Tư tưởng Hồ Chí Minh - Hệ tư tưởng chính trị

Về phạm vi của Đề án. - Tán thành Đề án này đề cập đến hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn, bao gồm đảng bộ, chi bộ cơ sở, chính quyền (hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân), các tổ chức chính trị - xã hội. Còn các cơ quan, doanh nghiệp . cũng là đơn vị cơ sở, nhưng không thuộc phạm vi Đề án. Nội dung Đề án cần đề cập đầy đủ và sâu hơn về hệ thống chính trị ở phường (nay đang có xu hướng phát triển đô thị hoá, số phường và thị trấn sẽ tăng lên); làm rõ những giải pháp được thực hiện cho cả xã, phường, thị trấn và cả những giải pháp chỉ áp dụng riêng đối với phường. - Với phạm vi của Đề án như trên, Bộ Chính trị đồng ý tên của Đề án là "Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở". Kết cấu của Đề án đi thẳng vào những vấn đề bức xúc phải đổi mới để nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị. Từng vấn đề lấy yêu cầu mới để đánh giá thực trạng, làm nổi bật những điểm cần đổi mới; trên cơ sở đó đề ra chủ trương đến giải pháp. Tuy nhiên, cân nhắc thêm ý kiến đề nghị nên có một phần riêng về đổi mới phương thức và phong cách làm việc của hệ thống chính trị ở cơ sở theo hướng : gần dân, sát dân, trực tiếp với dân và phục vụ nhân dân; nên có một mục riêng về hệ thống chính trị cơ sở ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, gắn kết được vị trí, vai trò của già làng với trưởng bản cho phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Tuy việc đánh giá tình hình Đề án không đặt thành vấn đề trung tâm. Song, cũng cần thể hiện một cách khái quát nêu rõ những bất cập về hệ thống tổ chức (cơ cấu, chức năng, nhiệm vụ), năng lực lãnh đạo, quản lý và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị ở xã, phường trước yêu cầu phát triển của nông thôn trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tư tưởng Hồ Chí Minh - Hệ tư tưởng chính trị

doc13 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1775 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh - Hệ tư tưởng chính trị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở. II. Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của tổ chức đảng ở cơ sở 1. Nâng cao nhận thức và làm đúng vai trò hạt nhân chính trị - Đảng bộ, chi bộ cơ sở là hạt nhân lãnh đạo toàn diện các mặt công tác ở cơ sở, cần nắm vững nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, chăm lo xây dựng chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị hướng vào phục vụ nhân dân, đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến mọi người dân và tổ chức thực hiện tốt ở cơ sở, phản ánh và giải đáp mọi tâm tư nguyện vọng của nhân dân, khơi dậy trí tuệ và nguồn lực của dân, không ngừng nâng cao trình độ dân sinh, dân trí, dân chủ ở cơ sở. - Mọi đảng viên phải nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu, vững vàng về chính trị, có đạo đức trong sáng, có lối sống lành mạnh, gắn bó với nhân dân, thật sự tiêu biểu cho lực lượng tiến bộ nhất ở cơ sở, phấn đấu trở thành người lao động giỏi, người công dân mẫu mực. Đảng viên hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh phải phấn đấu làm kinh tế giỏi, đi đầu trong việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới, ra sức làm giàu chính đáng và lôi cuốn, vận động bà con cùng làm giàu, không cam chịu đói nghèo. - Công tác phát triển đảng viên mới nhằm vào những người lao động giỏi, có đạo đức và lối sống lành mạnh, có uy tín trong quần chúng, những người có lý tưởng cách mạng, tích cực hoạt động trong hệ thống chính trị, có vai trò nòng cốt trong các đoàn thể nhân dân và các tổ chức tự quản của dân. Đối với những đảng viên không chịu khó làm việc, lười học tập, đã được tập thể giúp đỡ mà không tiến bộ thì vận động họ ra khỏi Đảng. Từng đảng bộ, chi bộ cơ sở phải phấn đấu không còn đảng viên yếu kém. 2. Đổi mới phương thức lãnh đạo - Đổi mới việc ra nghị quyết của đảng bộ, chi bộ, của cấp uỷ đảng: Đối với những vấn đề lớn, quan hệ tới cuộc sống và quyền lợi của đông đảo nhân dân địa phương, đòi hỏi sự phối hợp của cả hệ thống chính trị ở cơ sở, đảng bộ, chi bộ và cấp uỷ đảng đề ra chủ trương và các giải pháp có tình định hướng và phân công, giao trách nhiệm cho các tổ chức trong hệ thống chính trị đề ra biện pháp và tổ chức thực hiện theo quyền hạn, trách nhiệm của từng tổ chức. Những chủ trương công tác thuộc thẩm quyền quyết định của chính quyền và đoàn thể thì chính quyền và đoàn thể chủ động đề xuất, cấp uỷ đảng bàn và có ý kiến về những nội dung quan trọng. Xây dựng và thực hiện quy chế làm việc giữa Bí thư cấp uỷ với Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và những người đứng đầu các đoàn thể nhân dân để bàn và giải quyết kịp thời những công việc quan trọng và bức xúc trên địa bàn, bảo đảm cho cấp uỷ đảng quán xuyến được các mặt công tác ở xã, phường, thị trấn. - Đảng bộ, chi bộ và cấp uỷ đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ gồm nhiều thế hệ bổ sung, kế tiếp nhau thông qua việc rèn luyện đội ngũ đảng viên, đồng thời phát hiện và bồi dưỡng những người có tài, có đức trong dân để đảm đương các vị trí công tác trong hệ thống chính trị. Dựa vào dân và thông qua hoạt động thực tiễn ở cơ sở để phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, kiểm tra cán bộ. Sự lãnh dạo của Đảng đối với các cuộc bầu cử ở cơ sở trước hết là bảo đảm phát huy dân chủ, thực hiện đúng nguyên tắc, tiêu chuẩn. Việc giới thiệu đảng viên và người ngoài Đảng để nhân dân, hội đồng nhân dân, đại hội và ban chấp hành các đoàn thể bầu vào các chức danh lãnh đạo phải dựa trên sự đề cử, ứng cử từ dưới lên. Thực hiện nghiêm túc việc thăm dò, lắng nghe ý kiến nhân dân trước khi bầu cử cấp uỷ. Việc bố trí Bí thư đảng uỷ đồng thời làm Chủ tịch Hội đồng nhân dân hay Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tuỳ theo tình hình cụ thể ở từng nơi. - Tăng cường công tác kiểm tra việc chấp hành nghị quyết của đảng bộ, đảng uỷ; kiểm tra công tác đồng thời kiểm tra tư cách đảng viên. Chú trọng tìm hiểu, lắng nghe ý kiến nhận xét, đánh giá của quần chúng đối với đảng viên và tổ chức đảng thông qua việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Hàng năm, Bí thư cấp uỷ, Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tự phê bình trước dại diện của nhân dân. Theo tinh thần trên, Ban Bí thư ban hành quy chế và hướng dẫn cho các tổ chức đảng ở xã, phường, thị trấn thực hiện phù hợp với điều kiện thực tế. III. Đổi mới và nâng cao hiểu lực của chính quyền cơ sở 1. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cơ sở Chính quyền cơ sở có chức năng, nhiệm vụ tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các mục tiêu kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng ở cơ sở; thực hiện việc quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn theo thẩm quyền được giao; hướng dẫn và giám sát các hoạt động tự quản của dân, tạo thuận lợi cho dân và doanh nghiệp làm ăn theo pháp luật. Cấp trên không dồn cho cơ sở những công việc thuộc chức năng cấp trên phải làm và không buộc cơ sở phải làm tất cả mọi việc về quản lý hành chính nhà nước. Phân cấp rành mạch cả nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và phương tiện thực hiện cho chính quyền cấp cơ sở trong việc thu, chi ngân sách, sắp xếp và quản lý cán bộ, quản lý đất đai, bảo vệ đê điều, thuỷ nông, quản lý hộ tịch, quản lý các dự án đầu tư thuộc vốn ngân sách và vốn huy động trong dân, quản lý cơ sở vật chất về giáo dục, y tế, văn hoá phục vụ cho nhân dân trong xã, phường, thị trấn. Chính quyền cấp cơ sở được cấp trên uỷ quyền thực hiện trên địa bàn việc thu một số loại thuế, quản lý tài nguyên, thực hiện chính sách xã hội bằng kinh phí ngân sách, thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh... Chính quyền phường không quản lý toàn diện các hoạt động sản xuất, đời sống dân cư trên địa bàn như chính quyền xã, thị trấn, song có nhiệm vụ rất quan trọng trong quản lý đô thị. Cần phân định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm và tạo điều kiện để chính quyền phường thực hiện tốt nhiệm vụ, đặc biệt là trong việc quản lý thực hiện quy hoạch, quản lý đất đai, nhà ở, hộ tịch, vệ sinh môi trường, trật tự đô thị. Thôn, làng, ấp, bản, sóc (gọi chung là thôn) là địa bàn quan trọng để phát huy các hình thức tự quản của cộng đồng dân cư trên cơ sở quan hệ truyền thống gắn bó trong đời sống vật chất và văn hoá. Khu phố hoặc tổ dân phố (tổ chức dưới phường) cũng có điều kiện và khả năng thực hiện một số hoạt động tự quản như giúp đỡ nhau sản xuất, giảm nghèo, bảo thọ, xây dựng đời sống văn hoá, phòng chống các tệ nạn xã hội, giữ gìn trật tự, vệ sinh, môi trường... Thôn, khu phố hoặc tổ dân phố không phải là một cấp hành chính. Trưởng thôn, trưởng khu phố hoặc tổ trưởng dân phố do dân trực tiếp bầu vừa là người đại diện cho dân, vừa là người đại diện cho chính quyền xã, phường, thị trấn để thực hiện một số nhiệm vụ hành chính tại thôn, khu phố, tổ dân phố. Ở những nơi đông đồng bào dân tộc thiểu số phải coi trọng vai trò của già làng, vận động nhân dân bầu già làng có điều kiện làm trưởng thôn, trưởng bản. Hoàn thiện quy chế dân chủ ở cơ sở, sửa đổi những quy định không phù hợp, bổ sung điều kiện và phương tiện để đưa việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở vào nền nếp thường xuyên. 2. Đổi mới hoạt động của Hội đồng nhân dân Hội đồng nhân dân quyết định mục tiêu kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng tại cơ sở, những công việc mà xã, phường, thị trấn được phân cấp và những việc đáp ứng yêu cầu tự quản của cộng đồng dân cư ở cơ sở; bầu và phê chuẩn các chức danh hành chính theo luật định; giám sát hoạt động của cơ quan hành chính và những công việc do cấp trên thực hiện trên địa bàn, nhất là việc sử dụng đất đai, quỹ công, tài sản công, kể cả các quỹ do dân đóng góp, bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. - Đổi mới cơ chế bầu cử, bảo đảm cho dân đề cử, ứng cử, lựa chọn các đại biểu Hội đồng nhân dân thực sự là người đại diện cho dân; tăng thêm số lượng đại biểu đồng nhân dân so với hiện nay; tăng tỷ lệ thích đáng đại biểu Hội đồng nhân dân là người ngoài Đảng; tăng số kỳ họp và nâng cao chất lượng các kỳ họp Hội đồng nhân dân. - Các đại biểu Hội đồng nhân dân, ngoài việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong các kỳ họp hội đồng, còn được phân công tham gia các hoạt động thường xuyên, gắn bó với dân như tổ chức giám sát của Hội đồng nhân dân, của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, ban thanh tra nhân dân, tổ hoà giải, các tổ chức tự quản của dân... 3. Nâng cao hiệu lực của cơ quan hành chính - Đề cao trách nhiệm và thẩm quyền của cơ quan hành chính xã, phường, thị trấn + Đối với những nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, những công việc được phân cấp và những việc tự quản của cộng đồng dân cư, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân đưa ra Hội đồng nhân dân bàn, quyết định chủ trương, sau đó tổ chức thực hiện. + Đối với những công việc được cấp trên uỷ quyền, cơ quan hành chính tổ chức thực hiện theo đúng quy định của cấp trên. + Đối với công việc tự quản của thôn và các tổ chức tự quản khác, cơ quan hành chính hướng dẫn, hỗ trợ và giám sát việc tuân thủ pháp luật. + Đối với các khiếu kiện của dân, phải đề cao trách nhiệm giải quyết theo thẩm quyền, không để dây dưa kéo dài. - Về tổ chức cơ quan hành chính Giữ chế độ Uỷ ban nhân dân, nhưng thu gọn số thành viên. Quy định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của tập thể Uỷ ban nhân dân, của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân và các thành viên trong Uỷ ban nhân dân. Kiện toàn bộ máy giúp việc gồm văn phòng Uỷ ban nhân dân và ba khối công việc: khối kinh tế - tài chính (kể cả kế toán), khối văn hoá - xã hội và khối nội chính (đối với phường, có thể vận dụng quy định chung để tổ chức các khối công việc cho phù hợp). - Về điều kiện và phương tiện làm việc Tạo điều kiện cho chính quyền cơ sở chủ động về ngân sách, mở rộng các khoản thu, bảo đảm cho những cơ sở ở trình độ phát triển trung bình có thể tự cân đối được chi thường xuyên. Thực hiện quy chế định kỳ kiểm toán nhà nước, công khai thu, chi ngân sách cho dân biết. Xây dựng trụ sở làm việc phục vụ chung cho các cơ quan trong hệ thống chính trị ở cơ sở, nhất là ở miền núi và các vùng có khó khăn. Phấn đấu đến năm 2005 các xã, phường, thị trấn đều có trụ sở làm việc. Trang bị các phương tiện làm việc cần thiết và từng bước hiện đại hoá theo yêu cầu tin học hoá hệ thống quản lý hành chính nhà nước. Bảo đảm tốt hệ thống truyền thanh, nhà bưu điện - văn hoá để nhân dân tiếp nhận thông tin và hội họp. IV. Đổi mới công tác mặt trận và các đoàn thể nhân dân 1. Mặt trận và các đoàn thể nhân dân đóng vai trò nòng cốt xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân sát hợp với nhu cầu và lợi ích của hội viên, đoàn viên; trên cơ sở đó, tập hợp rộng rãi và nâng cao tính tự giác của hội viên, đoàn viên, xây dựng tổ chức vững mạnh; tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến mọi người dân; vận động nhân dân thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng; tiến hành có hiệu quả các cuộc