và quan lại
ở trung ương và địa phương26) và Đại lý tự
phụ trách việc xét xử, hai cơ quan này kết
hợp với bộ Hình thành Tam pháp ty. Tam
pháp ty có trụ sở là Công chính đường với
nhiệm vụ là nhận đơn, bàn luận và trình vua,
sau khi có chỉ thị của vua thì phân bổ việc thi
hành cho các cơ quan tương ứng. Bên cạnh
các cơ quan này, còn có những viên quan
khâm sai, kinh lược làm nhiệm vụ thanh tra
tình hình ở các địa phương để phục vụ nhà
vua trong việc cai trị đất nước.
Tuy không hoàn toàn giống nhau,
nhưng tựu chung lại, các triều đại phong
kiến Việt Nam đều đã nhận thấy vai trò to
lớn của pháp luật, đều xem pháp luật là công
cụ quan trọng để xây dựng, tổ chức và vận
hành bộ máy chính quyền; bảo vệ quyền, lợi
ích của nhân dân và đặc biệt là kiểm soát,
nâng cao hiệu quả thực hiện quyền lực nhà
nước, nâng cao trách nhiệm của đội ngũ
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
22 Số 8(360) T4/2018
quan lại trong quá trình thực thi công vụ.
Vậy, những yếu tố nào được xem là có vai
nền tảng của tư tưởng chính trị pháp lý này?
2. Nền tảng tư tưởng đề cao pháp
luật của các triều đại phong kiến
Việt Nam
Việc nhận thức, đề cao vai trò của
pháp luật trong các triều đại phong kiến Việt
Nam không phải trong một sớm một chiều,
mà được bồi đắp, tác động từ không ít các
yếu tố mang tính nền tảng như:
- Bối cảnh chính trị, kinh tế - xã hội
Đại Việt sau khi giành chính quyền độc lập,
tự chủ và yêu cầu khách quan trong quản lý,
phát triển đất nước của các triều đại phong
kiến Việt Nam.
Chiến thắng Bạch Đằng lừng lẫy năm
938 đã mở ra cho dân tộc Việt Nam một
thời kỳ mới: thời kỳ xây dựng, bảo vệ và
phát triển chính quyền phong kiến tự chủ,
độc lập. Tuy nhiên, sau hơn 1.000 năm Bắc
thuộc, di sản để lại cho Đại Việt không chỉ
là sự lạc hậu, kém phát triển về kinh tế, sự
phức tạp, lai nhập về văn hóa, nguy cơ ngoại
xâm vẫn luôn rình rập mà còn là cả hệ thống
các quan hệ xã hội đa dạng, mâu thuẫn, xu
hướng cát cứ phát triển.
Công việc trọng đại mà các nhà nước
buổi đầu tự chủ phải gánh vác là bằng mọi
giá giữ vững độc lập, tự chủ, từng bước xây
dựng nhà nước quân chủ trung ương tập
quyền, xây dựng nền văn hóa mang tính dân
tộc. Các lĩnh vực quan hệ xã hội cần được
điều chỉnh theo hướng tăng cường sự thống
nhất, đoàn kết các thành phần dân cư trong
xã hội, nhằm tập trung và phát huy được cao
nhất sức mạnh toàn dân trong việc giành và
giữ chính quyền. Kế đó, quyền lực nhà nước
phải được duy trì trên cơ sở tập trung sức
mạnh vào Nhà vua và chính quyền triều đình
trung ương, nhằm từng bước trấn áp và hạn
chế các thế lực phong kiến cát cứ, xây dựng
một xã hội có trật tự, kỷ cương đáp ứng nhu
cầu và nguyện vọng của Nhân dân - những
con người vốn đã cùng các triều đại nếm
mật, nằm gai trong quá trình đánh đuổi giặc
ngoại xâm.
