Tư tưởng hồ chí minh về chống tham ô , quan liêu , lãng phí
MỞ ĐẦU
1. Lí DO CHỌN ĐỀ TÀI
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế , chính trị khoa học và kỹ thuật. Tuy nhiên chúng ta đang đối mặt với rất nhiều trở ngại và thách thức lớn . Một trong các vấn đề lớn đó chính là những hành vi tham nhũng, quan liêu đó ảnh hưởng rất lớn đối với nền kinh tế đất nước. Quy mụ lớn, thủ đoạn ngày càng diễn biến phức tạp gõy thiệt hại vụ cựng to lớn cho sự phát triển kinh tế nên việc chống tham nhũng là vấn đề vụ cấp bách hiện nay. Và đú chính là lý do nhóm chọn phân tích đề tài.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Tìm hiểu các khái niệm về tham nhũng, quan liêu ở nước Việt Nam. Nghiên cứu những ảnh hưởng và hậu quả mang lại của những hành vi tham nhũng , tác động đến nền kinh tế nước ta. Thông qua đó đưa ra biện pháp phòng chống, hạn chế tối thiểu những hành vi tham nhũng, quan liêu ,lãng phớí.
3. NỘI DUNG NGHIấN CỨU
Nghiên cứu các khái niệm và thực trạng tham nhũng tại Việt Nam và một số nước khác trên thế giới ,chủ thể của tội phạm tham nhũng ,các mặt chủ quan của tham nhũng ,nguyên nhân dẫn đến tham nhũng tìm hiểu tính khả thi phòng ngừa và ngăn chặn tham nhũng.
23 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2596 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tư tưởng hồ chí minh về chống tham ô, quan liêu, lãng phí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC CÔNG NGHIÊP THÀNH PHỒ HỒ CHÍ MINH
KHOA QUỐC TẾ
TIỂU LUẬN MÔN HỌC
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
TÊN ĐỀ TÀI
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỐNG THAM Ô , QUAN LIÊU , LÃNG PHÍ
Sinh viên thực hiện
Số Thứ Tự
Tên Sinh Viên
Mã Số Sinh Viên
1
2
3
4
5
6
7
8
Giáo Viên Hướng Dẫn:
LỜI CAM KẾT
Nhóm em xin cam kết tất cả những gì được viết trên đây là quá trình nghiên cứu của nhóm em. Những phần tham khảo đều được chú thích ở dưới phần phụ lục và tài liệu tham khảo. Em xin cảm ơn thầy Trần Minh Tân đã giúp nhóm em hoàn thành tiểu luận này.
Nhóm trưởng
Lời nhận xét của giáo viên hướng dẫn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế , chính trị khoa học và kỹ thuật. Tuy nhiên chúng ta đang đối mặt với rất nhiều trở ngại và thách thức lớn . Một trong các vấn đề lớn đó chính là những hành vi tham nhũng, quan liêu đã ảnh hưởng rất lớn đối với nền kinh tế đất nước. Quy mô lớn, thủ đoạn ngày càng diễn biến phức tạp gây thiệt hại vô cùng to lớn cho sự phát triển kinh tế nên việc chống tham nhũng là vấn đề vô cùng cấp bách hiện nay. Và đó chính là lý do nhóm chọn phân tích đề tài.
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Tìm hiểu các khái niệm về tham nhũng, quan liêu ở nước Việt Nam. Nghiên cứu những ảnh hưởng và hậu quả mang lại của những hành vi tham nhũng , tác động đến nền kinh tế nước ta. Thông qua đó đưa ra biện pháp phòng chống, hạn chế tối thiểu những hành vi tham nhũng, quan liêu ,lãng phí .
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu các khái niệm và thực trạng tham nhũng tại Việt Nam và một số nước khác trên thế giới ,chủ thể của tội phạm tham nhũng ,các mặt chủ quan của tham nhũng ,nguyên nhân dẫn đến tham nhũng tìm hiểu tính khả thi phòng ngừa và ngăn chặn tham nhũng.
KẾT QUẢ CỦA QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU
Tham nhũng đã có từ lâu đời từ các nước trên thế giới ,không riêng gì Việt Nam. Tham nhũng là vấn đề quốc nạn ,làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với đảng và nhà nước ,ảnh hưởng và kèm hãm sự phát triển của nền kinh tế . Tìm hiểu được các vấn đề cơ bản về tham nhũng,thực trạng tham nhũng tại một số nước nói chung và việt nam nói riêng
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Sự phát triển và giàu có của một quốc gia không phải chủ yếu là do nó có tài nguyên giàu có, cũng không phải chỉ do sự cần cù của số đông người lao động. Mà chủ yếu là do những yếu tố kích thích, gắn kết bên trong những thể chế về quản lý và tổ chức, cho phép thúc đẩy đầu tư và phát triển. Một sự phát triển lâu bền không thể dựa trên một thể chế quản lý bị lũng đoạn bởi tham nhũng. Và một nền kinh tế lạc hậu không phải là không bao giờ có thể đuổi kịp các nước tiên tiến. Vấn đề là phải tạo lập cho được hệ thống công quyền tích cực, nhằm bảo đảm quyền sở hữucủa các cá nhân, và thúc đẩy sự tiến bộ của xã hộ cũng như sự ổn định vững vàng của chế độ chính quyền cũng như độc lập an ninh của Tổ quốc.
Nhận thức được những hậu quả của tội phạm tham nhũng gây ra chúng ta cần phải có những biện pháp hữu hiệu nhằm đấu tranh phòng chống vấn nạn này, làm trong sạch bộ máy chính quyền, lấy lại niềm tin trong nhân dân và một môi trường phát triển lành mạnh cho kinh tế Việt Nam.
