Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và vận dụng trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay

Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam xác định là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của mình trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó có vấn đề cán bộ. Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác cán bộ; Người coi "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, và "Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém". MỞ ĐẦU . 1 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài . 3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 5 4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 5 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5 6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn 6 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6 8. Kết cấu của luận văn 6 Chương 1 : Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ 7 1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ 7 1.1.1. Tư tưởng và tư tưởng về cán bộ . 7 1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ 11 1.1.3. Đặc điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ . 14 1.2. NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ 16 1.2.1. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ 16 1.2.1.1. Truyền thống dân tộc, yếu tố quê hương và gia đình . 17 1.2.1.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại 19 1.2.1.3. Trí tuệ thiên tài, nhân cách, phẩm chất Hồ Chí Minh và hoạt động thực tiễn của Người 24 1.2.2. Quá trình hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ 25 1.2.2.1. Thời kỳ tìm tòi, khảo nghiệm trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 25 1.2.2.2. Thời kỳ từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 . 29 1.3. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ 32 1.3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của cán bộ . 32 1.3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tiêu chuẩn cán bộ . 35 1.3.2.1. Người cán bộ phải có tư cách đạo đức cách mạng . 36 1.3.2.2. Người cán bộ phải có năng lực tổ chức thực hành 37 1.3.2.3. Người cán bộ phải có trình độ lý luận 39 1.3.2.4. Phong cách của người cán bộ 40 1.3.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ . 40 1.3.3.1. Phát hiện, lựa chọn và đánh giá cán bộ . 41 1.3.3.2. Huấn luyện cán bộ 43 1.3.3.3. Sử dụng cán bộ 45 1.3.3.4. Kiểm tra cán bộ và chính sách đối với cán bộ 47 Chương 2 49 VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ TRONG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY . 49 2.1. YÊU CẦU KHÁCH QUAN CỦA VIỆC VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ TRONG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 49 2.1.1. Xuất phát từ vị trí, vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói riêng 49 2.1.2. Xuất phát từ yêu cầu hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh, bảo đảm vừa hồng, vừa chuyên, là công bộc của nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh . 54 2.1.3. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới kinh tế, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân . 61 2.1.3.1.Hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh để đáp ứng yêu cầu của đổi mới kinh tế 61 2.1.3.2.Hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh để đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân 63 2.2. QUAN ĐIỂM VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY . 65 2.2.1. Quan điểm khách quan, khoa học . 65 2.2.2. Quan điểm toàn diện, đầy đủ 69 2.2.3. Quan điểm kế thừa, phát triển . 71 2.3. GIẢI PHÁP VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ TRONG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 75 2.3.1. Đẩy mạnh nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ để tạo cơ sở lý luận cho việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức 75 2.3.2. Rà soát pháp luật cán bộ, công chức hiện hành để xác định nội dung cần sửa đổi, bổ sung, cụ thể hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh 81 2.3.3. Nội dung vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về những vấn đề cụ thể trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức 86 2.3.3.1. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đối với cán bộ, công chức . 86 2.3.3.2. Quy định rõ quy trình lựa chọn, sử dụng và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức 89 2.3.3.3. Hoàn thiện các quy định về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức 93 2.3.3.4. Hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của cán bộ, công chức 96 2.3.3.5. Hoàn thiện các quy định về thanh tra, kiểm tra, giám sát, quản lý đội ngũ cán bộ, công chức 97 KẾT LUẬN 101 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 104

pdf108 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2184 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và vận dụng trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng như tính hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động của cán bộ, công chức; cũng có nghĩa vị trí, vai trò của cán bộ, công chức chưa được nhận thức, thể hiện một cách đầy đủ; điều mà sinh thời Hồ Chí Minh đã rất quan tâm. Vì vậy, việc hoàn thiện chế định pháp luật cán bộ, công chức nhằm thấy rõ và thấy đúng vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức, cũng như nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đáp ứng đầy đủ đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới đất nước trong điều kiện hiện nay là điều hết sức cần thiết. Để làm được điều đó thì cần thiết phải tiến hành rà soát hệ thống pháp luật cán bộ, công chức hiện hành, tìm ra những chỗ bất hợp lý, chưa phù hợp, những chỗ còn thiếu, đối chiếu với tư tưởng Hồ Chí Minh để xác định nội dung sửa đổi, bổ sung, cụ thể hóa, tiến tới hoàn thiện. Mặt khác, chúng ta đang phấn đấu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, mà đặc trưng quan trọng nhất của nhà nước pháp quyền là yêu cầu tôn trọng tính tối cao của pháp luật, Nhà nước quản lý, điều hành xã hội bằng pháp luật là chủ yếu; do đó hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung là yêu cầu bức thiết; và đòi hỏi sự tuân thủ pháp luật trước hết phải được đặt ra đối với đội ngũ cán bộ, công chức thì rõ ràng hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức lại càng bức thiết hơn. Điều đó đòi hỏi tư duy về pháp luật cán bộ, công chức phải được đổi mới. Cán bộ, công chức ở nước ta làm việc trong bộ máy nhà nước, trong cả hệ thống chính trị, thực hiện các hoạt động quản lý nói chung; do đó đòi hỏi phải được điều chỉnh bằng hệ thống văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao. Vấn đề này, trong Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến 2020 đã xác định: "Ban hành luật về công chức, công vụ". Hiện nay ở nước ta, văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất điều chỉnh tổng thể vấn đề cán bộ, công chức là Pháp lệnh Cán bộ, công chức. Pháp lệnh đó ban hành cách nay đã hơn 8 năm, đã qua hai lần sửa đổi, bổ sung, đề cập tới những vấn đề cơ bản nhất về cán bộ, công chức; nhưng thực tế còn nhiều hạn chế, bất cập. Vì vậy, tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện là cần thiết, và nhất là cần phải nâng cao giá trị pháp lý của văn bản này lên thành luật. Dưới hình thức luật thì các chế định về cán bộ, công chức mới có tính thống nhất cao; đó còn là tiền đề cho sự thống nhất và ổn định trong thực thi nhiệm vụ, công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức. Cán bộ, công chức là người thực thi pháp luật, tổ chức chỉ đạo, điều hành việc thực thi các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; là những người trước hết phải tôn trọng, giữ vững kỷ cương, kỷ luật nhà nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Sứ mệnh và trách nhiệm cao cả ấy đòi hỏi hoạt động của cán bộ, công chức phải được điều chỉnh bằng văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao là luật. Một lý do nữa, cần phải nâng giá trị pháp lý của văn bản lên thành luật là ở chỗ: Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; do đó, nhân dân phải là người được đặt ra các quy định pháp luật để điều chỉnh hành vi của đội ngũ cán bộ, công chức, qua đó không chỉ tiến cử họ, mà còn kiểm tra, giám sát hoạt động của họ cũng như bãi miễn họ khi họ không còn xứng đáng là đầy tớ của mình nữa. Nhân dân thực hiện các quyền đó bằng cách thông qua cơ quan đại diện cao nhất của mình để xây dựng thành luật cán bộ, công chức. Văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao còn là cơ sở bảo đảm sự ổn định, liên tục của đội ngũ cán bộ, công chức; tạo điều kiện pháp lý để cán bộ, công chức nâng cao kỹ năng và trình độ chuyên môn nghiệp vụ trong công tác, tích lũy được kinh nghiệm để bảo đảm không ngừng nâng cao hiệu quả trong hoạt động nhiệm vụ, công vụ, làm cho bản thân cán bộ, công chức xác định tư tưởng yên tâm hơn trong hoạt động sự nghiệp có tính phục vụ của mình. Trong luật cán bộ, công chức cần thiết phải xác định rõ phạm vi điều chỉnh, gồm những đối tượng nào, trên cơ sở đó xác định địa vị pháp lý của cán bộ, công chức trong mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức nhà nước khi thực thi nhiệm vụ, công vụ. Trong luật cán bộ, công chức cần có sự phân biệt rõ đối tượng là cán bộ, công chức, viên chức, các đối tượng làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước với các cơ quan, tổ chức, đơn vị khác trong hệ thống chính trị; lấy đó làm cơ sở tạo sự thống nhất trong tên gọi của các đối tượng của cả hệ thống các văn bản pháp luật về cán bộ, công chức, tránh tình trạng còn chung chung như trong pháp lệnh hiện hành. Lý do cần có sự phân biệt rõ ràng đó bởi mỗi đối tượng trong phạm vi cán bộ, công chức nói chung có đặc điểm và tính chất hoạt động khác nhau, mang tính riêng biệt. Vấn đề nay, ngay trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội năm 1991 của Đảng đã chỉ ra: "Đổi mới căn bản công tác cán bộ phù hợp với chế độ mới. Phân định rõ cán bộ dân cử hoạt động theo nhiệm kỳ và các loại công chức, viên chức chuyên nghiệp" [16, tr.44]. Điều này, cho đến nay, trong Pháp lệnh Cán bộ, công chức 1998 đã qua 2 lần sửa đổi, bổ sung vẫn chưa được làm rõ. Vấn đề đặt ra là các đối tượng trên cần được điều chỉnh chung trong một luật hay xây dựng thành nhiều luật. Trước nhu cầu bức thiết về hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức hiện nay, nhiều ý kiến đặt vấn đề cần xây dựng luật công chức độc lập, và gắn với đó là luật về công vụ; mà rất ít ý kiến đề cập xây dựng luật cho đối tượng là cán bộ, viên chức. Ngay trong Nghị quyết số 48 kể trên của Bộ chính trị khóa IX cũng đặt riêng vấn đề là phải "ban hành luật về công vụ, công chức". Lẽ dĩ nhiên, điều này hợp lý ở chỗ là hoạt động của đội ngũ viên chức gần gũi với các quan hệ theo luật lao động; và bộ phận còn lại thì chịu sự điều chỉnh của các luật, quy định về bầu cử, ứng cử. Tuy nhiên, ở nước ta có điều kiện đặc thù là hoạt động của hệ thống chính trị nói chung cùng đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng. Vì vậy, các đối tượng cán bộ, công chức, viên chức dù có tính chất riêng biệt, nhưng lại nằm trong mối quan hệ đan xem mật thiết với nhau. Cùng một đối tượng con ngươi, lúc này có thể là cán bộ, lúc khác lại có thể trở thành công chức hành chính, hoặc viên chức sự nghiệp. Đó là do công tác luân chuyển cán bộ, một chủ trương lớn hiện nay của Đảng và Nhà nước ta. Hơn nữa, một truyền thống cố hữu lâu nay ở nước ta khó thay đổi trong một sớm, một chiều trong cách hiểu và cách nghĩ đối với cán bộ, công chức hay viên chức đều có điểm chung là "trong biên chế nhà nước"; mà ngay cả Pháp lệnh Cán bộ, công chức hiện hành vẫn thừa nhận. Vì vậy, việc xây dựng và ban hành luật về cán bộ, công chức chung, ở đó có chia thành các phần phân biệt và quy định cho từng đối tượng riêng cụ thể sẽ như là một giải pháp hợp lý. Có như vậy mới tạo được sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống thể chế pháp luật cán bộ, công chức trên cái nền đặc thù của nước ta hiện nay. Một điểm nữa, pháp luật cán bộ, công chức chưa thể coi là hoàn thiện nếu thiếu một bộ phận có liên quan mật thiết. Đó là luật về công vụ. Vì vậy, cũng rất cần thiết phải xây dựng luật hoặc quy chế về hoạt động công vụ để phân định rõ hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức với các quan hệ lao động khác. Tóm lại, xây dựng luật cán bộ, công chức hoàn chỉnh, ở đó phản ánh đầy đủ tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ phù hợp với thời kỳ mới là điều kiện pháp lý quan trọng để hình thành đội ngũ cán bộ, công chức vững mạnh, thấy rõ vị trí,vai trò của cán bộ, công chức, đó thực sự là gốc của mọi công việc, cũng như thấy rõ tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước. Đồng thời qua đó tạo cơ sở nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức, bảo đảm đó là những hoạt động tận tụy phục vụ nhân dân, thể hiện rõ cán bộ, công chức đúng là công bộc của nhân dân. 2.3.3. Nội dung vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về những vấn đề cụ thể trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức 2.3.3.1. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đối với cán bộ, công chức Tư tưởng Hồ Chí Minh coi cán bộ là "đầy tớ", là "công bộc" của nhân dân không có nghĩa đơn thuần ở chỗ họ không chỉ là kẻ nghe theo lời sai bảo, cung cúc phục tùng một ông chủ nào đó, mà ở chỗ đòi hỏi người cán bộ thực hiện các hoạt động phục vụ nhân dân một cách có hiệu quả, hướng tới mục tiêu chung có ý nghĩa lớn lao là hạnh phúc của nhân dân. Muốn thực hiện được điều đó, người "công bộc", người "đầy tớ" không phải là một kẻ "nô bộc" chỉ biết và chỉ có mỗi quyền dạ vâng theo ông chủ; mà đòi hỏi người cán bộ phải có trí tuệ, trình độ, nhân cách, phẩm chất. Có nghĩa, người cán bộ phải có những tiêu chuẩn rõ ràng. Sự nghiệp đổi mới đất nước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân hiện nay, vấn đề tiêu chuẩn cán bộ, công chức được đặt ra một cách bức thiết, vì những tiêu chuẩn đó là cơ sở quan trọng để bảo đảm nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là chất lượng trong hoạt động thực thi nhiệm vụ, công vụ. Đó là yếu tố thực tiễn quyết định nhất tới việc bảo đảm cán bộ, công chức thực sự là "công bộc của dân". Những tiêu chuẩn đó cần thiết phải được chỉ ra một cách rõ ràng, và nhất là cần phải được luật hóa, được phản ánh cụ thể trong văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao. tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ ra tiêu chuẩn chung của người cán bộ là phải vừa có đức, vừa có tài, trong đó đức là gốc: "Người cán bộ phải có đạo đức cách mạng mới là người cán bộ cách mạng chân chính" [45, tr.480]. Hồ Chí Minh còn đòi hỏi người cán bộ phải có năng lực tổ chức thực hành, phải biết "liên hợp chính sách chung với sự chỉ đạo riêng" [43, tr.288]; phải có trình độ lý luận, lấy đó làm kim chỉ nam và phương hướng cho các hoạt động thực tế, phải có phong cách làm việc, phong cách sống cách mạng, khoa học. Muốn xây dựng được một đội ngũ cán bộ đạt tiêu chuẩn, trước hết phải đổi mới quan niệm về tiêu chuẩn cán bộ. Đổi mới ở đây không có nghĩa là bắt đầu lại từ đầu, mà là nghiên cứu, bổ sung những tiêu chuẩn mới thay cho những tiêu chuẩn trước đây theo tinh thần, quan điểm đổi mới của Đảng. Cần rà soát lại những chính sách, quan niệm về cán bộ các thời kỳ trước, qua đó đánh giá, tổng kết cụ thể; đồng thời trên cơ sở đường lối đổi mới của Đảng, xem xét toàn diện các vấn đề của thời kỳ đổi mới như các đặc điểm tình hình đất nước, thời đại, yêu cầu của chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học, công nghệ…, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ làm nền tảng, từ đó xây dựng hệ tiêu chuẩn cán bộ cho thời kỳ mới. Những tiêu chuẩn đó phải luôn được kiểm nghiệm qua thực tiễn, và phải luôn bảo đảm lấy hiệu quả công tác thực tế và tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu. Trong điều kiện ngày nay, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức, khi xây dựng khung tiêu chuẩn cán bộ, công chức, cần chú ý những yêu cầu có tính nguyên tắc sau: + Về phẩm chất chính trị: Cán bộ, công chức phải có nhận thức đúng đắn về đường lối xây dựng đất nước trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; biết vận dụng và phát huy những giá trị tư tưởng đó vào hoàn cảnh cụ thể nước ta; + Về thực tiễn: Tiêu chuẩn cán bộ, công chức phải căn cứ vào yêu cầu thực tiễn của quản lý nhà nước, quản lý xã hội trong từng giai đoạn cụ thể; + Phải bảo đảm tính kế thừa trong xây dựng tiêu chuẩn cán bộ, công chức thông qua tổng kết, đánh giá nghiêm túc để phát huy những ưu điểm đã có, loại bỏ những tập quán, thói quen bảo thủ, lạc hậu, trì trệ trong đội ngũ cán bộ, công chức; + Chú trọng các tiêu chuẩn về phẩm chất, đạo đức, lối sống; + Bảo đảm tính công khai, công bằng, dân chủ, pháp chế, gắn chức vụ cán bộ, công chức với những tiêu chuẩn nhất định. Vấn đề tiêu chuẩn cán bộ thời kỳ mới đã được Đảng chỉ ra trong Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 3 khóa VIII (1997). Những tiêu chuẩn chung gồm có: - Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, phấn đấu thực hiện có hiệu quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật Nhà nước. - Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Không tham nhũng và đấu tranh kiên quyết chống tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật. Trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân. Được nhân dân tín nhiệm. - Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực và sức khỏe để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Các tiêu chuẩn đó có quan hệ mật thiết với nhau [16, tr.79-80]. Ngoài ra, Nghị quyết còn đề cập tiêu chuẩn của các đối tượng là cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân; cán bộ lãnh đạo lực lưỡng vũ trang; cán bộ khoa học, chuyên gia; cán bộ quản lý kinh doanh. Các nội dung đó còn được tiếp tục bổ sung trong kết luận Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương khóa IX (2003). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) tiếp tục xác định tiêu chuẩn của đội ngũ cán bộ là: Có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống lành mạnh, không quan liêu, tham nhũng, lãng phí, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; có tư duy đổi mới, sáng tạo, có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; có tinh thần đoàn kết, hợp tác, ý thức tổ chức kỷ luật cao và phong cách làm việc khoa học, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm [12, tr.192]. Như vậy, cơ sở chính trị về tiêu chuẩn cán bộ thời kỳ đổi mới đã được đề cập khá toàn diện. Vấn đề còn lại là thể chế hóa những tiêu chuẩn đó thành những tiêu chuẩn mang tính pháp lý của cán bộ, công chức trong hệ thống pháp luật của Nhà nước như thế nào. Thực tế Pháp lệnh Cán bộ, công chức hiện hành ở nước ta hiện nay, tiêu chuẩn cán bộ, công chức còn được quy định một cách chung chung tại Chương II về nghĩa vụ và quyền lợi của cán bộ, công chức, chưa có sự cụ thể hóa một cách rõ ràng. Trừ những cán bộ được hình thành qua bầu cử, còn phần lớn những tiêu chuẩn cụ thể của cán bộ, công chức được quy định trong nhiều văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý thấp hơn pháp lệnh. Để bảo đảm tính thống nhất, sự rõ ràng trong tiêu chuẩn cán bộ, công chức, cần phải có những quy định cụ thể chi tiết hơn trong văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao, làm cơ sở thống nhất cho tiêu chuẩn pháp lý cán bộ, công chức của toàn hệ thống pháp luật về cán bộ, công chức. Đây là cơ sở quan trọng để bảo đảm có được đội ngũ cán bộ, công chức vừa có đức, vừa có tài, thực sự là công bộc của nhân dân. 2.3.3.2. Quy định rõ quy trình lựa chọn, sử dụng và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức Để bảo đảm tiêu chuẩn cán bộ, công chức theo quy định, còn cần phải xây dựng một quy trình tuyển chọn, bố trí, sắp xếp sử dụng cũng như đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức một cách khoa học. Các nội dung đó có quan hệ mật thiết với nhau, cùng cần được phản ánh trong luật về cán bộ, công chức: + Về tuyển chọn cán bộ, công chức, (trừ những đối tượng được hình thành theo pháp luật hay quy chế về bầu cử) phải được quy định công khai bằng