Bên cạnh đó, là áp lực trong việc thực
hiện các chức năng xã hội của Nhà nước như
đắp đê, trị thủy, khắc phục những hạn chế
do yếu tố địa hình ven biển, dốc, nhiều sông
ngòi mang lại. Theo đó, công việc đắp đê trị
thủy và chống giặc ngoại xâm là những chức
năng thường xuyên và đặc biệt quan trọng
của Nhà nước Việt Nam. Muốn thực hiện
được các chức năng xã hội quan trọng này,
phải tập hợp được sức mạnh của đông đảo
quần chúng. Nhà nước phải trở thành một
chủ thể thay mặt xã hội, đại diện cho toàn
thể xã hội để giải quyết các vấn đề trọng đại
đó trên cơ sở sự ủng hộ, đồng lòng của Nhân
dân. Vậy nên, nhiều nhà nước phong kiến
đã lấy việc đảm bảo sự đồng thuận, niềm
tin trước Nhân dân thành một mục tiêu của
Nhà nước. Nhân dân trở thành chủ thể để
đánh giá về hiệu quả hoạt động của Nhà
nước. Việc hiện thực hóa các chức năng xã
hội trở thành một áp lực lên Nhà nước. Do
đó, Nhà nước không thể không tính đến các
cách thức để tăng cường hiệu quả hoạt động
đồng thời kiểm soát và hạn chế sự lạm dụng
quyền lực.
Và chỉ có pháp luật, với các đặc trưng
vốn có của nó, mới thực sự là công cụ cơ bản
giúp các triều đại tổ chức lại xã hội, đồng
thời giải quyết tất cả các yêu cầu khách quan
của xã hội Đại Việt những ngày đầu dựng
nước, bảo vệ chính quyền.
- Sự thấm nhuần lý thuyết Đức trị và
Pháp trị trong quá trình cai trị của các triều
đại phong kiến
Nho giáo (đức trị), với các tư tưởng
dân vi bản, tôn quân quyền, pháp tiên vương,
hay chính danh đã là những tiền đề quan
trọng cho tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước. Pháp giáo (pháp trị) là tư tưởng
cai trị, quản lý nhà nước bằng pháp luật,
pháp luật là công cụ làm nên trật tự và bình
đẳng trong xã hội. Bậc làm vua phải thâu
tóm quyền lực nhà nước bằng các thuật của
mình trong các lĩnh vực như tổ chức bộ máy
nhà nước, kiểm tra giám sát, thưởng phạt,
dùng người... để có thể đảm bảo cho pháp
luật được thi hành trong cuộc sống.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
23Số 8(360) T4/2018
Quá trình vận dụng các lý thuyết Đức
trị và Pháp trị của Trung Quốc đã cho thấy
những hạn chế của chính chúng nếu vận
dụng đơn lẻ, máy móc vào xã hội. Nho giáo
với chủ trương đức trị đã không thể điều hòa
nổi những mâu thuẫn khốc liệt trong xã hội
Tây Chu do phân phong ruộng đất và cát cứ;
ngược lại, sự tàn bạo, hà khắc của lý thuyết
pháp trị được vận dụng triệt để trong nhà
Tần đã làm cho nhà Tần nhanh chóng bị diệt
vong, lý thuyết pháp trị bị nghi ngờ. Điều
này được nhà Đông Hán, và hầu hết các
triều đại tiếp sau của Trung Quốc rút kinh
nghiệm, tiến hành chính sách cai trị mềm
dẻo, có sự kết hợp cả hai yếu tố Đức trị và
Pháp trị.
Dân tộc Đại Việt nằm dưới ách cai
trị của các triều đại Trung Quốc hơn 10 thế
kỷ, nên đã vừa thụ động, vừa chủ động tiếp
nhận các lý thuyết cai trị này. Và theo thời
gian, sự kết hợp Đức trị với Pháp trị trong
quá trình xây dựng, bảo vệ và phát triển đất
nước đã được thấm nhuần, vận dụng đầy
sáng tạo, linh hoạt trong đời sống pháp lý
của các vương triều phong kiến Việt Nam.
Có thể thấy, đặc biệt là ở triều Hậu Lê, triều
Nguyễn, Đức trị và Pháp trị đã trở thành nền
tảng tư tưởng của nhà nước trong quá trình
quản lý xã hội, chi phối mọi quan hệ cơ bản
trong xã hội, từ cách thức tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước, tiêu chuẩn, đến
cơ chế chịu trách nhiệm của những người
thừa hành công vụ,... Đây cũng chính là yếu
tố tác động đến quan niệm về nội dung cũng
như cách thức vận hành, sử dụng pháp luật
trong thực tiễn của pháp luật phong kiến
Đại Việt.