CHƯƠNG I : TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THAM NHŨNG
1.1 Khái Niệm Về Tham Nhũng
Tham nhũng “là hành vi của người lạm dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc cố ý làm trái pháp luật để phục vụ cho lợi ích cá nhân” (1)Trong Pháp lệnh chống tham nhũng, tại Chương I, Điều 1 có xác định: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức” (2).
Chống tham nhũng của Nhà nước ta (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/6/2006) đã ghi: "Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi” (3).
Tham nhũng là một hiện tượng xã hội tiêu cực cùng với sự xuất hiện của nhà nước . Nó biểu hiện sự sa thái trong bộ phận quan chức nhà nước .
Tham Nhũng có thể coi như một hiểm họa của đất nước: Tham nhũng – Giặc nội xâm!
1.2 Khái Niệm Về Tội Phạm Tham Nhũng
Tham nhũng gồm những ai . Tham nhũng là hành vi của kẻ có chức quyền. kẻ tham nhũng là viên chức trong hệ thống cầm quyền. Tham nhũng nhỏ xảy ra ở người có chức quyền nhỏ. Tham nhũng lớn ở người có chức quyền lớn. Tuy không có quy định thành văn nhưng trong thực tế từ cán bộ cấp trưởng ấp, trưởng khu phố đến phó trưởng phòng của phường xã, đều phải là đảng viên. Do vậy bệnh tham nhũng trong thực tế lại chính là bệnh của đảng viên từ thôn ấp cho tới những cơ quan cao nhất! Nhiều đảng viên không làm công tác chính quyền, nhưng với cơ chế Đảng lãnh đạo toàn diện, họ có điều kiện tham nhũng còn hơn cả viên chức chính quyền. Vậy tham nhũng là bệnh của Đảng, của cả hệ thống chính trị.
Cho tới nay, tham nhũng một hiện tượng xã hội tiêu cực để trở thành một quốc nạn của toàn xã hội, nó gây tác động tiêu cực, không nhỏ đối với xã hội, gây trong lòng dân làn sóng bất bình, nó là biểu hiện của sự suy thoái đạo đức, vi phạm pháp luật… khi mà những hành vi tham nhũng đó gây ra thiệt hại đáng kể cho xã hội đủ các dấu hiệu để cấu thành tội phạm thì phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Theo Bộ luật Hình sự 1999 (4) thì loại tội phậm này được quy định ở Mục A - Chương XXI, bao gồm các tội sau:
Tội tham ô tài sản (Điều 278)
Tội nhận hối lộ (Điều 279)
Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản (Điều 280)
Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 281)
Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 282)
Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi (Điều 283)
Tội giả mạo trong công tác (Điều 284)
Muốn đưa ra được khái niệm về tội tham nhũng, trước hết chúng ta phải nắm được khái niệm tội phạm nói chung. Theo khoản 1 - Điều 8 - Bộ luật Hình sự quy định: "Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân; xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa".
Qua khái niệm về tội phạm nói chung và phần các tội phạm về tham nhũng được ghi nhận tại Mục A - Chương XXI có thể hiểu khái niệm về tội phạm tham nhũng như sau: "Các tội phạm về tham nhũng là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có chức vụ, quyền hạn để lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ quyền hạn của mình thực hiện trong khi thi hành công vụ một cách cố ý trực tiếp xâm phạm vào hoạt động đúng đắn và uy tín của cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nhằm trục lợi".
1.3 Các Dấu Hiệu đặc Trưng Về Tội Phạm Tham Nhũng
Chủ thể của tội phạm tham nhũng là một loại chủ thể đặc biệt, đòi hỏi đó phải là những người có chức vụ, quyền hạn. ở đây, ngoài hai dấu hiệu thông thường là độ tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự, bắt buộc phải có dấu hiệu thứ ba là người có chức vụ, quyền hạn. Điều 277 - BLHS 1999 (4) quy định: " Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ".
Có thể thấy người có chức vụ quyền hạn có một só đặc điểm như sau:
Là người được giữ chức vụ thường xuyên hoặc tạm thời trong cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội. Chức vụ này có thể do bổ nhiệm hoặc do bầu cử, hợp đồng hay hình thức khác (uỷ quyền, đại diện), có hưởng lương hoặc không hưởng lương của Nhà nước.
Là người thực hiện một trong các chức năng: đại diện quyền lực Nhà nước, tổ chức điều hành quản lý hành chính; hoặc chức năng tổ chức sản xuất kinh doanh theo công vụ được được giao cho họ.
Là những người thực hiện trách nhiệm nhất định theo thẩm quyền chuyên môn mà họ đảm nhận.
Trong các tội phạm tham nhũng, người có chức vụ quyền hạn đã nhận thức được tính chất nguy hiểm cho Nhà nước, cho xã hội, cho công dân của hành vi trái luật do mình gây ra và thấy trước được hậu quả xảy ra. Khi người có chức vụ quyền hạn nhận thức được hành vi của mình là trái với công vụ được giao thể hiện người đó đã vì lợi ích của riêng mình chứ không hoạt động vì lợi ích chung, chỉ biết đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích tập thể, họ có thể làm bằng nhiều cách thức, con đường khác nhau cốt sao mang lại những lợi ích mà họ mong muốn. Như vậy, đương nhiên tội phạm tham nhũng luôn được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý trực tiếp, nhằm động cơ vụ lợi cá nhân.