các quy chế thi tuyển với các điều kiện, hình thức, nội dung và quy trình mang tính thống nhất. Thực tế vấn đề tuyển chọn cán bộ, công chức được quy định trong các nghị định và hướng dẫn cụ thể trong nhiều thông tư, còn quy định trong Pháp lệnh Cán bộ, công chức hiện hành là rất chung chung. Điều này dẫn tới cách thực hiện khác nhau ở từng nơi, thậm chí có nơi còn đặt ra các quy định trái pháp luật, như: Vẫn còn tình trạng tùy tiện đặt ra các tiêu chuẩn và điều kiện đăng ký dự tuyển không đúng với quy định chung của Nhà nước như về hộ khẩu, loại hình đào tạo hoặc quy định đối tượng ưu tiên trong tuyển dụng ngoài quy định. Cũng vẫn còn bộ, địa phương phân cấp tuyển dụng công chức cho các đơn vị trực thuộc, điều này trái với quy định, làm cho chất lượng không đồng đều giữa các đơn vị trong một bộ, địa phương [64, tr.42], Hay cách hiểu khác nhau trong cùng các quy định về công chức dự bị: Người được tuyển dụng theo Nghị định số 117/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng cán bộ, công chức làm việc trong cơ quan nhà nước là công chức; còn người được tuyển dụng theo Nghị định số 115/2003/NĐ-CP ban hành cùng ngày về chế độ công chức dự bị thì phải thực hiện chế độ công chức dự bị…. Vì vậy, cần phải xây dựng quy chế tuyển chọn cán bộ, công chức bằng những quy định cụ thể, dân chủ hơn, mang tính cạnh tranh và thu hút nhân tài, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc trọng dụng người có tài, có đức thực sự, đồng thời bảo đảm được sự bình đẳng trong lựa chọn cán bộ, công chức, khắc phục những tư tưởng mang tính phân chia đẳng cấp, thứ bậc. Quy chế tuyển chọn cán bộ, công chức cần phải được xây dựng theo hướng công khai về tiêu chuẩn, điều kiện. Cùng với quy định tuyển chọn cán bộ, công chức bằng thi tuyển, cũng cần có những quy định khác nhằm khuyến khích cán bộ, công chức đến vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn công tác, góp phần giải quyết vấn đề thiếu cán bộ cho các khu vực này. Trong tuyển chọn, tạo nguồn cán bộ, công chức cần phải chú trọng: "Quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ xuất thân từ công nhân, con em những gia đình có công với cách mạng" [12, tr.293]. + Về sắp xếp, sử dụng cán bộ, công chức: Điều quan trọng nhất là phải luật hóa các tiêu chuẩn và quy trình đánh giá cán bộ, công chức, như trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã coi đánh giá đúng cán bộ là để bố trí sử dụng đúng cán bộ. Cần xác định rõ đánh giá cán bộ là công việc thường xuyên, quan trọng, "nó xác định rõ đạo đức, tài năng, trí tuệ của cán bộ trên cương vị được giao…" [17, tr.13]. Việc đánh giá cán bộ, công chức phải căn cứ vào những tiêu chuẩn cơ bản là hiệu quả công tác thực tiễn, không phân biệt đối xử, xóa bỏ những định kiến về thành phần xuất thân trên cơ sở các tiêu chuẩn phẩm chất, tài năng, công trạng một cách khách quan, khoa học: "Đánh giá cán bộ phải công khai, minh bạch, khách quan, toàn diện và công tâm, lấy hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ chính trị làm thước đo phẩm chất và năng lực cán bộ" [12, tr.295]. Bên cạnh đó, còn cần phải quy định rõ điều kiện, quy trình để cất nhắc, đề bạt, bố trí sử dụng cán bộ, công chức một cách hợp lý, thống nhất. Đây là cơ sở, điều kiện để đặt cán bộ, công chức đúng vị trí, từ đó phát huy được tốt nhất những khả năng, sở trường của cán bộ, công chức, làm cho hoạt động của họ hướng tới hiệu quả cao nhất, phục vụ được tốt nhất, thể hiện rõ bằng cơ sở pháp lý là công bộc của nhân dân. Trong sử dụng cán bộ, công chức, cần có quy định bảo đảm tính ổn định, liên tục trong hoạt động nghề nghiệp của họ. Tuy nhiên, trong những trường hợp nhất định cần phải có quy định về thôi việc đối với cán bộ, công chức. Về vấn đề này, trong bản Quy chế về công chức Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành kèm theo Sắc lệnh số 76/SL năm 1950 đã có quy định việc công chức thôi việc do không đủ sức khỏe hoặc do không đủ điều kiện về năng lực. Thực tế, đây là biện pháp cần thiết bảo đảm tính hiệu quả trong hoạt động của cán bộ, công chức. Nhưng pháp lệnh Cán bộ, công chức hiện hành lại không có những quy định này; trong khi tại Điều 2 Nghị định số 96/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 của Chính phủ về chế độ thôi việc đối với cán bộ, công chức đưa ra 2 trường hợp thôi việc, những trường hợp này chưa hợp lý, chưa là điều kiện bảo đảm tính ổn định, liên tục trong hoạt động nghề nghiệp của cán bộ, công chức; đó là: "a.Do sắp xếp tổ chức, giảm biên chế theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền; b.Tự nguyện xin thôi việc được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đồng ý". Cạnh đó, pháp luật về cán bộ, công chức hiện hành lại không có quy định về việc từ chức của cán bộ, công chức để bảo đảm quyền được tự lựa chọn, định đoạt của cán bộ, công chức trong những điều kiện nhất định, nhất là khi họ thấy khó hoặc không hoàn thành được nhiệm vụ, công vụ của mình. + Về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức: Quy định rõ những tiêu chuẩn cần có của mỗi loại cán bộ, công chức. Luật cán bộ, công chức cần có quy định về phương thức để cán bộ, công chức phấn đấu, rèn luyện nhằm đạt những tiêu chuẩn đó thông qua công tác đào tạo, bồi dưỡng. Đó cần được coi là quy định bắt buộc. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng gồm những kiến thức cơ bản về quản lý nhà nước cùng kỹ năng hành chính và kiến thức pháp luật cơ bản ngoài kiến thức chuyên môn nghiệp vụ để tạo nên hệ tiêu chẩn kiến thức tổng hợp của cán bộ, công chức, tạo cơ sở, điều kiện để cán bộ, công chức hoàn thành nhiệm vụ, công vụ. Về vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trước đây, Hồ Chí Minh đã có quan điểm: "Cán bộ chính trị phải hiểu chuyên môn" [45, tr.82], cùng phương châm huấn luyện toàn diện là: "a) Huấn luyện nghề nghiệp… b)Huấn luyện chính trị… c)Huấn luyện văn hóa… d)Huấn luyện lý luận…" [43, tr.270,271]. Trong pháp luật cán bộ, công chức, cần phải có quy định về chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng. Các chương trình, nội dung đó phải được quy định một cách cụ thể, gắn với yêu cầu và phù hợp trong từng thời điểm, giai đoạn lịch sử cụ thể: "Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cần bám sát mục tiêu, yêu cầu, định hướng của chiến lược cán bộ, gắn kết chặt chẽ với công tác quy hoạch cán bộ. Coi trọng chất lượng đào tạo. Phân định rõ giữa đào tạo cơ bản với bồi dưỡng chức danh. Rút ngắn thời gian đào tạo. Chú trọng đào tạo tập trung" [56, tr.369]. 