- Sự ảnh hưởng mạnh mẽ của các
phong tục, tập quán, truyền thống đạo lý
tốt đẹp của dân tộc Việt Nam trong đời sống
pháp lý.
Dễ nhận thấy, nội dung của pháp luật
phong kiến Việt Nam không chỉ là các quy
tắc, mà còn thể hiện sự kết hợp, tôn trọng,
phát huy tác dụng điều chỉnh của các phong
tục, tập quán, truyền thống đạo lý tốt đẹp
của dân tộc Việt Nam. Điều này do chính
yếu tố sự ảnh hưởng của các phong tục, tập
quán, truyền thống đạo lý của dân tộc Việt
Nam đem đến cho pháp luật.
Sở dĩ có yếu tố nền tảng này là vì:
làng, xã Việt Nam là những đơn vị tụ cư tự
nhiên được hình thành trong quá trình phát
triển của công xã thị tộc huyết thống. Sự cố
kết làng xã đã trở thành truyền thống do đặc
thù sản xuất nông nghiệp lúa nước và yêu
cầu khách quan của lịch sử dựng nước và
giữ nước Việt Nam. Các phong tục, truyền
thống của làng xã mang lại đã giúp giải
quyết được một phần không nhỏ các quan hệ
trong xã hội, đồng thời tạo thành nét riêng
khác cho pháp luật Việt Nam. Do đó, việc
pháp luật phong kiến Việt Nam chứa đựng
và phát huy vai trò của phong tục, tập quán
là một cách để giai cấp thống trị nâng cao
chất lượng của pháp luật. Đồng thời, thông
qua đó, chính quyền phong kiến muốn kiểm
soát, hạn chế quyền lực nhà nước, đặc biệt ở
cấp xã nhằm thay đổi thực tế này.
3. Giá trị hiện đại của tư tưởng đề cao
pháp luật trong quản lý nhà nước và
xã hội
Trước hết giá trị từ quan niệm pháp
luật là đại lượng cơ bản để bảo vệ quyền,
lợi ích chính đáng của người dân, bảo đảm
quyền con người. Tư tưởng này đã có tác
động nhất định lên cách thức tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước trong lịch
sử. Pháp luật đề cao trách nhiệm của Nhà
nước trong việc đảm bảo quyền và lợi ích
của Nhân dân, xem việc chăm lo, bảo vệ
nhân dân là mục đích cao nhất trong hoạt
động của nhà nước. Theo đó, mọi chính sách
pháp luật cần phải xuất phát từ con người,
hướng đến bảo vệ con người; việc xây dựng
chính sách, pháp luật phải có sự tham gia
của Nhân dân.
Tư tưởng quản lý nhà nước, xã hội
bằng pháp luật kết hợp với đạo đức mà
không ít triều đại trong lịch sử phong kiến
Việt Nam đã thực hành cũng là một định
hướng quan trọng trong quá trình quản lý
xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền. Tư
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
24 Số 8(360) T4/2018
tưởng này không chỉ có giá trị ở chỗ nó đề
cao sự kết hợp hài hòa giữa pháp luật và đạo
đức trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội,
ở yêu cầu về các giá trị đạo đức trong pháp
luật mà còn nhấn mạnh đến các "khoảng
trống" cần thiết mà pháp luật cần phải có để
đạo đức có thể phát huy hết vai trò của nó
trong đời sống xã hội. Ở một góc độ nào đó,
đây cũng chính là yêu cầu về việc mở rộng
phạm vi trách nhiệm thụ động của Nhà nước
trước việc hiện thực hóa các quyền cơ bản
của con người.