1.4 Tội Phạm Tham Nhũng và Vi Phạm Luật Của Người Có Chức Quyền
Ta có thể căn cứ vào một trong các tiêu chí sau đây để thấy rõ hơn sự khác nhau chủ yếu giữa tội phạm tham nhũng và các hành vi vi phạm pháp luật do người có chức vụ quyền hạn thực hiện:
Đối với các tội phạm về tham nhũng thì phạm vi khách thể thường hẹp hơn so với phạm vi khách thể bị xâm hại của các vi phạm pháp luật do người có chức vụ quyền hạn thực hiện.
Tính trái pháp luật của hành vi: Đây chính là đặc điểm khác nhau cơ bản, quan trọng nhất để xác định hành vi nào là tội phạm về tham nhũng và hành vi nào là hành vi vi phạm pháp luật do người có chức vụ quyền hạn thực hiện. Tội phạm tham nhũng là sự vi phạm điều cấm của Luật Hình sự và người phạm tội bị đe doạ xử lý bằng biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất được quy định đặc thù trong ngành luật này. Còn hành vi vi phạm pháp luật do người có chức vụ quyền hạn thực hiện chỉ là sự vi phạm các quy định của từng ngành luật tương ứng khác và có thể không bị coi là tội phạm.
Hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi: chủ thể chịu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm về tham nhũng nếu bị kết án và bị áp dụng hình phạt thì bị coi là có án tích. Còn chủ thể chịu trách nhiệm pháp luật của hành vi vi phạm pháp luật do người có chức vụ quyền hạn thực hiện được quy định trong từng ngành luật tương ứng và không bao giờ bị coi là án tích.
Như vậy, không phải tất cả những vi phạm pháp luật do người có chức vụ quyền hạn thực hiện đều là các tội phạm về chức vụ nói chung, và tội phạm về tham nhũng nói riêng.
1.5 Các Nguyên Nhân Dẫn Đến Tham Nhũng
Trách nhiệm và trình độ quản lý của thủ trưởng đơn vị quá kém; cơ chế kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng, quản lý, luân chuyển tài sản có nhiều sơ hở;.giao tài sản cho nhân viên quản lý nhưng không có biện pháp kiểm tra, giám sát chặt chẽ; gian lận trong công tác để chiếm đoạt tài sản; các quy định về nhà đất, thủ tục đền bù giải tỏa không được công khai, rõ ràng khiến người dân có suy nghĩ phải "đút lót, trà nước" mới xong và cũng là cơ hội cho cán bộ sách nhiễu. Có sự cấu kết của nhiều người trong nhiều cơ quan khác nhau. Thủ đoạn này rất tinh vi, nguy hiểm, vì tài sản thất thoát khó phát hiện, kiểm tra và khó phục hồi.
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG THAM NHŨNG VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG TỚI NỀN KINH TẾ
2.1 Thực Trạng Tham Nhũng Ở Một Số Nước
Tham nhũng đã trở thành một mối lo ngại lớn mang tính toàn cầu. Năm 2008, chỉ số nhận biết tham nhũng (viết tắt là CPI), được Tổ chức minh bạch quốc tế thực hiện sau khi nghiên cứu 85 quốc gia, đã cho thấy, tham nhũng không chỉ là mối lo của các nước đang phát triển mà còn là của các nước đang phát triển. Có đến 50 quốc gia không đạt điểm 5 trong thang điểm từ cấp độ 1 (mức tham nhũng cao nhất) đến cấp độ 10 (mức tham nhũng thấp nhất). Rất nhiều quốc gia, bao gồm các nước Châu Phi, Châu Á, Trung Âu và Đông Âu có số điểm thấp hơn cấp độ 3. Một số nước công nghiệp phát triển như I-ta-li-a, Bỉ và Nhật Bản cũng bị đánh giá là có tỉ lệ tham nhũng cao.
Kết quả một cuộc nghiên cứu gần đây cho thấy:
Khoảng 56% số người được hỏi trong cuộc khảo sát đối với 90.000 người ở 86 quốc gia của Tổ chức Minh bạch quốc tế cho biết đất nước họ ngày càng nhiều tham nhũng. Tổ chức này đặt Afghanistan, Nigeria, Iraq và Ấn Độ vào danh sách nhiều tham nhũng nhất, theo sau đó là Trung Quốc, Nga và nhiều nơi ở Trung Đông.
Theo cuộc điều tra của tổ chức Minh bạch quốc tế, các đảng chính trị được coi là nơi tham nhũng nhất và 50% số người tin rằng chính phủ của họ không hiệu quả khi đối phó với vấn đề này.
Cứ 4 người được hỏi thì một người cho biết đã đút lót trong năm trước đó và cảnh sát là người nhận phổ biến. 29% tiền hối lộ được đưa cho cảnh sát, 20% cho các quan chức làm công việc đăng ký và cấp phép và 14% vào tay các thành viên trong lĩnh vực tư pháp.
Các đảng chính trị từ lâu được cho là nơi nhiều tham nhũng nhất, họ đứng đầu danh sách của Tổ chức Trong sạch năm 2004 với tỷ lệ 71%. Trong cuộc khảo sát năm nay, 80% số người cho rằng họ tham nhũng.
Số người cho rằng các tổ chức tôn giáo tham nhũng tăng vọt từ 28% năm 2004 đến 53% năm 2010. Người dân Afghanistan, Nigeria, Iraq và Ấn Độ nằm trong số những người nhận tham nhũng cao nhất thế giới.