vận động và phong trào thi đua. Mặt trận và các đoàn thể nhân dân thúc đẩy việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, phản ánh ý kiến của quần chúng về xây dựng Đảng và chính quyền, phát giác hành vi tham nhũng, lãng phí, vi phạm dân chủ; tham gia hoà giải các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, bày tỏ thái độ đối với những khiếu kiện của dân để góp phần giải quyết từ gốc. Đa dạng hoá các hình thức tập hợp quần chúng; coi trọng và mở rộng các tổ chức và hoạt động tự quản của nhân dân dưới nhiều hình thức phong phú; các hội viên, đoàn viên chủ động tham gia vào các tổ chức đó, làm nòng cốt vận động và tổ chức hoạt động đúng mục đích, đúng pháp luật. 2. Đổi mới cơ chế bảo đảm kinh phí hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở cơ sở Phát huy tính chủ động của các đoàn thể ở cơ sở trong việc tạo nguồn và sử dụng kinh phí. Sửa đổi những quy định không còn phù hợp về hội phí, đoàn phí; thu đủ hội phí, đoàn phí và ưu tiên dành cho cơ sở. Nhà nước cấp một phần kinh phí hoạt động cho Mặt trận và các đoàn thể nhân dân và tạo điều kiện để các đoàn thể gây quỹ theo đúng pháp luật. Kinh phí do Nhà nước cấp được Hội đồng nhân dân ở cơ sở giao khoán cho Mặt trận và từng đoàn thể nhân dân chủ động quyết định việc chi tiêu, kể cả việc trả phụ cấp cho cán bộ không chuyên trách. V. Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở 1. Hệ thống chính trị ở cơ sở có cán bộ chuyên trách và cán bộ không chuyên trách Cán bộ chuyên trách là những cán bộ phải dành phần lớn thời gian lao động làm việc công để thực hiện chức trách được giao, bao gồm : - Cán bộ giữ chức vụ qua bầu cử gồm: cán bộ chủ chốt của cấp uỷ đảng, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, những người đứng đầu Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. - Cán bộ chuyên môn được Uỷ ban nhân dân tuyển chọn gồm: công an trưởng, xã đội trưởng, cán bộ văn phòng, địa chính, tài chính - kế toán, tư pháp, văn hoá - xã hội. Số lượng cán bộ chuyên trách do Chính phủ quy định. Cán bộ chuyên trách ở cơ sở có chế độ làm việc được hưởng chính sách về cơ bản như cán bộ, công chức nhà nước; khi không còn là cán bộ chuyên trách mà chưa đủ điều kiện để hưởng chế độ hưu trí, được tiếp tục tự đóng bảo hiểm xã hội hoặc hưởng phụ cấp một lần theo chế độ nghỉ việc. Cán bộ, công chức cơ sở có đủ điều kiện được thi tuyển vào ngạch công chức ở cấp trên. Pháp lệnh cán bộ, công chức hiện hành cần được sửa đổi theo hướng bao gồm cả cán bộ, công chức cơ sở. Cán bộ không chuyên trách là những người chỉ tham gia việc công trong một phần thời gian lao động. Căn cứ hướng dẫn của Trung ương, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định khung về số lượng và mức phụ cấp cho cán bộ không chuyên trách trong hệ thống chính trị ở cấp cơ sở (kể cả trưởng thôn). 2. Chế độ đào tạo, bồi dưỡng Tích cực trẻ hoá và từng bước chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở. Phấn đấu từ nay đến hết năm 2005 có khoảng 70-80% cán bộ chuyên trách giữ chức vụ qua bầu cử được đào tạo, bồi dưỡng đạt tiêu chuẩn quy định khoảng 80% cán bộ, công chức chuyên môn có trình độ trung cấp trở lên đối với đồng bằng, sơ cấp trở lên đối với miền núi. Đổi mới căn bản chương trình, nội dung và phương pháp giảng dạy đối với cán bộ cơ sở theo hướng đào tạo cơ bản, bồi dưỡng theo chức danh, bảo đảm tính thiết thực. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên và tăng cường cơ sở vật chất ở các trường chính trị cấp tỉnh, các trung tâm giáo dục chính trị cấp huyện. Nâng cao mặt bằng dân trí; mở rộng mạng lưới trường dạy nghề, trung cấp, cao đẳng ở các tỉnh, huyện, các trường, lớp nội trú cho con em đồng bào các dân tộc để tạo nguồn cán bộ cho cơ sở. Có chính sách thu hút những người được đào tạo chuyên môn, nhất là sinh viên tốt nghiệp đại học và cao đẳng về làm cán bộ, công chức ở cơ sở và đưa cán bộ giáo dục, y tế về công tác ở cơ sở. Ở những nơi còn thiếu cán bộ tại chỗ, nhất là các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, cần kết hợp đào tạo cán bộ thông qua việc thực hiện nghĩa vụ quân sự, luân chuyển cán bộ ở huyện, tỉnh về công tác ở cơ sở với nhiệm vụ chính là dìu dắt, bồi dưỡng cán bộ tại chỗ. VI. Đổi mới sự chỉ đạo của cấp trên đối với cơ sở Các tổ chức trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cấp huyện phải đổi mới phương thức chỉ đạo, khắc phục bệnh quan liêu, xa dân, hướng mạnh tới cơ sở, tới thôn, xóm, ấp, bản, tăng cường đi sát, làm việc trực tiếp với cơ sở, với dân, thấu hiểu nguyện vọng của dân, cùng với cơ sở giải quyết vướng mắc cho dân, tổng kết những điển hình tốt từ cơ sở, những sáng kiến của dân. Mỗi cấp có quy chế cụ thể về thời gian làm việc tại cơ sở, giảm bớt sự chỉ đạo bằng giấy tờ và triệu tập cán bộ cơ sở lên họp. Trong năm 2002, đồng thời với việc tiếp tục cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, Mặt trận Tổ quốc cùng với Nhà nước phát động một cuộc vận động mới về kinh tế. “Toàn dân thi đua làm kinh tế giỏi, từng nhà làm giàu cho mình, cho cộng đồng cơ sở và cho đất nước”. Cuộc vận động rộng lớn về kinh tế này liên kết và phát huy các cuộc vận động của từng đoàn thể đang tiến hành về tổ chức làm ăn, cải thiện đời sống. Sớm sửa đổi, bổ sung Luật về tổ chức Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân (với quy định cụ thể về phân cấp, uỷ quyền cho chính quyền cơ sở), Pháp lệnh về cán bộ, công chức (bổ sung quy định đối với cán bộ, công chức cơ sở), ban hành Luật về hội, các quy chế về tổ chức, phương thức làm việc của tổ chức đảng và đoàn thể ở cơ sở, các chính sách đối với cán bộ ở cơ sở. Trong việc hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết này đối với cơ sở, cần có biện pháp sát hợp với những nơi tập trung đồng bào dân tộc thiểu số, vận dụng những nguyên tắc chung đối với hệ thống chính trị ở cơ sở để quy định cụ thể cho phường. Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo các quận, huyện, thành phố, thị xã tổng kết, đánh giá đúng thực chất của các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở, có sự phân loại các cơ sở và đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là đội ngũ cán bộ chủ chất để có giải pháp phù hợp. Có biện pháp cụ thể với sự hỗ trợ về cán bộ và tài chính để sớm khắc phục tình trạng yếu kém của hệ thống chính trị trong một số xã, phường; trước hết phải tập trung chấn chỉnh cho được các cơ sở đang có nguy cơ trở thành điểm nóng. Nghị quyết này cần được sự phối hợp tổ chức thực hiện của các cơ quan chỉ đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cả 4 cấp. Trung ương và các cấp tỉnh, huyện phân công một số đồng chí trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư, thường vụ cấp uỷ trực tiếp chỉ đạo thực hiện nghị quyết Trung ương và có cơ quan thường trực ở từng cấp để thống nhất chương trình hành động từng thời gian, định kỳ kiểm điểm kết quả, đề xuất các giải pháp thúc đẩy và nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện. ĐCSVN) – Nhà xuất bản Chính trị quốc gia vừa xuất bản cuốn sách “Nhà nước trong hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay" do PGS.TS Lê Minh Quân – Viện Chính trị học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh chủ biên. Nhà nước Việt Nam có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống chính trị được quy định bởi chức năng và nhiệm vụ của nó trong hệ thống chính trị, trong đời sống xã hội và được thể hiện trong mối quan hệ giữa Nhà nước với Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị. Nhà nước thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành hiến pháp, pháp luật và chính sách làm công cụ quản l‎ý nhà nước đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong hệ thống chính trị nước ta, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là trụ cột, là công cụ tổ chức thực hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Đó chính là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mặt khác, Nhà nước chịu sự lãnh đạo và thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Những đặc trưng của Nhà nước tạo nên những nét khác biệt nhất định về tổ chức và phương thức hoạt động giữa Nhà nước với Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay. Việc xác định đúng vị trí, vai trò và nhiệm vụ của Nhà nước trong hệ thống chính trị có ‎ý nghĩa lý‎ luận và thực tiễn trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị, khắc phục sự chồng chéo, lấn sân giữa các thành tố trong hệ thống chính trị, nhất là trong mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước ở nước ta trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Cuốn sách được chia thành 5 phần: Phần I: Địa vị chính trị - pháp lý của nhà nước trong hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay. Địa vị chính trị - pháp l‎ý của Nhà nước ta được ghi nhận trong các văn kiện chính trị và pháp lý‎ quan trọng của Đảng và Nhà nước, được sự công nhận của các nước và các tổ chức quốc tế. Ngay từ khi mới ra đời, Nhà nước ta đã mang tính hợp hiến, hợp pháp và tính đại diện rất cao. Các Hiến pháp của nước ta luôn ghi nhận địa vị chính trị - pháp lý‎ của nước ta, xác định vị trí và vai trò của Nhà nước trong đời sống chính trị nói chung và hệ thống chính trị nước ta nói riêng. Nhà nước là thành quả vĩ đại của cuộc đấu tranh chống thực dân, đế quốc lâu dài và gian khổ của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và của toàn thể dân tộc ta, do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Nhà nước ta là tổ chức chính trị - pháp lý‎ quản lý‎ nhà nước đối với mọi mặt của đời sống xã hội. Nhà nước tác động, ở những mức độ khác nhau, đến tất cả các lĩnh vực và đối tượng xã hội. Địa vị chính trị - pháp lý‎ của Nhà nước ta trong hệ thống chính trị còn được thể hiện trong mối quan hệ với các thành tố khác của hệ thống chính trị là quan hệ giữa Nhà nước với Đảng và quan hệ giữa Nhà nước với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội khác. Với địa vị chính trị - pháp lý‎ quan trọng như vậy, yêu cầu đổi mới và hoàn thiện Nhà nước nhằm củng cố và tăng cường địa vị chính trị - pháp lý của Nhà nước trong hệ thống chính trị trở thành một yêu cầu tất yếu, trong đó, tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội; đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh và từng bước hiện đại, tiếp tục cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp. Chương II: Nhà nước – trụ cột của hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay Đặc trưng của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, các cơ quan quyền lực nhà nước được lập nên thông qua các cuộc bầu cử phổ thông, dân chủ, tự do và bình đẳng. Quyền lực của Nhà nước là quyền lực của nhân dân, do nhân dân ủy nhiệm thông qua lá phiếu của mình; tổ chức, cơ chế vận hành của bộ máy nhà nước do nhân dân quyết định. Các vấn đề trọng đại của đất nước đều phải hỏi ‎ý kiến nhân dân. Những đóng góp‎, khiếu nại, tố cáo của nhân dân đối với Nhà nước đều được tôn trọng, xem xét, tiếp thu và giải quyết. Do đó, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có chức năng và nhiệm vụ cơ bản là cung cấp các loại dịch vụ công ích đem lại lợi ích cho mọi người dân sinh sống trên lãnh thổ của mình, những hàng hóa công cộng thuần túy. Ngoài ra, Nhà nước ta thực hiện hai chức năng chính trị và xã hội thống nhất với nhau, do lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là thống nhất với nhau. Nhà nước ta hiện nay được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa. Từ nguyên tắc này, bộ máy nhà nước được xây dựng theo hướng vừa đảm bảo sự thống nhất quyền lực, vừa có sự phân công, phân nhiệm ngày càng rành mạch. Bộ máy tổ chức Nhà nước ta gồm: Quốc hội (là cơ sở của hệ thống các cơ quan nhà nước khác, là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Mọi quyền lực nhà nước được thống nhất ở Quốc hội. Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn chủ yếu như lập pháp, hiến pháp, giám sát tối cao việc tuân thủ hiến pháp, pháp luật; quyết định những vấn đề quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và nhiều nhiệm vụ quan trọng về tổ chức cán bộ, về các chính sách…). Chủ tịch nước (người đứng đầu nhà nước, thay mặt đất nước về đối nội và đối ngoại, do Quốc hội bầu. Chủ tịch nước phải báo cáo công việc của mình trước Quốc hội và chịu trách nhiệm trước QH). Chính phủ (được xây dựng theo hướng tập trung vào lĩnh vực hành chính nhà nước, vừa là cơ quan chấp hành củ cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Chính phủ cũng được xác định là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất. Chính phủ thống nhất quản l‎ý việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại nhà nước). Ngoài ra, bộ máy nhà nước ta còn có Toà án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân. Để đổi mới và hoàn thiện Nhà nước, chúng ta cần đổi mới và hoàn thiện tất cả bộ máy tổ chức nhằm đảm bảo vị trí và vai trò của nhà nước trong hệ thống chính trị. Chương III: Mối quan hệ giữa nhà nước và Đảng ở Việt Nam hiện nay Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập năm 1930, kể từ đó, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành thắng lợi cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, lập nên Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày 2/9/1945, chấm dứt ngàn năm xã hội Việt Nam bị thống trị bởi nhà nước phong kiến, và dân tộc Việt Nam chỉ có thể giữ vững được quyền độc lập dân tộc dưới sự quản lý‎ của Nhà nước mới được Đảng và nhân dân ta thiết lập nên. Nhà nước kiểu mới và Đảng ta gắn bó với nhau trong một thể thống nhất. Nhờ thể thống nhất này mà dân tộc Việt Nam đã viết tiếp được trang sử vàng chói lọi trong các giai đoạn tiếp theo trong sự phát triển của dân tộc. Về mối quan hệ giữa Nhà nước và Đảng Cộng sản Việt Nam, các tác giả nhận định, giai đoạn 1945-1946, khi chưa có chính quyền, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đứng lên giành chính quyền. Khi đã có chính quyền, Đảng ra trở thành Đảng cầm quyền lãnh đạo nhà nước, bảo vệ sự tồn tại của nhà nước. Đây là mối quan hệ hợp pháp nhưng không công khai. Giai đoạn 1946-1954, để thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị là huy động sức mạnh toàn dân tộc tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị được thực hiện theo phương châm lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối và toàn diện. Giai đoạn 1954-1975, giai đoạn này, chúng ta phải đối mặt với âm mưu chia cắt đất nước lâu dài của đế quốc Mỹ, do đó, phương châm lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối và toàn diện của Đảng đối với Nhà nước và xã hội vẫn được thực hiện trong giai đoạn này. Quan hệ giữa Nhà nước với Đảng lúc này được thực hiện theo nguyên tắc “hai trong một” hay “một mà hai” và đã phát huy được tính hiệu quả trong hoạt động lãnh đạo cũng như trong quản l‎ý xã hội. Giai đoạn 1975-1986, nước ta đang trong cơ chế tập trung và bao cấp tồn tại, theo đó, Đảng cũng tập trung và bao cấp đối với Nhà nước và xã hội. Nhưng khi cả nước bước vào thời kỳ hòa bình, xây dựng thì cơ chế lãnh đạo và quản lý‎ cũ không còn phù hợp. Những hạn chế và yếu kém trong lãnh đạo và quản l‎ý của Đảng và Nhà nước ngày càng bộc lộ rõ ràng và quyết liệt hơn. Mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước từ năm 1986 trở lại đây đã có sự thay đổi, đổi mới chính trị và hệ thống chính trị. Nhận thức về chức năng, vị trí và vai trò của nhà nước ngày càng đúng đắn và rõ ràng hơn; phân định rõ chức năng quản lý‎ của Nhà nước và chức năng lãnh đạo cỉa Đảng; Nhà nước thực hiện đúng chức năng và nhiệm vụ là cơ quan quản lý‎ của Nhà nước đối với xã hội; vị trí vai trò và trụ cột của nhà nước trong hệ thống chính trị được xác định rõ ràng hơn và được củng cố vững chắc hơn. Đảng và Nhà nước ta chủ trương đổi mới và hoàn thiện mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; yêu cầu dân chủ hóa, xây dựng nhà nước pháp quyền và xã hội công dân; đáp ứng yêu cầu hội nhập. Chương IV: Mối quan hệ giữa Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam hiện nay. Hiện nay, ở Việt Nam có hơn 320 tổ chức hội quy mô hoạt động toàn quốc, hàng ngàn hội cấp tỉnh, hàng vạn hội cấp huyện, xã... nhưng chỉ có một số ít được coi là các tổ chức chính trị xã hội. Các tổ chức này đều do Đảng lãnh đạo, là cơ sở chính trị - xã hội của Đảng và gắn bó với Đảng, với sự nghiệp cách mạng của Đảng. Các tổ chức này đều chịu sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý‎ của Nhà nước. Tổ chức hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội gắn bó chặt chẽ với tổ chức và hoạt động của Đảng và nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội bằng cương lĩnh đường lối chiến lược, bằng nghị quyết, các định hướng về chủ trương, chính sách… bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục và vận động, tổ chức kiểm tra, bằng hành động gương mẫu của mọi đảng viên và bằng công tác cán bộ. Nhà nước cũng cần sự phối hợp của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội, làm cầu nối giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước; tuyên truyền vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.. Chương V: Xây dựng Nhà nước pháp quyền, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của nhà nước trong hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay xuất phát từ tất yếu kinh tế, là một nhu cầu chính trị khách quan. Thông qua xây dựng nhà nước pháp quyền, Nhà nước ta mới có thể xác định đúng chức năng và nhiệm vụ, vị trí và vai trò của mình trong hệ thống chính trị nói riêng và trong đời sống chính trị nói chung. Đến nay, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được định hình trên những nét cơ bản và trở thành trụ cột của hệ thống chính trị nước nhà. Trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị, cùng với việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt, cần xác định xây dựng và hoàn thiện nhà nước là nhiệm vụ trọng tâm. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính là xây dựng và thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân; làm cho quyền lực nhà nước và hệ thống tổ chức thực thi quyền lực - hệ thống chính trị - được xác định đúng đắn và có hiệu quả hơn. Quyền lực Nhà nước được củng cố và tăng cường cũng có nghĩa là quyền lãnh đạo của Đảng được củng cố và tăng cường. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là nhằm củng cố và tăng cường sức mạnh của Nhà nước. Các tác giả cũng nhấn mạnh, nhận thức đầy đủ và giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa các thành tố của hệ thống chính trị, trong đó có mối quan hệ giữa Nhà nước với Đảng, Nhà nước với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội là một yêu cầu khách quan ở nước ta hiện nay. Đổi mới và tăng cường mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay cần hướng vào mục tiêu chung là xây dựng và củng cố quyền làm chủ của nhân dân, mà trước hết là của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và những người lao động khác. Giải quyết tốt những mối quan hệ cơ bản này sẽ góp phần làm cho hệ thống chính trị nước ta vận hành có hiệu lực, hiệu quả hơn, đáp ứng tốt hơn những yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nghị quyết Đại hội X của Đảng chỉ rõ "Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội". Như vậy, giám sát của nhân dân, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thể hiện bản chất dân chủ của chế độ chúng ta. Hệ thống chính trị của nước ta vận hành theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Ba chủ thể của hoạt động: lãnh đạo, quản lý, làm chủ có vai trò, vị trí rõ ràng, đồng thời có mối quan hệ khăng khít. Lãnh đạo, quản lý và làm chủ đều có chức năng giám sát, đó vừa là quyền vừa là trách nhiệm. Đảng lãnh đạo đề ra chủ trương, đường lối. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội nên thường xuyên kiểm tra, giám sát việc triển khai và thực hiện chủ trương, đường lối đã đề ra. Nhà nước quản lý xã hội, do đó phải kiểm tra, giám sát việc thi hành và chấp hành pháp luật. Nhân dân với tư cách người làm chủ có quyền trực tiếp hoặc thông qua đại diện Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thông qua đại biểu do mình cử ra để giám sát. Như vậy, giám sát ở nước ta cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa giám sát của Đảng, hoạt động giám sát của Nhà nước và giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam như Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã đề ra. Quyền giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần đầu tiên được ghi nhận trong Hiến pháp 1992, tại Điều 9, đó là Mặt trận "giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ viên chức nhà nước". Cũng tại Hiến pháp 1992, Điều 8 quy định: "Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải... chịu sự giám sát của nhân dân". Nghị quyết Đại hội X của Đảng chỉ rõ: "Hoạt động của Đảng và Nhà nước phải chịu sự giám sát của nhân dân. Sự tin tưởng, ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân là cội nguồn của sức mạnh, là cái gốc của thắng lợi, là tài sản quý báu của Đảng"(1). Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, ngày 26-6-1999, đã thể chế hóa Hiến pháp 1992, quy định rõ những vấn đề cơ bản về hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Điều 12: "1 - Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là giám sát mang tính nhân dân, hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của Nhà nước, nhằm góp phần xây dựng và bảo vệ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Quyền giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần đầu tiên được ghi nhận trong Hiến pháp 1992, tại Điều 9, đó là Mặt trận "giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ viên chức nhà nước". Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật. 2 - Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thực hiện bằng các hình thức sau đây: a) Động viên nhân dân thực hiện quyền giám sát; b) Tham gia hoạt động giám sát với cơ quan quyền lực nhà nước; c) Thông qua hoạt động của mình, tổng hợp ý kiến của nhân dân và các thành viên của Mặt trận kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biểu dương, khen thưởng người tốt, việc tốt, xem xét, giải quyết, xử lý những trường hợp vi phạm pháp luật. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện nhiệm vụ giám sát. Khi nhận được kiến nghị của Mặt trận thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức có trách nhiệm xem xét, trả lời trong thời hạn theo quy định của pháp luật". Sau Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhiều đạo luật khác có liên quan đã thể chế hóa quyền giám sát của Mặt trận trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã chủ động phối hợp với ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành từng bước cụ thể hóa thành cơ chế giám sát trong một số đối tượng, chuyên ngành thông qua việc xây dựng luật, pháp lệnh, nghị quyết liên tịch. Đây là hoạt động giám sát được pháp luật quy định tương đối đầy đủ về cơ chế, chính sách, pháp luật, thể hiện quyền giám sát của nhân dân và vai trò tổ chức, chỉ đạo hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đó là: Luật Thanh tra và các văn bản dưới luật ghi nhận giám sát của nhân dân thông qua ban thanh tra nhân dân; Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn quy định quyền và trách nhiệm Mặt trận lấy phiếu tín nhiệm các chức danh chủ chốt của chính quyền nhân dân ở xã, phường, thị trấn; Nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ và ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về Mặt trận giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về giám sát đầu tư của cộng đồng. Thực hiện quyền và trách nhiệm của mình, trong những năm qua, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã cố gắng, chủ động tổ chức nhiều hoạt động giám sát, như giám sát thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, giám sát việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư, giám sát đầu tư của cộng đồng v.v.. Những nơi thực hiện tốt quy trình giám sát, đem lại kết quả và hiệu quả thiết thực, được nhân dân đồng tình, hưởng ứng tham gia, được xã hội thừa nhận và cấp ủy đánh giá cao. Hoạt động giám sát của Ban Thanh tra nhân dân đã đi vào nền nếp và đạt kết quả tốt. Giám sát thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở với việc lấy phiếu tín nhiệm các chức danh chủ chốt do Hội đồng nhân dân cấp xã bầu đã tiến hành được trong 2 năm 2005 - 2006; năm 2008 tiếp tục thực hiện theo quy định mới của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Hoạt động này có tác động tích cực tới cán bộ chính quyền ở cơ sở. Việc giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư được tiến hành thí điểm ở 5 tỉnh, thành phố trong 2 năm 2006 - 2007 đã được cấp ủy lãnh đạo chặt chẽ, chính quyền phối hợp thực hiện, dư luận xã hội quan tâm, đem lại hiệu quả thiết thực, có thể mở rộng trên phạm vi cả nước. Kết quả hoạt động giám sát đối với những lĩnh vực đã có cơ chế, chính sách, pháp luật cụ thể còn khiêm tốn. Điều đó càng khẳng định, nhân dân và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chỉ có thể giám sát khi có cơ chế, chính sách, pháp luật quy định cụ thể. Vì, giám sát là việc rất khó, nhạy cảm, đòi hỏi sự kiên trì, bản lĩnh và tinh thần trách nhiệm của cán bộ Mặt trận, của cán bộ, đảng viên, sự quan tâm lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự phối hợp đồng bộ của chính quyền và các cơ quan nhà nước. Trên thực tế, hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc còn nhiều hạn chế, tồn tại và khó khăn. Cụ thể là: Kinh nghiệm thực tế rút ra là nơi nào, cấp nào, cấp ủy đảng hoặc đồng chí bí thư quan tâm lãnh đạo, thì ở đó hoạt động giám sát có kết quả, hiệu quả, thực sự góp phần xây dựng Đảng, xây dựng và củng cố chính quyền, nâng cao hiệu quả lãnh đạo, quản lý ở địa phương, vai trò giám sát của Mặt trận được nâng lên, nhất là trong việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu; Thứ nhất, trong hầu hết các văn bản pháp luật hiện nay, vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chỉ mới dừng ở quy định có tính nguyên tắc về quyền năng giám sát, chưa có quy định cụ thể và đầy đủ về cơ chế, chính sách, quyền và trách nhiệm của chủ thể bị giám sát và chủ thể giám sát, điều kiện bảo đảm cho hoạt động giám sát, cơ chế tiếp nhận, giải quyết, xử lý vi phạm