Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận chính trị với việc nâng cao chất lượng đào tạo trung cấp lý luận chính trị ở Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng

Tính khoa học phải được thể hiện ở sự mô tả hiện thực một cách khách quan cùng với những nguyên nhân của nó, tránh “tô hồng” hoặc “bôi đen” hiện thực. Đảm bảo tính Đảng, tính khoa học sẽ góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục lý luận chính trị của Đảng. Đối với người được giáo dục lý luận chính trị, đòi hỏi họ phải nắm chắc được bản chất cách mạng và khoa học của lý luận và biết “soi” lý luận vào thực tiễn công tác của mình; từ đó đúc rút vấn đề cơ bản, chủ yếu vận dụng vào hoạt động thực tiễn cũng như củng cố quan điểm lập trường, đạo đức cách mạng. Bởi vậy, người học lý luận phải nhận rõ: Không phải học để thuộc lòng từng câu từng chữ, đem kinh nghiệm của các nước anh em áp dụng một cách máy móc. Nhưng chúng ta phải học chủ nghĩa MácLênin để phân tích và giải quyết các vấn đề cụ thể của cách mạng nước ta, cho hợp với điều kiện đặc biệt của nước ta.

pdf99 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2184 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận chính trị với việc nâng cao chất lượng đào tạo trung cấp lý luận chính trị ở Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u cầu của học viên. Nội dung học tập liên quan thiết thực đến cuộc sống và công việc của học viên. + Giảng viên hướng dẫn quá trình học tập thông qua việc trao đổi, chia sẻ để phát huy các kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng của học viên. + Kiến thức tiếp nhận được từ nhiều hướng, đa chiều: từ giảng viên đối với học viên; học viên với giảng viên; học viên với học viên; trong đó học viên là trung tâm. + Giảng viên cùng với học viên luyện tập nâng cao kiến thức, kỹ năng để áp dụng vào cuộc sống và công việc. + Không khí học tập thường là sôi nổi, cởi mở thông qua phương pháp thảo luận và cùng làm việc thông qua nhóm. + Đánh giá kết quả học tập bằng cách quan sát, trắc nghiệm những thay đổi trong kiến thức, thái độ và cách cư xử của học viên. Thực hiện phương pháp cùng tham gia có những ưu điểm: + Học viên sẽ học những gì họ cần; + Học viên chủ động tham gia vào tiến trình học tập; + Hướng trao đổi thông tin đa chiều buộc mọi người học đều phải cùng suy nghĩ và có thể giúp đỡ, chia sẻ và học tập lẫn nhau; + Học viên cảm thấy kiến thức và kỹ năng của họ được tôn trọng nên tự tin hơn nên sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau; + Học viên được luyện tập nhiều kỹ năng; + Tất cả học viên đều cảm thấy bình đẳng. Học viên chủ động giải quyết vấn đề. Tuy nhiên, quá trình thực hiện phương pháp giảng dạy cùng tham gia cũng bộc lộ một số nhược điểm: + Thiếu tính hệ thống vì chỉ tập trung vào những gì học viên cần học; + Câu hỏi mở, các cuộc trao đổi có thể sẽ không có câu trả lời chuẩn; + Học viên khó ghi chép ý chính vì trong quá trình học tập họ luôn tập trung vào suy nghĩ, bàn bạc và trao đổi. Những hình thức phổ biến thường sử dụng trong phương pháp cùng tham gia: + Giảng viên thuyết trình: trình bày nội dung bài giảng, các tài liệu một cách trực tiếp và lôgíc; + Giảng viên thuyết trình kết hợp với thảo luận của cả lớp; + Thảo luận nhóm, tổ hay cả lớp theo những chủ đề; + Bài