Phần trăm số người đi hối lộ tại các quốc gia trong năm trước (2010)
Phần Trăm (%)
Nước
>50
Afghanistan, Cambodia, Cameroon, India, Iraq, Liberia, Negeria,
alestine, Senegal, Sierra Leone, Uganda
30-49.9
Azerbaijan, Bolivia,
I Salvador, Ghana, Kenya, Lebanon, Lithuania, Mexico, Moldova, Mongolia, Pakist
n, Ukraina, Vietnam, Zambia
20-29.9
Armenia, Belarus, bosnia& Herzegovina, Chile, Colombia, FYR Macedonia, Hungary, Papua New Guinea, Peru, Romania, Russia, Solomon islands, Thailand, Turkey, Venezuela
6-19.9
Argentina, Austria, Bulgaria, China, Czech republic, fiji, Luxembourg, Malaysia, Indonesia, Italy, Japan, Kosovo, Latvia, France, Greeve, Poland, Philipinesm Serbia, Singapore, Taiwan, Vanuatu
<6
Australia, Brazin, Canada, Croatia, Denmark, filand, Georgia, Germany, Hong Kong, Iceland, Ireland, Israel, South Korea, Netherlands, New Zealanf, Norway, Norway, Portugal, Slovenia, Spain, Switzerland, UK, US
(Nguồn: Transparency international Global Corruption Barometer 2010)
Ít nhất một nửa số người được hỏi tại các quốc gia này nói rằng đã đi hối lộ trong năm vừa qua.
Trong khi đó người dân từ Campuchia (84%), Liberia (89%) lại là người dễ đi hối lộ nhất. Tỷ lệ này ở Đan Mạch là 0%.
Tính về khu vực thì vùng tiểu Sahara châu Phi là nơi mà người dân dễ đi hối lộ nhất (56%). Trong khi đó, tỷ lệ này ở các nước châu Âu là thấp nhất (5%) mặc dù cả 2 khu vực này đều lo lắng hơn về vấn đề tham nhũng.
Các nhà phân tích cho rằng sự lo lắng ngày càng tăng đối với cuộc khủng hoảng tài chính đã làm giảm lòng tin của người dân vào chính phủ, ngân hàng và các tổ chức kinh tế.
2.2 Một Số Đặc Trưng Tham Nhũng hiện Nay
Tham nhũng đã trở thành phổ biến ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực. Đặc biệt là ở các cơ quan, đơn vị quản lý một khối lượng lớn tiền, hàng, vật tư quý hiếm, ngoại tệ mạnh như Ngân hàng, Tài chính, Thương nghiệp, Xây dựng cơ bản, Giao thông vận tải... Tham nhũng xuất hiện ở cả các cơ quan bảo vệ pháp luật như Công an, Kiểm sát, Tòa án, Hải quan... Các hành vi tham nhũng trong lĩnh vực đất đai (cấp đất, cho thuê đất...) phổ biến ở chính quyền các địa phương, thậm chí làm trái các qui định của Nhà nước đã trở thành căn bệnh của mọi lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội.
Tham nhũng được thực hiện bởi những hành vi ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Trong hoạt động kinh tế, chúng được che đậy dưới các hình thức liên doanh, liên kết, quà biếu, trích thưởng... Trong xây dựng cơ bản thì khai khống khối lượng, mua bán thầu, bớt xén vật tư... Trong kinh doanh thì trốn lậu thuế, giấu nguồn thu, chiếm dụng vốn... Trong sản xuất thì lập quỹ đen, vi phạm các qui định về kế toán thống kê... Trong quản lý đất đai thì cấp đất sai nguyên tắc, mau bán đất trá hình... Trong việc thực hiện chính sách xã hội thì lập hồ sơ giải, khai man thương tật... Nói chung, tham nhũng biểu hiện dưới muôn ngàn hình thức, bằng các thủ đoạn đa dạng và tinh vi.
Quy mô các vụ việc tham nhũng ngày càng lớn, tính chất ngày càng nghiêm trọng. Có những vụ việc tham nhũng liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều địa phương. Tham nhũng có tính chất tập thể, có sự câu kết chặt chẽ... có xu hướng tăng lên. Thiệt hại đối với tài sản của Nhà nước, của tập thể mà mỗi vụ tham nhũng gây ra cũng ngày càng nghiêm trọng. (Tính riêng năm 1991, đã có 1.729 tỷ đồng, 2.7775 triệu USD, 233 lượng vàng bị thất thoát do các hành vi tham nhũng gây ra).
Tham nhũng gắn chặt với buôn lậu. Thời gian vừa qua, hầu hết những vụ buôn lậu nghiêm trọng đều có sự tiếp tay của những kẻ tham nhũng trong cơ quan nhà nước. Mặt khác, những kẻ tham nhũng còn dùng tiền, hàng, phương tiện của Nhà nước để thực hiện hành vi buôn lậu. Thực chất buôn lậu và tham nhũng là 2 mặt của một vấn đề, là các dạng thức khác nhau nhằm chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, làm giàu bất chính.
2.3 Thực Trạng Tham Nhũng Tại Việt Nam
Ở Việt Nam, các nhà khoa học pháp lý nhìn nhận tham nhũng trên các bình diện: chính trị, kinh tế, pháp lý, đạo đức, truyền thống...và đặc biệt là bằng công cụ của tội phạm học để ghi nhận tính chất, đặc điểm và mức độ của tham nhũng. Trên quan điểm tổng thể đó đã nêu ra những đặc trưng cơ bản của tham nhũng như sau:
Thứ nhất, chủ thể của tham nhũng phải là những người có chức vụ quyền hạn làm việc trong bộ máy nhà nước ở các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp từ trung ương đến địa phương, cán bộ trong Đảng và các đoàn thể.