và trả lời cho chủ thể giám sát. Thứ hai, ở những lĩnh vực hoạt động giám sát tuy có cơ chế đầy đủ, rõ ràng, hoặc pháp luật quy định cụ thể trình tự, thủ tục thực hiện, nhưng việc xem xét, xử lý của cơ quan chủ quản không thực hiện đúng các quy định về thời hiệu giải quyết vụ việc, về việc trả lời kiến nghị của Mặt trận, làm cho hoạt động giám sát trong nhiều trường hợp trở nên bế tắc, không có kết quả, hoặc kéo dài nhiều năm, gây bức xúc cho công dân và nản chí đối với cán bộ Mặt trận thực thi công việc giám sát. Thứ ba, tổ chức và cán bộ của hệ thống Mặt trận các cấp còn nhiều bất cập và hạn chế. Muốn tổ chức hoạt động giám sát phải có bộ máy đồng bộ ở các cấp Mặt trận. Trong khi các lĩnh vực hoạt động giám sát của Mặt trận hiện nay tập trung ở cơ sở xã, phường, nhưng ở xã, phường, Mặt trận chỉ có chủ tịch và phó chủ tịch Mặt trận là những người được Nhà nước xếp loại là cán bộ chuyên trách và bán chuyên trách; trình độ, năng lực cán bộ còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, kinh phí hoạt động của Mặt trận được khoán gọn với tiền lương và phụ cấp rất hạn hẹp tùy theo nguồn thu ngân sách của từng địa phương, do đó kinh phí chi cho các hoạt động giám sát rất khó khăn. Thiếu thông tin về chủ trương, chính sách, pháp luật cũng là trở ngại lớn cho hoạt động giám sát. Những tồn tại, thiếu sót trên đây bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trước hết là nhận thức về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc nói chung và về vai trò giám sát của nhân dân, của Mặt trận trong một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên chưa đồng bộ, đầy đủ và sâu sắc, nhất là nhận thức về mục đích, yêu cầu hoạt động giám sát, phạm vi đối tượng và nội dung giám sát, sự cần thiết phải giám sát như là tính tất yếu của lãnh đạo, quản lý và làm chủ trong cơ chế vận hành của hệ thống chính trị nước ta. Tiếp đến là, chưa có đạo luật về giám sát của nhân dân, trong đó quy định đầy đủ, cụ thể quyền năng, cơ chế, chính sách, chế tài, trình tự thủ tục giám sát, quy định rõ vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Cùng với đó là, tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đổi mới chậm so với yêu cầu đổi mới của Đảng, Nhà nước. Đội ngũ cán bộ chuyên trách Mặt trận các cấp còn nhiều bất cập. Cán bộ chủ chốt cấp tỉnh, huyện và nhất là cơ sở nhiều nơi chu chuyển nhanh, thậm chí trong một nhiệm kỳ có nơi thay đổi 2 đến 3 lần chủ tịch Mặt trận. Một số cán bộ trình độ, năng lực có hạn, lại thiếu bản lĩnh, thiếu kiên trì, ngại khó, ngại va chạm, còn nể nang, do đó ảnh hưởng đến tính liên tục và hiệu quả của hoạt động giám sát, dễ dẫn đến tình trạng hình thức trong hoạt động giám sát. Sau cùng là, ở nhiều nơi cấp ủy đảng chưa quan tâm sâu sắc lãnh đạo lĩnh vực hoạt động giám sát của Mặt trận. Kinh nghiệm thực tế rút ra là nơi nào, cấp nào, cấp ủy đảng hoặc đồng chí bí thư quan tâm lãnh đạo, thì ở đó hoạt động giám sát có kết quả, hiệu quả, thực sự góp phần xây dựng Đảng, xây dựng và củng cố chính quyền, nâng cao hiệu quả lãnh đạo, quản lý ở địa phương, vai trò giám sát của Mặt trận được nâng lên, nhất là trong việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu; giúp việc quản lý cán bộ, đảng viên, nhất là quản lý cán bộ, đảng viên ngoài thời gian làm việc, ở khu dân cư, được chặt chẽ và hiệu quả hơn. Từ những vấn đề nêu trên, xin có một số kiến nghị: Một là, các cấp ủy đảng, cơ quan nhà nước và chính quyền các cấp cần chú trọng nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân về vai trò, vị trí Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị, trong đó có vai trò giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ công chức. Trong điều kiện chỉ có một Đảng, việc phát huy vai trò của Mặt trận trong hoạt động xây dựng Đảng, xây dựng và củng cố chính quyền có ý nghĩa vô cùng to lớn, nhằm phát huy dân chủ và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, củng cố mối quan hệ máu thịt giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, phấn đấu vì mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Trong chương trình giảng dạy ở hệ thống Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia và các trường chính trị địa phương cần có nội dung các bài giảng những vấn đề cơ bản về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, về công tác Mặt trận tham gia xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động trên các phương tiện thông tin đại chúng để cán bộ, đảng viên, công chức, nhân dân thông hiểu về vai trò, vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, về hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, của nhân dân, nhất là giới thiệu các văn bản pháp luật về thanh tra nhân dân, về giám sát cán bộ, đảng viên, công chức ở khu dân cư, giám sát đầu tư của cộng đồng, lấy phiếu tín nhiệm các chức danh chủ chốt do Hội đồng nhân dân cấp xã bầu; về giám sát xã hội trong đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí v.v.. Đẩy mạnh thực hiện các đề án về tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong chương trình hành động quốc gia của Chính phủ về phổ biến giáo dục pháp luật. Ba là, kiến nghị Quốc hội sớm ban hành Luật về giám sát của nhân dân, nhằm tạo hành lang pháp lý để nhân dân thực hiện quyền và trách nhiệm giám sát hoạt động của Đảng, Nhà nước; để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực sự là tổ chức của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng và củng cố Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Đề nghị Chính phủ phối hợp chặt chẽ với ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức chỉ đạo thực hiện tốt các nghị định, nghị quyết liên tịch giữa hai bên về các lĩnh vực hoạt động giám sát ở cơ sở và khu dân cư như đã nêu ở trên. Bốn là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nói chung và hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nói riêng. Nhằm tiếp tục tạo cơ sở về chủ trương của Đảng đối với lĩnh vực hoạt động giám sát và phản biện xã hội, đề nghị Bộ Chính trị sớm ban hành các quy chế về giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân theo tinh thần Nghị quyết Đại hội X của Đảng, để trên cơ sở đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sẽ phối hợp với các cơ quan chức năng tiếp tục triển khai các hoạt động giám sát và từng bước triển khai thực hiện hoạt động phản biện xã hội một cách phù hợp. Năm là, Mặt trận Tổ quốc các cấp cần tiếp tục củng cố, tăng cường tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động. Trước mắt, tổ chức tốt Đại hội Mặt trận Tổ quốc các cấp theo tinh thần