2.3.3.3. Hoàn thiện các quy định về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức Một nội dung quan trọng trong hệ thống thể chế pháp luật cán bộ, công chức là những quy định về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức. Đó là công cụ điều tiết hết sức quan trọng, nó là điều kiện thúc đẩy, tạo động lực cho cán bộ, công chức phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ, công vụ; vì cán bộ, công chức cũng như những người khác, luôn cần có những nhu cầu vật chất và tinh thần nhất định. Các nhu cầu đó xen kẽ nhau. Cần quy định trong pháp luật những chế độ đãi ngộ thường xuyên với cán bộ, công chức. Đó vừa là phần bù đắp những tiêu hao năng lượng, vừa chứa đựng sự đánh giá, tôn trọng của Nhà nước và xã hội đối với hoạt động thực thi nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức. Ngoài những quy định về chế độ đãi ngộ thường xuyên, còn cần phải có cả những quy định về chế độ đãi ngộ đột xuất cho sự hoàn thành nhiệm vụ, công vụ một cách xuất sắc của cán bộ, công chức để động viên, khuyến khích, ghi nhận công lao của họ, thông qua đó cũng chính là sự khích lệ đối với mọi người nói chung trong "nâng cao nhiệt tình cách mạng, lòng yêu nước, yêu nghề, say mê công tác, tự giác rèn luyện, nâng cao trình độ về các mặt, giữ gìn phẩm chất đạo đức" [52, tr.222]. Sinh thời, Hồ Chí Minh luôn chăm lo cho công tác cán bộ một cách toàn diện, Người cũng quan tâm chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ. Đó là những quan tâm hết sức thiết thực, vừa là sự ghi nhận công lao, thành tích, vừa là động viên khích lệ to lớn, thể hiện sự khéo léo, tinh tế trong sử dụng cán bộ của Người: "Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc của chúng ta" [43, tr.273]; và "Người luôn có phần thưởng vật chất thích đáng và những động viên tinh thần kịp thời. Đó có thể chỉ là một lá thư khen, một tấm áo lụa, một chiếc áo khoác chiến lợi phẩm, hoặc thậm chí là một lời chia buồn với những mất mát…" [53, tr.303]. Đó là những kinh nghiệm rất quý của Hồ Chí Minh, thể hiện chính sách trọng dụng hiền tài đúng đắn và khoa học. Chúng ta cần phải học tập, vận dụng tinh thần ấy, đưa thành những quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật về cán bộ, công chức. Hiện nay, quy định của pháp luật về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức còn ở mức thấp, chưa bảo đảm tái tạo sức lao động, và chưa tương xứng với những cống hiến, sự cố gắng của cán bộ, công chức nếu họ thực sự phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ, công vụ, lại nặng tính bình quân chủ nghĩa; thể hiện rõ nhất là ở chế độ tiền lương còn nhiều bất hợp lý, chế độ khen thưởng thực hiện còn tràn lan và ít có tác dụng khích lệ, động viên. Nhận thức rõ vị trí, vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ, công chức trong xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay, trên cơ sở nắm chắc những tư tưởng và bài học kinh nghiệm của Hồ Chí Minh về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 3 khóa VII của Đảng (1992) đã ra Nghị quyết về đổi mới chính sách đối với cán bộ, công chức. Tiếp đó, các Hội nghị Trung ương 3 và 7 khóa VIII (1997 và 1999) tiếp tục ra Nghị quyết chuyên đề về vấn đề này. Các Nghị quyết đó thể hiện quan điểm đổi mới và hoàn thiện chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức trong thời kỳ đổi mới, gắn với các yêu cầu cơ bản sau: + Bảo đảm quyền lợi phải đi đôi, gắn liền với trách nhiệm, quyền lợi càng lớn thì trách nhiệm càng cao; + Hệ thống chế độ, chính sách phải bảo đảm công bằng trên cơ sở nguyên tắc cơ bản là có làm có hưởng; làm nhiều, cống hiến nhiều, mang lại giá trị lợi ích lớn thì hưởng nhiều tương xứng; không làm không hưởng. Tức là bảo đảm trả công giá trị sức lao động một cách thỏa đáng. Đó chính là nguyên tắc phân phối của CNXH; + Các chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức phải bảo đảm tạo ra sự hài hòa, cân đối, không phiến diện, thiên lệch, mang cả ý nghĩa vật chất, tinh thần, chính trị, xã hội…; + Các chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức phải phù hợp với hoàn cảnh cụ thể, nhất là không thoát ly, xa rời điều kiện kinh tế đất nước. Đặc biệt cần có chính sách đối với người tài: "Xây dựng và thực hiện chính sách phát triển và trọng dụng nhân tài, thu hút nhân tài vào những lĩnh vực quan trọng, không phân biệt người trong Đảng hay ngoài Đảng" [12, tr.296]. Các quan điểm trên là cơ sở chính trị quan trọng để xây dựng, hoàn thiện chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức để phản ánh trong hệ thống thể chế pháp luật cán bộ, công chức. Trong đó cần tập trung vào một số vấn đề sau: Thứ nhất, quy định của pháp luật về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức phải giải quyết cơ bản vấn đề tiền lương, để nó phản ánh đúng được trình độ, năng lực và khả năng đóng góp của cán bộ, công chức thông qua hoạt động thực hiện nhiệm vụ, công vụ sao cho những quy định về tiền lương của cán bộ, công chức ngoài tính xã hội còn thể hiện không phải là chủ nghĩa bình quân, cào bằng; bảo đảm tiền lương trở thành nguồn thu nhập chính, chủ yếu, bảo đảm đời sống cho cán bộ, công chức và gia đình họ; Thứ hai, quy định chế độ tiền lương và các chế độ, chính sách khác đối với cán bộ, công chức phải được tiền tệ hóa, xóa bỏ các khoản biến tướng bao cấp ngoài lương, mang tính đặc quyền, đặc lợi, tạo nên sự phân hóa, bất bình đẳng trong nội bộ cán bộ, công chức; đồng thời phải có quy định rõ ràng đối với những người có công lao, đóng góp lớn, đặc biệt; Thứ ba, cùng với những quy định về chế độ tiền lương, cần phải có những quy định chính sách khác kích thích, khuyến khích trong các lĩnh vực cần thu hút nhân tài, đối với những chuyên gia có nghiệp vụ chuyên môn sâu, có tay nghề cao; cũng như có những quy định khuyến khích, thu hút cán bộ, công chức đến những nơi làm việc khó khăn, vùng sâu, xa, các quy định chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức cấp cơ sở… Chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức được thể hiện cụ thể trong các quy định về quyền lợi và các quy định về khen thưởng đối với cán bộ, công chức. Các quy định đó cần phải cụ thể, rõ ràng, tạo ra sự thống nhất trong hệ thống chế độ, chính sách chung của pháp luật về cán bộ, công chức. Những quy định đó phải vừa bảo đảm tính riêng biệt cho đối tượng cán bộ, công chức, vừa bảo đảm tính đồng bộ trong hệ thống pháp luật nói chung, tránh sự chồng chéo, trùng lặp không cần thiết với các quy định khác trong hệ thống pháp luật nói chung. 