Thứ hai, người có chức vụ, quyền hạn đã thực hiện hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn, lợi dụng địa vị công tác được giao để không làm hoặc làm trái với công vụ mà mình phải thực hiện và thực hiện đúng qui định của pháp luật, gây thiệt hại chung cho lợi ích của nhà nước, xã hội và công dân.
Thứ ba, người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi với động cơ vụ lợi cho bản thân mình, cho người khác hoặc một nhóm người mà mình quan tâm.
Tham nhũng là tệ nạn mang tính chất toàn cầu, tuy nhiên không phải ở bất kỳ nơi nào trên thế giới biểu hiện, tính chất, phạm vi của tham nhũng cũng giống nhau mà ở mỗi quốc gia đều có sự khác nhau do đặc điểm về kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau.
2.3.1 Mức độ thiệt hại của hành vi tham nhũng hiện nay
Theo thống kê và báo cáo của các cơ quan có trách nhiệm đấu tranh chống tham nhũng thì những thiệt hại về vật chất do tham nhũng gây ra ít hơn rất nhiều so với những thiệt hại do các loại vi phạm khác gây ra, hàng năm thiệt hại do tham nhũng gây ra khoảng vài trăm tỷ đồng trong khi đó thiệt hại do những vi phạm và tội phạm khác gây ra là hàng trăm nghìn tỷ đồng. Mặt khác, theo báo cáo của cơ quan công an thì các tội tham nhũng trong những năm qua có xu hướng giảm, chẳng hạn: Năm 1997 cơ quan điều tra các cấp đã phát hiện, khởi tố 3856 vụ án kinh tế (tăng 5,6% so với năm 1996), trong đó các tội về tham nhũng tăng đáng kể: tham ô 594 vụ (tăng 14%), lừa đảo chiếm đoạt tài sản XHCN (có liên quan đến cán bộ trong các cơ quan nhà nước) 273 vụ (tăng 37,1%); lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN 350 vụ (tăng 3,2%). Năm 1998, khởi tố 3546 vụ án kinh tế (giảm 8,1% so với năm 1997), trong đó tham ô 534 vụ, lừa đảo 217 vụ, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN 284 vụ. Năm 1999, khởi tố 3016 vụ án kinh tế (giảm 15,% so với năm 1998), trong đó: tham ô 465 vụ; lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN 169 vụ...
Chưa có tham nhũng chính trị ở Việt Nam với những biểu hiện như đầu cơ chính trị, buôn bán chức quyền trong bộ máy cơ quan nhà nước ... vì thế tham nhũng chưa xâm hại đến sự tồn tại của chế độ đến nền độc lập và chủ quyền quốc gia của dân tộc. Đồng thời tham nhũng ở Việt Nam chưa có nguy cơ gây khủng hoảng nền kinh tế, chính trị và xã hội.
Việt Nam đánh giá tham nhũng thường theo quan điểm của cơ quan điều tra, thường lấy số lượng các vụ án kinh tế để chứng minh nạn tham nhũng. Do vậy, những con số về thiệt hại do tham nhũng của các cơ quan có trách nhiệm chưa đúng với bản chất của tham nhũng nên cách nhìn nhận và đánh giá đó chưa chuẩn xác vì: các bị can, bị cáo về kinh tế, không phải tất cả họ đều bị xét xử về tội tham nhũng mà phần nhiều họ bị chịu trách nhiệm về hành vi thiếu trách nhiệm hoặc cố ý làm trái... những tội phạm không có động cơ vụ lợi hoặc không do lợi dụng chức vụ quyền hạn để vụ lợi. Các cán bộ bị kỷ luật hành chính liên quan đến các vụ án cũng là do phải chịu trách nhiệm về hành vi quản lý (chủ quan, buông lỏng quản lý, năng lực quản lý yếu kém mà thực chất là quan liêu) chứ không phải do hành vi tham nhũng. Chẳng hạn: Những vụ án gần đây như Tân Trường Sanh, Minh Phụng - EPCO... trừ một số cán bộ cấp phòng, sở, cục của hai ngành Hải quan và Ngân hàng bị truy tố về các tội tham nhũng còn đa phần các cán bộ khác, kể cả những cán bộ chủ chốt của hai ngành đó chỉ bị xử lý về trách nhiệm quản lý, dễ dãi trong quan hệ, chứ không phải tham nhũng. Hoặc trong vụ án được coi lớn nhất trong lịch sử tư pháp Việt Nam vừa được xét xử tại Thành phố Hồ Chí Minh–Vụ án Trương Văn Cam và đồng bọn có liên quan đến rất nhiều quan chức trong ngành tư pháp từ trung ương đến địa phương, nhưng tài sản có được do tham nhũng không nhiều (vài chục ngàn đô la và những bữa nhậu nhẹt tại các nhà hàng sang trọng cho mỗi quan chức) và có nhiều quan chức chỉ bị truy cứu trách nhiệm về hành vi thiếu trách nhiệm trong quản lý mà không bị truy cứu trách nhiệm về các hành vi tham nhũng mà điển hình là bị cáo Bùi Quốc Huy, nguyên Giám đốc công an Thành phố Hồ Chí Minh, nguyên thứ trưởng Bộ Công an, nguyên UVBCHTƯĐ... Cũng cần phải nói thêm là, số tài sản bị thất thoát trong các vụ án kinh tế không phải đều là tài sản bị tham nhũng mà phần nhiều là do làm ăn thua lỗ hoặc là hậu quả của phương thức làm ăn sai lầm của các doanh nghiệp.