Chỉ thị số 18, ngày 22-11-2007, của Ban Bí thư Trung ương Đảng, bảo đảm quá trình chuẩn bị và tổ chức Đại hội trở thành đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc; về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn mới. Thông qua Đại hội để củng cố, kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc các cấp, nhất là ở cơ sở và Ban Công tác Mặt trận ở khu dân cư. Trên cơ sở đó, sẽ có tác dụng tích cực đến hiệu quả hoạt động nói chung và hiệu quả hoạt động giám sát nói riêng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Sáu là, ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các tỉnh, thành phố cần tăng cường các hoạt động giám sát; chỉ đạo, hướng dẫn cấp xã thực hiện tốt Luật Thanh tra nhân dân, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Quyết định số 80 của Thủ tướng Chính phủ về giám sát đầu tư của cộng đồng, Nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ và ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư. Quá trình thực hiện cần tổng kết kinh nghiệm hoạt động, có kiến nghị với Đảng, Chính phủ, ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn nhằm thực hiện tốt các văn bản pháp luật cụ thể về hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam./. Vấn đề còn lại cần bàn thảo là làm thế nào để có thể bảo đảm được dân chủ trong điều kiện một đảng độc quyền lãnh đạo như ở nước ta. Để làm rõ vấn đề này, nên đi sâu phân tích một số điểm. Một là, nên tìm hiểu kỹ thêm quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sự ra đời và bản chất của ĐCS Việt Nam. Bởi vì đây vừa là chiến lược, vừa là sách lược của Đảng có liên quan rất nhiều đến việc tập hợp lực lượng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và thực thi dân chủ. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề này rất độc đáo, rất sáng tạo và rất Việt Nam. Trước hết, Người khẳng định: Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Ba yếu tố đó có quan hệ rất biện chứng, rất chặt chẽ, song Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn đặc biệt chú ý tới phong trào yêu nước. Phong trào yêu nước là một yếu tố rất quan trọng hình thành nên Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, Người khẳng định: Đảng ta không chỉ là đảng của giai cấp công nhân mà còn là đảng của nhân dân lao động và của toàn dân tộc. Xác định Đảng ra là đảng của nhân dân lao động, của toàn dân tộc, cho nên trong nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, mặc dù rất chú ý tới mối quan hệ biện chứng giữa hai yếu tố tập trung và dân chủ, song Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn muốn chúng ta phải đặc biệt quan tâm tới việc phát huy yếu tố dân chủ. Bởi vì, có phát huy tốt yếu tố dân chủ thì mới giữ gìn được sự đoàn kết trong Đảng. Và "trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi, có dân chủ trong Đảng thì mới có dân chủ ngoài xã hội". Quán triệt tư tưởng nêu trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới việc bảo đảm và phát huy dân chủ trong điều kiện Đảng độc quyền lãnh đạo. Hai là, cũng cần điểm qua một chút thực trạng dân chủ ở nước ta hiện nay ra sao ? Tất nhiên, những giá trị dân chủ mà Đảng đã mang lại cho dân là rất lớn. Song, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật ta phải thừa nhận còn khá nhiều khuyết điểm, tồn tại. Thí dụ, dân chủ ngay trong nội bộ Đảng vẫn còn hạn chế. Quyền lực thường tập trung vào người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền, ngành, địa phương, hay cơ quan, đơn vị. Mục đích của đấu tranh, phê bình trong Đảng là để tăng cường đoàn kết, thắt chặt tình đồng chí, nhưng ở một số nơi việc này dẫn đến tình trạng mất đoàn kết, tình đồng chí càng phai nhạt. Những hiện tượng trên không phải là phổ biến nhưng cũng không phải là cá biệt. Trong Đảng đã vậy thì ngoài xã hội không thể tránh khỏi tình trạng mất dân chủ. Nói tới thực trạng đó đương nhiên không phải để bi quan, nhìn Đảng, nhìn xã hội với bức tranh màu tối, mà là để có biện pháp khắc phục một cách tích cực hơn và có hiệu quả hơn. Ba là, làm thế nào để có dân chủ trong điều kiện chỉ có một đảng duy nhất lãnh đạo ? Phải có các yếu tố sau đây: Thứ nhất, xác định thật rõ Đảng từ nhân dân mà ra. Đảng luôn được nhân dân đùm bọc, nuôi dưỡng, chở che. Đảng sống trong lòng nhân dân và dân tộc. Không có dân, Đảng không tồn tại. Vì thế, Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân nhưng Đảng cũng là "của dân, do dân, vì dân". Chỉ có quan niệm một cách đúng đắn như thế thì việc thực thi dân chủ mới đúng hướng, đúng đối tượng (dân chủ cho nhân dân). Thứ hai, Đảng phải xây dựng được một đường lối chính trị thật đúng đắn. Đường lối đó phải hội tụ được các yêu cầu: nắm vững các quy luật khách quan đang vận động trong hiện tại và dự báo chính xác sự vận động của nó trong tương lai. Nắm vững tình hình thực tế của đất nước, của nội bộ Đảng và xu thế của thời đại. Nắm vững tâm tư, nguyện vọng của nhân dân... Khi có đường lối đúng thì đất nước sẽ phát triển, tránh được nguy cơ rơi vào khủng hoảng, đời sống nhân dân được cải thiện. Như thế tức là dân chủ cho dân đã được bảo đảm về cơ bản rồi. Thứ ba, bản thân Đảng phải bảo đảm dân chủ nội bộ cho thật tốt, bởi vì có dân chủ trong Đảng thì mới có dân chủ ngoài xã hội. Thứ tư, phải nâng cao dân trí, trang bị cho người dân những hiểu biết tối thiểu về dân chủ, về pháp luật. Không có những hiểu biết đó thì người dân rất dễ rơi vào một trong hai tình trạng: hoặc là an phận, nhẫn nhục chịu đựng khi những quyền dân chủ của mình bị xâm phạm; hoặc là dễ bị lôi kéo, kích động, dẫn đến những hành vi vi phạm pháp luật một cách vô ý thức. Thứ năm, phải chuyên chính với kẻ thù của nhân dân. Thực tế đã cho thấy nơi nào để cho lực lượng thù địch hoặc những kẻ xấu lộng hành thì ở đó quyền dân chủ của nhân dân lập tức bị xâm phạm, thậm chí bị tước đoạt. Vì thế, dân chủ phải đi liền với chuyên chính. Không chuyên chính tốt sẽ không có dân chủ đầy đủ. Thứ sáu, phải xác định rõ vị trí, vai trò của Đảng trong hệ thống chính trị. Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị, không đứng trên hoặc đứng bên ngoài hệ thống chính trị. Là một bộ phận, một thành viên của hệ thống chính trị nhưng Đảng lại phải đảm nhận trọng trách lãnh đạo hệ thống chính trị. Không xác định rõ vị trí, vị thế ấy thì hoặc là Đảng sẽ buông lỏng vai trò lãnh đạo, hoặc là Đảng sẽ độc đoán chuyên quyền. Dù buông lỏng, hay độc đoán chuyên quyền thì hệ quả của nó đối với việc thực thi dân chủ cho nhân dân đều rất xấu ./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doche_htong_ctri_5072.doc
Tài liệu liên quan