2.3.3.4. Hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của cán bộ, công chức Trong Pháp lệnh Cán bộ, công chức hiện hành đã có quy định về quyền lợi của cán bộ, công chức, nhưng còn chung chung, thiếu tính cụ thể, hoặc trùng lặp với các quy định khác của các văn bản pháp luật khác một cách không cần thiết; như các quy định trùng với quy định trong Bộ luật Lao động, hay Luật Thi đua khen thưởng. Trong khi những vấn đề mang tính riêng biệt của cán bộ, công chức lại chưa có quy định cụ thể. Ví dụ quy định quyền lợi "chính sách về nhà ở, các chính sách khác và được bảo đảm các điều kiện làm việc" tại Điều 10 Pháp lệnh cán bộ, công chức; quy định khen thưởng đối với cán bộ, công chức cũng tại Điều 10 của Pháp lệnh khi "lập thành tích xuất sắc trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ thì được xét nâng ngạch, nâng bậc lương trước thời hạn". Nhưng khi cán bộ, công chức có đủ các điều kiện trên thì lại không có quy định cụ thể hướng dẫn để thực hiện. Những vướng mắc, tồn tại đó không tạo ra sự động viên, thúc đẩy, kích thích cán bộ, công chức hoàn thành tốt nhiệm vụ, công vụ, làm ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng phục vụ của cán bộ, công chức, thuyên giảm động lực phấn đấu vì nhân dân của họ; điều mà Hồ Chí Minh trước đây đã rất có kinh nghiệm và làm rất tốt. Cùng với các quy định về quyền của cán bộ, công chức, cũng cần hoàn thiện các quy định về nghĩa vụ của cán bộ, công chức, nhằm tạo ra sự ràng buộc bảo đảm cán bộ, công chức làm tròn các chức trách, nhiệm vụ được giao, cũng như không được lợi dụng danh nghĩa nhiệm vụ, công vụ để mưu lợi cá nhân. Pháp lệnh Cán bộ, công chức hiện hành quy định nghĩa vụ cán bộ, công chức nói chung tại các Điều 6, 7, 8. Tuy nhiên, để bảo đảm cách hiểu và thực thi cũng như giám sát thực thi các nghĩa vụ đó của cán bộ, công chức được dễ dàng, nên có sự phân loại rõ thành từng nhóm nghĩa vụ. Đặc biệt, do đặc thù trong hoạt động của cán bộ, công chức, thấy rằng, cán bộ, công chức không chỉ chịu trách nhiệm về hành vi thực thi nhiệm vụ, công vụ của mình khi còn đương là cán bộ, công chức, mà trách nhiệm ấy còn tồn tại ngay cả khi họ đã rời bỏ công việc của mình. Điều này có nghĩa cán bộ, công chức phải chịu trách nhiệm phát sinh do việc thực thi nhiệm vụ, công vụ của mình gây ra kể cả khi họ đã rời bỏ chức trách đã được giao bất kể lý do gì. Có như vậy mới nâng cao tính trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức và bảo đảm tính nghiêm minh, công bằng nói chung của pháp luật. Nhưng Pháp lệnh Cán bộ, công chức hiện hành không có quy định nào về vấn đề này. Hoạt động thực thi nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức cũng là một dạng thức lao động cụ thể, nhưng là lao động đặc thù, là hoạt động phục vụ thể hiện tính chất "là công bộc của nhân dân", nhưng nhìn chung là các hoạt động quản lý, có những dấu hiệu của quyền lực công, nên cán bộ, công chức phải chịu những hạn chế nhất định. Đó là những việc mà cán bộ, công chức không được làm. Những điều cần thiết này được quy định tại Chương III Pháp lệnh Cán bộ, công chức hiện hành là cần thiết để bảo đảm sự công tâm, vô tư, tận tụy trong phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức. Nhưng vẫn cần thiết phải có những nghiên cứu để bổ sung. Ví dụ như quy định cán bộ, công chức không được từ bỏ nhiệm sở, công việc, tham gia đình công, lãn công… 2.3.3.5. Hoàn thiện các quy định về thanh tra, kiểm tra, giám sát, quản lý đội ngũ cán bộ, công chức Đội ngũ cán bộ, công chức chính là công cụ đắc lực, chủ thể trực tiếp thực thi các hoạt động quản lý của Nhà nước đối với xã hội, là mối dây liên hệ giữa Nhà nước với công dân, là cầu nối chuyền tải giữa chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước với xã hội và ngược lại, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nhân dân với Đảng, Nhà nước. Để bảo đảm sự vận hành đó, cần thiết phải xây dựng những quy định về thanh tra, kiểm tra, giám sát, quản lý đối với cán bộ, công chức; coi đó như điều kiện bảo đảm việc thực thi nhiệm vụ, công vụ một cách tích cực, đúng đắn của cán bộ, công chức, để họ thực sự vừa hồng, vừa chuyên. Thanh tra, kiểm tra, giám sát là biện pháp bảo đảm việc chấp hành nghiêm kỷ cương, kỷ luật trong thực thi nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức. Quản lý thống nhất là bảo đảm cho hoạt động của cán bộ, công chức được nhất quán, nhịp nhàng, có trật tự và hướng tới tính hiệu lực, hiệu quả. Hồ Chí Minh đã từng rất coi trọng công tác kiểm tra, kiểm soát đối với cán bộ. Người đòi hỏi kiểm tra cán bộ phải trở thành nền nếp và thực hiện một cách có hệ thống, qua đó chống được các bệnh quan liêu, bàn giấy, biết được các nghị quyết có được thực thi không, có đúng không và đúng tới mức nào. Người chỉ ra 3 lý do phải kiểm soát đối với cán bộ là: "1.Có kiểm soát như thế mới biết rõ cán bộ và nhân viên tốt hay xấu. 2.Mới biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của các cơ quan. 3. Mới biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của các mệnh lệnh và nghị quyết" [43, tr.287]. Theo Hồ Chí Minh có 2 cách kiểm soát: "Một cách là từ trên xuống. Tức là người lãnh đạo kiểm soát kết quả những công việc của cán bộ mình. Một cách nữa là từ dưới lên. Tức là quần chúng và cán bộ kiểm soát sự sai lầm của người lãnh đạo và bày tỏ cái cách sửa chữa sự sai lầm đó. Cách này là cách tốt nhất để kiểm soát các nhân viên" [43, tr.288]. Trong điều kiện đổi mới, hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức hiện nay, cũng cần phải lưu ý hoàn thiện các quy định về thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với cán bộ, công chức. Đó là điều kiện bảo đảm cho cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ, công vụ một cách nghiêm chỉnh, đúng pháp luật, có hiệu quả cao. Thông qua các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát giúp cho cấp trên biết được cán bộ, công chức thuộc quyền thực hiện công việc được giao đến đâu, có đúng không, có gì sai sót không? Nếu có sai phạm thì có chỉ đạo, uốn nắn kịp thời. Đồng thời, thông qua đó còn có cơ sở thực chất để xem xét, đánh giá được đường lối, chủ trương của mình. Cũng qua thanh tra, kiểm tra, giám sát giúp cho cán bộ, công chức thấy được ưu điểm, nhược điểm của mình để có hướng điều chỉnh cho đúng, không bị trượt vào những sai lầm. Đặc biệt những quy định về thanh tra, kiểm tra, giám sát phải theo cách nhìn nhận là: "công tác kiểm tra, giám sát phải góp phần phát hiện và khắc phục được những khuyết điểm, thiếu sót khi mới manh nha"[12, tr.302]. Muốn thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát được, phải có công cụ. Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay, công cụ số một, quan trọng nhất là pháp luật. Phải có những quy định rõ về thẩm quyền và cơ chế bảo đảm thực thi thẩm quyền thanh tra, kiểm tra, giám sát từ phía Nhà nước, hệ thống chính trị và nhân dân đối với cán bộ, công chức, nhất là việc thực thi quyền khiếu nại, tố cáo một cách dễ dàng, thuận lợi; đồng thời phải có quy định rõ việc cán bộ, công chức phải chịu trách nhiệm về những sai phạm trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ của mình gây ra bằng cách quy định chế độ kỷ luật đối với cán bộ, công chức. Những quy định này phải hết sức chặt chẽ, cụ thể, rõ ràng để tạo ra sự thống nhất, khách quan trong thi hành, tránh những quy định chung vừa thiếu định lượng, định tính như hiện nay; ví dụ như quy định sai phạm "ở mức độ nhẹ" tại Điều 12 Nghị định số 97/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 của Chính phủ về xử lý kỷ luật và trách nhiệm vật chất đối với công chức; mức độ nhẹ là như thế nào không có quy định, giải thích rõ, gây khó khăn, dễ tạo ra sự tùy tiện chủ quan trong thực tiễn áp dụng. Cũng cần quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm, trình tự, thủ tục, nguyên tắc trong xem xét, áp dụng các biện pháp xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức. Điều đáng tiếc là trong Pháp lệnh Cán bộ, công chức hiện hành không có quy định cụ thể về thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động của cán bộ, công chức, ngoài một quy định rất chung chung trong nội dung quản lý nhà nước về cán bộ, công chức tại Khoản 10 Điều 33 Pháp lệnh sửa đổi 2003: "10. Thanh tra, kiểm tra việc thi hành các quy định của pháp luật về cán bộ, công chức", ngoài ra, chưa có nghị định của Chính phủ hướng dẫn rõ vấn đề này. Để bảo đảm hoạt động của cán bộ, công chức được đúng đắn, thực sự hướng tới phục vụ nhân dân, rất cần thiết phải có những quy định cụ thể về thanh tra, kiểm tra, giám sát những hoạt động của cán bộ, công chức; trong đó phải chỉ ra được các cơ chế, phương thức và nguyên tắc cho các quy định này được triển khai thực hiện, nhất là vấn đề giám sát hoạt động của cán bộ, công chức- một trong những phương thức thể hiện rõ nhất tính dân chủ với nhân dân của nhà nước pháp quyền. Ngoài ra, còn cần phải có các quy định về kiểm tra, sát hạch thường xuyên và định kỳ đối với cán bộ, công chức; kết quả đó phải được công bố công khai, là cơ sở để xét nâng bậc lương, để bố trí, đề bạt, bổ nhiệm và xét hưởng các chế độ đãi ngộ khác. Một nội dung quan trọng của pháp luật cán bộ, công chức là vấn đề quản lý cán bộ, công chức. Quản lý cán bộ là công việc khó và phức tạp, nó biểu hiện mối quan hệ tổng hợp về nhiều mặt: kinh tế, tổ chức, hành chính, chính trị, pháp lý, tâm lý xã hội…, đòi hỏi tính khoa học và cả nghệ thuật cao. Vì vậy đòi hỏi phải xây dựng được những quy định pháp luật về quản lý cán bộ, công chức rõ ràng, cụ thể, khoa học, là điều kiện bảo đảm cho pháp luật về cán bộ, công chức được thực thi nhất quán và có hiệu quả cao, giúp cho việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, phân phối và sử dụng cán bộ, công chức đúng với yêu cầu, nhiệm vụ của từng giai đoạn cụ thể. Kết luận Chúng ta đang trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hướng tới mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tiến trình ấy cần sự nỗ lực to lớn của toàn Đảng, toàn dân; trong đó đội ngũ cán bộ, công chức có vị trí, vai trò hết sức quan trọng. Mặt khác, đặc trưng quan trọng cơ bản của nhà nước pháp quyền là phải luôn tôn trọng tính tối cao của pháp luật, coi pháp luật là công cụ hàng đầu và chủ yếu nhất trong điều hành, quản lý đất nước. Điều đó có nghĩa và đòi hỏi phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật một cách đồng bộ, thống nhất, minh bạch và công khai. Như thế, đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật về cán bộ, công chức nói riêng là nhu cầu, đòi hỏi tất yếu khách quan. Qua đó tạo ra cơ sở pháp lý cho việc hình thành đội ngũ cán bộ, công chức, cũng như cơ sở pháp lý cho việc tổ chức thực thi nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức; đồng thời còn bảo đảm kiểm soát được quá trình đó, để nó diễn ra theo đúng những quy định của pháp luật, hướng tới phục vụ nhân dân, bảo đảm cán bộ, công chức là công bộc của nhân dân. Tiến trình đổi mới hiện nay do Đảng khởi xướng và lãnh đạo là tiến trình đổi mới mang tính toàn diện và sâu sắc. Trong suốt tiến trình ấy, Đảng xác định nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đặc biệt, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể nước ta. Chính tư tưởng ấy đã trở thành sợi chỉ đỏ dẫn đường xuyên suốt mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, không chỉ trong đấu tranh giải phóng dân tộc, trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, mà còn mang tính tương lai bền vững. Tư tưởng Hồ Chí Minh được xác định "là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam" [11, tr.83], trong đó có tư tưởng về vấn đề cán bộ, về xây dựng và hoàn thiện nhà nước và pháp luật. Kết hợp những yếu tố đó là cơ sở tư tưởng quan trọng trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về cán bộ, công chức ở nước ta. Hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đòi hỏi tất yếu khách quan trong tiến trình đổi mới hiện nay ở nước ta; bởi nghiên cứu, học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng đất nước là chủ trương chung của Đảng và Nhà nước ta, trong đó có nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ vừa hồng, vừa chuyên, là công bộc của nhân dân. Trong khi thực trạng pháp luật cán bộ, công chức ở nước ta thời gian qua dù đã được hình thành và từng bước hoàn thiện, góp phần xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, nhưng còn chưa mang tính đồng bộ, thiếu sự thống nhất, chưa thực sự trở thành công cụ, cơ sở pháp lý đầy đủ cho xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức thực sự vững mạnh, trong sạch, đáp ứng yêu cầu đưa cán bộ, công chức trở thành đầu tầu của công cuộc đổi mới, xây dựng kinh tế, cải cách và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh là góp phần làm rõ những giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam nói chung, cũng là góp phần quan trọng vào hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta. Đặc biệt là góp phần quan trọng vào việc tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc để xây dựng và hình thành đội ngũ cán bộ, công chức vừa có đức, vừa có tài, vừa hồng, vừa chuyên, thực sự là công bộc của nhân dân. Khi nghiên cứu đề tài cho bản luận văn này, tác giả thấy đã có nhiều tác phẩm, công trình khoa học, nhiều bài viết phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, hoặc đề cập tới vấn đề cấp thiết là hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, các tác phẩm, công trình, bài viết đó hoặc chỉ đề cập tới tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và vận dụng trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh, hoặc phân tích thực trạng, đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức; mà chưa có sự gắn kết hai vấn đề đó với nhau. Danh mục tài liệu tham khảo 1.Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 27/3/2003 về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới. 2.Lương Gia Ban (2004), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về trọng dụng nhân tài và vấn đề trọng dụng nhân tài trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa", Tạp chí Khoa học xã hội, (4), tr.27-30. 