2.3.2 Tham nhũng ở nước ta chưa có các tổ chức theo kiểu Maphia
Theo cách hiểu thông thường của các quốc gia và tổ chức quốc tế về đấu tranh chống tội phạm thì Maphia là những băng nhóm phạm tội có tổ chức chặt chẽ, có sự phân công phối hợp khi hành động phạm tội, đồng thời việc thực hiện tội phạm mang tính chất chuyên nghiệp và có sự tham gia cấu kết của các quan chức chính phủ. Diễn giải theo công thức thì Maphia = Tội phạm có tổ chức + sự cấu kết của quan chức chính phủ. Ở những nước khác, tham nhũng không còn chỉ là những hiện tượng đơn lẻ của cá nhân các quan chức mà đã thành một đường dây với sự tham gia của hệ thống quan chức các cấp, các ngành cùng với sự chỉ đạo, bày mưu, tính kế của các quan chức cấp cao trong bộ máy nhà nước kể cả những người đứng đầu chính phủ, đứng đầu nhà nước. Vì thế, các hoạt động tội phạm được thực hiện thống nhất, trắng trợn chiếm đoạt tài sản công, bòn rút tiền viện trợ, giao cho con cháu, họ hàng thân thích quản lý những tập đoàn kinh tế lớn với các ưu đãi đặc biệt trong hoạt động kinh tế. Điều tồi tệ hơn là những hành vi tham nhũng đó của các quan chức được sự hỗ trợ của các băng nhóm xã hội đen để gây áp lực với đối thủ, giết người để bịt đầu mối hoặc thực hiện những tội ác man rợ khác... Chúng ta đã biết nhiều đến Maphia Italia với mẫu hình này và hiện đang nổi lên Maphia của Nga trong thời Boris Ensin và hiện nay....
Trên cơ sở quan niệm này đối chiếu với thực trạng của tình hình tham nhũng ở Việt Nam thời gian qua thì ở nước ta chưa có tham nhũng theo kiểu Maphia vì: Những năm qua chúng ta chưa xử lý (hoặc chưa phát hiện được) những cán bộ cao cấp của Đảng và nhà nước về hành vi tham nhũng, nhất là những cán bộ giữ các vị trí chủ chốt trong các cơ quan Đảng, Quốc hội, Chính phủ mà chúng ta mới chỉ phát hiện và xử lý một số cán bộ trong các ngành Hải quan, Ngân hàng, Công an, Viện Kiểm sát... nhưng họ chỉ là những cán bộ sơ, trung cấp. Chúng ta cũng kỷ luật về Đảng và chính quyền một số cán bộ cao cấp nhưng phần lớn những người đó không phải bị chịu trách nhiệm về tham nhũng mà họ chỉ phải chịu trách nhiệm về công tác quản lý mà họ không hoàn thành hoặc chủ quan, lơi lỏng mất cảnh giác trong khi thực thi nhiệm vụ. Điều quan trọng hơn để khẳng định ở nước ta chưa có tham nhũng theo kiểu Maphia là những cán bộ bị xử lý về tham nhũng đều không phải là những người chủ động, bày mưu tính kế, đều không phải là những người tổ chức, chỉ huy, cầm đầu trong các vụ án mà chỉ là những kẻ tha hoá, biến chất, đồng loã, bị những kẻ phạm tội từng bước lôi kéo vào làm vai trò giúp sức cho chúng. Vụ án Trương Văn Cam và đồng bọn mặc dù là vụ án lớn, có nhiều quan chức tham gia nhưng tất cả họ đều chỉ là những người bị Trương Văn Cam lôi kéo, lợi dụng từ Dương Minh Ngọc, Nguyễn Mạnh Trung đến Trần Mai Hạnh, Phạm Sỹ Chiến, Bùi Quốc Huy... không một ai trong số họ là người chủ động tham gia băng nhóm tội phạm này.
2.3.3 Tham nhũng mang tính phổ biến, nhỏ nhặt xảy ra ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội
Tham nhũng bao trùm tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, ở mọi cấp mọi ngành, ở đâu người ta cũng thấy có tham nhũng và không có tiền lót tay sẽ không giải quyết được công việc, ngay cả khi đã đầy đủ các điều kiện và thủ tục pháp luật qui định. Nạn quà cáp biếu xén khi đến cửa quan đã trở thành “tập quán”, phong tục trong xã hội ta. Chúng ta có thể gặp hiện tượng này ở bất kỳ đâu nơi có hoạt động công quyền, chẳng hạn như đến UBND xã, phường làm giấy khai sinh cho con, chứng nhận giấy tờ... cũng phải có quà cho cán bộ, vào cơ quan cũng phải xu nịnh bảo vệ... Đặc điểm này đã gây nhức nhối, làm băng hoại đạo đức của cán bộ công quyền, đe doạ sự tồn tại của nhà nước, sự bền vững của chế độ và sự lãnh đạo của Đảng.
Tham nhũng không chỉ xảy ra ở cơ quan hành pháp mà còn xảy ra nhiều ở cơ quan thanh tra, kiểm tra, cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Toà án, thi hành án). Sự tham nhũng ở các cơ quan này đã làm cho vi phạm và tội phạm không bị phát hiện hoặc không được xử lý, bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội với những hậu quả vô cùng nặng nề. Sau khi có Nghị Quyết 08 của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp, trong báo cáo của ngành Toà án năm 2002 đã công khai những trường hợp làm oan người vô tội (những người các cấp xét xử của toà án tuyên không phạm tội), tổng số 58 trong đó: Sơ thẩm cấp huyện 27 người; sơ thẩm cấp tỉnh 28 người; phúc thẩm cấp tỉnh 4 người, phúc thẩm tối cao 12 người; giám đốc thẩm cấp tỉnh 3 người; giám đốc thẩm cấp tối cao 4 người[2]. Đó là chưa kể các quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì lý do không có tội của cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát.