Pháp luật phải là công cụ cơ bản để
hạn chế, kiểm soát và giám sát quyền lực
nhà nước. Tư tưởng hiện đại này đã được
thể hiện khá cụ thể trong không ít triều đại
phong kiến Việt Nam. Hạn chế, kiểm soát
quyền lực để chống lạm quyền, tiếm quyền,
nâng cao hiệu quả hoạt động của nhà nước
và cũng chính là để bảo vệ tính thống nhất
của quyền lực vào Nhân dân. Nhân dân là
gốc của quyền lực, hay quyền lực nhân dân
là tối cao chỉ có thể thành hiện thực khi
quyền lực nhà nước bị hạn chế, kiểm soát.
Do đó, cách thức tổ chức nhà nước nào có
lợi cho việc bảo vệ quyền lực nhân dân nhất,
hạn chế được sự vượt quyền của nhà nước
nhất sẽ phải là cách thức tổ chức được lựa
chọn. Nhân dân trao quyền cho các cơ quan
nhà nước, với các chức năng, nhiệm vụ khác
nhau, có thể giám sát, kiểm soát được nhau,
và để cùng thực hiện hiệu quả quyền lực nhà
nước chính là một yêu cầu mang ý nghĩa
khách quan.
Tư tưởng đề cao trách nhiệm trực tiếp
và liên đới của các cơ quan công quyền trong
quá trình thực hiện quyền lực nhà nước cũng
là một tư tưởng có giá trị lớn. Hiếm thấy
trong hệ thống pháp luật thực định nào, vấn
đề trách nhiệm công vụ, trách nhiệm pháp
lý cá nhân lại được đề cập mạnh mẽ như
các triều vua thời đầu Hậu Lê, và thời nhà
Nguyễn. Hầu hết trong những văn bản pháp
luật quan trọng như Bộ Quốc triều hình luật,
27 Quốc triều khám tụng điều lệ, Sđd, tr. 269
Bộ Quốc triều khám tụng điều lệ, bộ Hoàng
Việt luật lệ, các quy định liên quan đến trách
nhiệm công vụ đều dự liệu kèm theo trách
nhiệm pháp lý cá nhân của công chức thừa
hành nếu vi phạm, thậm chí còn được nhấn
mạnh như bộ phận chính của quy phạm
pháp luật.
Tư tưởng về pháp luật và hoạt động
thực thi pháp luật tố tụng cũng là một trong
những tư tưởng có ý nghĩa lớn. Tinh thần
pháp luật tố tụng mà các triều đại phong
kiến Việt Nam mang lại, đó là: đã đưa ra
một hệ các quy tắc tố tụng để cán bộ tư pháp
chỉ được phép thực hiện trong phạm vi đó,
không được vượt quá, và phải luôn thể hiện
trách nhiệm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng
của con người, đặc biệt là nhóm người yếu
thế trong tố tụng.
Tinh thần này của pháp luật tố tụng
thời phong kiến có những điểm vượt thời
đại, thể hiện ở cả nội dung và cách thức
xây dựng. Nội dung pháp luật tố tụng đã tập
trung vào trách nhiệm của nhóm chủ thể có
thẩm quyền, gồm cả trách nhiệm công vụ và
trách nhiệm pháp lý. Hai loại trách nhiệm
này luôn được đặt trong tương quan với
quyền lợi của các bên tham gia tố tụng, của
con người nói chung. Các quy định phần lớn
thiết kế theo mô thức đưa ra cách thức xử sự,
dự liệu cụ thể chế tài xử lý vi phạm đối với
các cán bộ tư pháp trong quá trình tố tụng
như một đảm bảo cho hiệu quả và hiệu lực
của pháp luật. Sự độc đáo và tài tình này của
các nhà lập pháp phong kiến, mà điển hình
là triều Hậu Lê và triều Nguyễn đã làm cho
pháp luật tố tụng hình sự thực sự mang tinh
thần pháp quyền, thể hiện đúng thiên chức
của nó, như lời chỉ dụ của vua Lê Hiển Tông
khi ban hành Bộ Quốc triều hình luật: “liên
quan đến việc kiện tụng cốt ở chỗ trong sạch
và giảm bớt... nhằm dùng chính sự để công
bằng về lý trong các việc kiện tụng, khiến
dân có chỗ nương nhờ”27
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
25Số 8(360) T4/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tu_tuong_de_cao_phap_luat_trong_cac_trieu_dai_phong_kien_vie.pdf