3.Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ - Viện Khoa học Tổ chức nhà nước (1998), Đạo đức, phong cách, lề lối làm việc của cán bộ, công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 4.Trường Chinh (1991), Chủ tịch Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội. 5.Phạm Hồng Chương (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh và một số vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6.Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000, Nxb Sự thật, Hà Nội. 7.Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb Sự thật, Hà Nội. 8.Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb Sự thật, Hà Nội. 9.Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. 10.Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 11.Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 12.Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13.Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng, Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 14.Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 15.Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 16.Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 17.Nguyễn Trọng Điều (2005), "Về đánh giá, quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay", Tạp chí Cộng sản, (20), tr.12-16. 18.Phạm Văn Đồng (1998), Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 19.Võ Nguyên Giáp (chủ biên) (2000), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 20.Lê Kim Hải (2004), "Tìm hiểu quan điểm Hồ Chí Minh về giáo dục cán bộ, công chức", Tạp chí Quản lý nhà nước, (5), tr.30-32,37. 21.Nguyễn Ngọc Hiến (2003), "Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực", Tạp chí Quản lý nhà nước, (5), tr.2-6. 22.Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Xây dựng Đảng (2004), Giáo trình Xây dựng Đảng (hệ cử nhân chính trị), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 23.Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn Giáo trình các môn khoa học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh (2004), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 24. Trần Đình Huỳnh (2004), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về luân chuyển cán bộ", Tạp chí Tổ chức nhà nước, (8), tr.9-11. 25.Đặng Xuân Kỳ (chủ biên) (2004), Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 26.Nguyễn Hiến Lê (dịch giả) (1995), Luận ngữ, Nxb Văn học, Hà Nội. 27.V.I.Lênin (1978), Toàn tập, Tập 4, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 28.V.I.Lênin (1975), Toàn tập, Tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 29.V.I.Lênin (1975), Toàn tập, Tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 30.C.Mác- Ph.ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 31.C.Mác- Ph.ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 32.C.Mác- Ph.ăngghen(1995), Toàn tập, Tập 19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 33.C.Mác - Ph.ăngghen(1995), Toàn tập, Tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 34.C.Mác- Ph.ăngghen (1983), Tuyển tập, Tập 4, Nxb Sự thật, Hà Nội. 35.Hồ Chí Minh (1995), Biên niên tiểu sử, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 36.Hồ Chí Minh (1995), Biên niên tiểu sử, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 37.Hồ Chí Minh (1995), Biên niên tiểu sử, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 38.Hồ Chí Minh (1986), Tiểu sử và sự nghiệp, Nxb Sự thật, Hà Nội. 39.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 40.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 41.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 42.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 43.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 44.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 45.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 46.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 47.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 48.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 49.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 50.Trần Nghị (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và vận dụng trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh 51.Dương Xuân Ngọc (2003), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo và huấn luyện cán bộ", Tạp chí Xây dựng Đảng, (7), tr.2-3. 52.Bùi Đình Phong (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ, Nxb Lao động, Hà Nội. 53.Thang Văn Phúc-Nguyễn Xuân Phương (đồng chủ biên) (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 54.Nguyễn Văn Sáu (chủ biên) (2005), Nghiên cứu, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 55.Nguyễn Văn Tâm (1997), Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về công chức nhà nước ở nước ta, Luận án tiến sĩ Luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 56.Trần Hậu Thành (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 57.Trần Dân Tiên (1994), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 58.Trịnh Xuân Toản (2003), "Đổi mới, hoàn thiện pháp luật về cán bộ, công chức nhà nước", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (4), tr.20-22. 59.Hoàng Trang- Nguyễn Khánh Bật (đồng chủ biên) (1999), Tìm hiểu thân thế, sự nghiệp và tư tưởng Hồ Chí Minh (hỏi và đáp-in lần thứ 2), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 60.Phạm Minh Triết (2003), Hoàn thiện pháp luật về công chức hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 61.Nguyễn Phú Trọng-Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên) (2003), Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (tái bản), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 62.Đặng Minh Tuấn-Nguyễn Thị Thúy (2004), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ và một số vấn đề đặt ra trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (12), tr.3-10. 63.Nguyễn Anh Tuấn (chủ biên) (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. 64.Trần Anh Tuấn (2006), "Thấy gì qua 2 năm thực hiện Pháp lệnh Cán bộ, công chức sửa đổi, bổ sung năm 2003", Tạp chí Tổ chức nhà nước, (1+2), tr.37-40. 65.Từ điển tiếng Việt (1994), Nxb Văn học, Hà Nội. 66.Từ điển tiếng Việt (2002), Nxb Đà Nẵng. 67.Từ điển triết học (1957), Nxb Sự thật, Hà Nội. 68.Từ điển triết học (2002), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 69.Đào Trí úc (chủ biên) (2005) Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 70.Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý xuất bản (1993), Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfT432 t4327903ng H7891 Champ237 Minh v7873 camp225n b7897 vamp224 v7853n damp.pdf