Tham nhũng xảy ra trong một bộ phận cán bộ quân đội, nhất là số làm kinh tế, phụ trách tài chính - hậu cần có trách nhiệm cấp phát trang, thiết bị cho Quân đội. Đây là lĩnh vực tương đối khép kín, các cơ quan chuyên trách kiểm tra, thanh tra của nhà nước không vào được do đặc điểm bí mật quân sự.
Ở nước ta khi chuyển sang cơ chế thị trường có một dạng tham nhũng đặc thù là một số kẻ lợi dụng các quan hệ với các quan chức để mưu lợi riêng, như chạy thầu, chạy vốn, chạy dự án cho nhà đầu tư, cho doanh nghiệp, chạy chức quyền cho người cơ hội, dùng tiền để phân hoá, gây mất đoàn kết nội bộ cơ quan.
Tham nhũng trong một bộ phận làm báo chí (phóng viên, biên tập viên, người có trách nhiệm của các báo và quản lý hoạt động báo chí). Do tư lợi mà những người này dùng báo chí để doạ dẫm, vòi vĩnh doanh nghiệp và quan chức, dùng báo chí để phục vụ mưu đồ của người này, người kia, muốn hại ai thì dùng tiền để đưa lên báo chí gây rối xã hội.
Tham nhũng đã xuất hiện trong đông đảo cán bộ cấp cơ sở, những “quan lại” mới ở nông thôn bớt xén tiền do dân đóng góp, tiền từ đầu tư của nhà nước, tiền thuế, tiền viện trợ nhân đạo của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước.
Tham nhũng mang tính phổ biến, nhỏ nhặt là đặc điểm quan trọng nhất của nạn tham nhũng ở nước ta và cũng chính nó làm cho tham nhũng trở nên trầm trọng. Thực trạng này rất nguy hiểm không những nó làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào chế độ ta, phá hoại sự nghiệp xây dựng và phát triển của đất nước mà còn làm băng hoại đạo đức xã hội, phá hoại các giá trị truyền thống văn hoá của dân tộc - vốn là nguồn sức mạnh của dân tộc ta từ trước đến nay.
CHƯƠNG III : MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐẤU TRANH VÀ PHÒNG CHỐNG
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều biện pháp đấu tranh chống tham nhũng. Các ngành, các cấp cũng có nhiều cố hắng và đã thu được một số kết quả nhất định. Song, so với yêu cầu vẫn còn nhiều hạn chế. Để có thể đẩy lùi và tiến tới bài trừ được tệ nạn tham nhũng, cần có những biện pháp đồng bộ.
Một số vũ khí quan trọng chống lại tham nhũng đó là việc thúc đẩy sự công khai và minh bạch trong hoạt động kinh doanh thông qua việc hạch toán sổ sách, kiểm soát nội bộ và kiểm toán độc lập bên ngoài.
3.1 Tiếp Tục Hoàn Thiện Cơ Chế Quản Lý
Trong quá trình chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu sang cơ chế thị trường, hệ thống pháp lý nước ta còn nhiều sơ hở. Những qui định cũ không con phù hợp, những qui định mới chưa được ban hành dẫn đến tình trạn các văn bản pháp luật vừa thừa lại vừa thiếu và không đồng bộ. Đó là môi trường thuận lợi cho tệ tham nhũng phát sinh và phát triển. Trong thời gian tới, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật, tạo ra một hành lang pháp lý vừa thúc đẩy được quá trình phát triển kinh tế - xã hội, vừa thiết lập được kỷ cương trong các lĩnh vực quản lý. Trước mắt, cần đặt trọng tâm vào các lĩnh vực: cấp phép, xây dựng cơ bản, kế hoạch thống kê, quản lý các doanh nghiệp nhà nước, phân cấp ngân sách, kinh doanh ngân hàng.
3.2 Đổi Mới Công Tác Cán Bộ
Trong suốt một thời kỳ dài, công tác cán bộ của ta có nhiều điểm yếu kém, tùy tiện dẫn đến tình trạng một bộ phận cán bộ còn non kém về nghiệp vụ, sa sút về phẩm chất lại được giữa những cương vị trực tiếp quản lý tài sản của Nhà nước và nhân dân, thậm chí giữ những cương vị trọng trách của một số ngành, một số địa phương. Đây vừa là nguyên nhân của tệ tham nhũng, vừa là khâu yếu nhất, nhạy cảm nhất của cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Đổi mới công tác cán bộ phải bao gồm từ khâu đào tạo, tuyển chọn, bồi dưỡng, đánh giá và quản lý cán bộ đến khâu phân công, phân nhiệm rõ ràng cho từng vị trí công tác.
3.3 Tăng Cường Và Đổi Mới Sự Lãnh Đạo Của Các Cấp Ủy Đảng
Thời gian qua, ở nhiều nơi, sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với cuộc đấu tranh chống tham nhũng chưa đạt hiệu quả cao, chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa kiểm tra kỷ luật đảng với hoạt động kiểm tra, thanh tra của Nhà nước. Việc xem xét, xử lý đối với đảng viên có sai phạm chưa nghiêm minh, thậm chí có nơi còn né tránh, bao che cho người vi phạm. Ở một số nơi, cấp ủy đảng còn đứng ngoại cuộc, bàng quan với việc chống tham nhũng hoặc ở một số nơi khác, cấp ủy đảng lại can thiệp trái pháp luật vào hoạt động điều tra, thanh tra của cơ quan có thẩm quyền. Vì vậy, sự lãnh đạo của cấp ủy đảng đối với cuộc đấu tranh chống tham nhũng cần phải được tăng cường và đổi mới cả về phương thức lẫn nội dung. Sự lãnh đạo của Đảng phải cụ thể, sâu sát, thiết thực đối với quá trình xử lý từng vụ việc trên cơ sở các qui định của pháp luật. Cần phát huy tinh thần dân chủ và công khai trong sinh hoạt Đảng. Cần có biện pháp xử lý kỷ luật đối với đảng viên có hành vi tham nhũng phải kịp thời, nghiêm minh.
3.4 Phối Hợp Giữa Các Cơ Quan Bảo Vệ Pháp Luật Trong Cuộc Đấu Tranh Chống Tham Nhũng.
Hiện nay, hoạt động chống tham nhũng của các cơ quan bảo vệ pháp luật còn thiếu sự phối hợp thống nhất. Thậm chí, giữa một số ngành như Kiểm sát, Thanh tra, Công an còn có sự chống chéo lẫn nhau, làm giảm đáng kể hiệu quả công tác chống tham nhũng. Trong khi các qui định của pháp luật chưa thật sự đồng bộ, chặt chẽ thì sự phối hợp giữa các cơ quan này là hết sức cần thiết. Một mặt, cần có những văn bản phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan, mặt khác cần có một cơ chế thống nhất giữa các cơ quan trong việc điều tra, xử lý những vụ việc tham nhũng. Trước mắt, cần khắc phục ngay tình trạng chống chéo, mâu thuẫn trong hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật, khai thông sự chậm chễ, ách tắc trong quá trình di lý hồ sơ, chuyển giai đoạn.
3.5 Tích Cực Vào Cuộc Đấu Tranh Chống Tham Nhũng
Kinh nghiệm của nước ta cũng như của các nước khác cho thấy: những chiến dịch chống tham nhũng thành công nhất chính là những chiến dịch sự tham gia đông đảo của nhân dân. Trên thực tế, gần 70% số đơn thư, tố cáo của nhân dân là đúng sự thật. Do đó, cần tăng cường công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Biết dựa vào dân, phát huy dân chủ, công khai hóa kết quả xử lý những vụ việc do nhân dân phát hiện. Kiên quyết xử lý nghiêm minh những hành vi trù dập người tố cáo.
Tham nhũng là một tệ nạn không chỉ có ở riêng một chế độ nào, một quốc gia nào, mà ở đầu quyền lực không được kiểm tra, giám sát thì ở đó phát sinh tệ tham nhũng. Chống tham nhũng vừa là nhiệm vụ cấp bách, thường xuyên vừa là nhiệm vụ lâu dài. Nó đòi hỏi sự cố gắng của nhiều ngành, nhiều cấp, những chương trình, kế hoạch đồng bộ, với sự nghiên cứu nghiêm túc và toàn diện. Qua sự phân tích thực trạng tham nhũng hiện nay, bài viết này chỉ xin nêu vài biện pháp cụ thể nhằm tăng cường hiệu quả của công tác chống tham nhũng trong thời gian trước mắt.
3.6 Hạch Toán Sổ Sách Chính Xác
Yêu cầu các doanh nghiệp hạch toán sổ sách chính xác và phản ánh trung thực các giao dịch tài chính một cách chi tiết sẽ giúp hạn chế các vấn đề về hạch toán có liên quan đến các giao dịch bất hợp lệ.
3.7 Kiểm Toán Nội Bộ Hiệu Quả
. Kiểm soát nội bộ là việc áp dụng các quy trình và kỹ thuật để bảo vệ tài sản của doanh nghiệp và bảo đảm độ tin cậy của các dữ liệu tài chính của doanh nghiệp đó. Mục đích chính của việc áp dụng các kỹ thuật này là để kiểm soát quy trình thực hiện các giao dịch.
3.8 Kiểm Toán Độc Lập
Mục đích tổng quát của kiểm toán độc lập là cung cấp sự đảm bảo cho bên thứ ba là những người sử dụng các thông tin tài chính rằng các thông tin họ được cung cấp có trung thực, hợp lý hay không từ đó phát hiện ra các sai phạm của doanh nghiệp .
PHỤ LỤC
Theo Từ điển bách khoa thư Wikipedia: dẫn theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International - TI)
Trong Pháp lệnh chống tham nhũng, tại Chương I, Điều 1
Trong khoản 2, Điều 1 của Luật Phòng
Bộ luật hình sự số 15/1999/qh10 - chương xxi: các tội phạm về chức vụ ( Link :
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Wikipedia tham nhũng
Website : vietlaw.gov.vn, chungta.vn
3- Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (phần chung) - TS. KH Lê Cảm (chủ biên) - NXB ĐHQG.
4-. Bộ luật Hình sự nước CHXHCN Việt Nam 1999 - NXB CTQG
5-. Tạp chí Pháp lý (số 11/2004 - số 1 và 2/2005)
6- Tạp chí điện tử Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ (tập 3 - số 5)
7-. Đỗ Ngọc Quang "Tìm hiểu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về tham nhũng trong Luật Hình sự Việt Nam" - NXB Công an nhân dân Hà Nội 1997.
8- International Review of Criminal Policy, No 41, A/ Conf, 169/14; 1995, 13 April
9- HCM toàn tập, NXB Sự thật
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TLHCM Updated_Mar29_2.doc