tập đóng vai...; Để vận dụng, thực hiện phương pháp giảng dạy cùng tham gia, giảng viên đảm bảo các yêu cầu sau đây: + Giảng viên phải chuẩn bị thật kỹ kế hoạch bài giảng; + Biết quản lý thời gian, quản lý lớp học, bố trí không gian và phương tiện học tập có kết quả; + Phải biết hướng dẫn, định hướng học viên tự khám phá tri thức, khai thác các giải pháp mới thay cho việc cung cấp các giải pháp sẵn có; + Luôn ở thế chủ động, sẵn sàng ứng xử mọi tình huống học viên đặt ra; + Trao đổi các kỹ năng cần có: kỹ năng trình bày; kỹ năng giao tiếp, ứng xử; kỹ năng đặt câu hỏi; kỹ năng xử lý các thông tin trong lớp; kỹ năng sử dụng linh hoạt, có hiệu quả các phương pháp và phương tiện giảng dạy; kỹ năng viết, vẽ, sử dụng đồ họa,.. + Tôn trọng học viên về mọi mặt để mọi người đặt ra các câu hỏi và trả lời câu hỏi của giảng viên hoặc của đồng nghiệp; + Cho phép có sự đối thoại các ý kiến giữa các học viên với học viên và giữa học viên với giảng viên, từ đó tự tìm ra chân lý và tự chấp nhận cái mới. Phương pháp giảng dạy cùng tham gia là phương pháp giảng dạy lấy người học làm trung tâm. ở đây, giảng viên đóng vai trò là nguồn thông tin chính nhưng cũng là người định hướng, tham gia, thúc đẩy quá trình học tập của học viên. Bài học được sử dụng chủ yếu để phân tích, tìm hiểu những kiến thức cơ bản và thực hành các kỹ năng đòi hỏi tư duy cao như: phân tích vấn đề, tranh luận, áp dụng, sáng tạo và ra quyết định. Những kiến thức thông thường như là dữ kiện, học viên tự học từ bài giảng, tài liệu hoặc các nguồn thông tin khác. * Phương pháp nghiên cứu tình huống: Đây là một phương pháp rất thích hợp với học viên trường Chính trị là những cán bộ, đảng viên đang công tác ở địa phương, cơ quan trong hệ thống chính trị. Chính ở những nơi đó thường xuất hiện nhiều vấn đề phát sinh trong thực tiễn công tác đòi hỏi người cán bộ, đảng viên cần giải quyết đúng đắn và phù hợp. Từ một số tình huống có sẵn, giảng viên nêu ra để mỗi học viên đề xuất cách giải quyết vấn đề. Người giảng viên có trách nhiệm định hướng, phân tích, nêu một số cách giải quyết, xử lý. Nguồn tư liệu “tình huống” được thu nhập từ các đợt đi thực tế hoặc nghỉ hè, sưu tầm những tình huống có vấn đề tại địa phương hoặc nơi mình công tác. Những tình huống có thể sử dụng phục vụ được giảng dạy có thể biên tập, hoàn chỉnh trở thành tài liệu tham khảo. Tóm lại, cải tiến và đổi mới phương pháp giảng dạy lý luận chính trị là một quá trình liên tục tìm tòi, thử nghiệm và khẳng định. Trong quá trình đó, lại luôn xuất hiện những đòi hỏi mới, yêu cầu mới, điều kiện mới. Do đó, việc đổi mới phương pháp giáo dục lý luận chính trị tại Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng không được tuyệt đối hóa hay tự thoả mãn với những phương pháp giảng dạy đang sử dụng. 2.2.2.5. Đổi mới phương pháp giảng dạy gắn liền với tăng cường và đổi mới chất lượng đội ngũ giảng viên Tăng cường và đổi mới đội ngũ giảng viên tập trung vào những nội dung: đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm; nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận, kiên định lập trường cách mạng và bản lĩnh chính trị. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục lý luận nói chung, giáo dục chương trình trung cấp lý luận chính trị nói riêng, cần phải có một đội ngũ giảng viên lý luận chính trị đủ về số lượng và đảm bảo chất lượng cao. Một nguyên lý mà ai cũng biết là muốn có học trò giỏi, thì trước hết phải có thầy giỏi, người thầy quyết định chất lượng đào tạo của nhà trường. Nâng cao chất lượng giảng viên, một mặt nhằm đáp ứng yêu cầu của việc nâng cao tính khoa học, tính chiến đấu trong giảng dạy và yêu cầu của việc cải tiến, đổi mới phưong pháp giảng dạy, xây dựng phong cách suy nghĩ khoa học và độc lập của người học, lấy học là trung tâm của công tác đào tạo. Hơn nữa, trước sự phát triển của thời đại, trình độ của học viên ngày càng được nâng lên, do vậy, người dạy cũng phải không ngừng cao hơn về trình độ hiểu biết và khả năng truyền thụ kiến thức phù hợp với từng đối tượng học viên cụ thể. Song, đối với giảng viên trường Chính trị, thì đòi hỏi trước tiên phải là người có tính đảng cao, Là người chiến sĩ của Đảng trên mặt trận tư tưởng. Lẽ sống của người giảng viên là hết lòng truyền bá thế giới quan Mác - Lênin và đường lối, quan điểm của Đảng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, đấu tranh không khoan nhượng với những tư tưởng sai lầm, phản động và những biểu hiện tiêu cực trong lối sống. Việc bảo vệ và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm của Đảng vào quần chúng vừa là nghĩa vụ vừa là vinh dự của người giảng viên. Tính đảng ấy đòi hỏi người giảng viên phải có lòng trung thực đối với đường lối và quan điểm của Đảng, phải có phẩm chất chính trị và tư cách trong sáng. Thái độ ba phải, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh, hay thái độ thờ ơ về chính trị, bàng quan trước những hiện tượng tiêu cực trong cuộc sống, v.v. đều là những cái xa lạ đối với phẩm chất của người giảng viên lý luận chính trị. Những người như thế không thể có chổ đứng trong đội ngũ giảng viên của Đảng [68, tr.234]. Người giảng viên lý luận chính trị phải có vốn sống phong phú, hiểu biết nhiều về đời sống xã hội. “Không có vốn sống, không có hiểu biết về đời sống xã hội thì người giảng viên không thể thực hiện tốt phương châm lý luận liên hệ với thực tiễn, không thể gợi ý cho người học suy nghĩ giải quyết các vấn đề của thực tiễn” [68, tr.235]. Một trong những hạn chế của giảng viên là tích luỹ vốn sống thực tiễn còn quá ít, nhiều đồng chí chưa trải qua quá trình công tác ở các cơ quan, đơn vị, các cấp vốn xuất thân từ gia đình cán bộ, thương binh liệt sĩ được đào tạo từ các trường Đảng tỉnh, khu vực, lại thiếu chương trình đi nghiên cứu thực tế cơ sở dẫn đến giảng suông, giảng chay, liên hệ thực tiễn một cách máy móc, một chiều, ít sức thuyết phục học viên. Điều đó hạn chế đến việc định hướng và hướng dẫn học viên liên hệ lý luận và thực tiễn một cách đúng đắn và phù hợp, nâng cao trình độ nhận thức và khả năng tư duy khoa học, biện chứng cũng như kỹ năng vận dụng đưa nguyên lý lý luận vào thực tiễn cuộc sống. Đó chính là con đường tốt nhất để người học viên trưởng thành, là mục đích của việc học tập lý luận chính trị. Nên tránh việc diễn đạt lý luận quá trừu tượng, chung chung, dài dòng, khó hiểu cũng như quá sa đà vào những câu chuyện kể thực tế mang nội dung như là một báo cáo thực tế - nghe qua thường hấp dẫn nhưng sau giờ học là một khoảng trống về lý luận, ít đọng lại cho người học lượng tri thức khoa học mới. Người giảng viên lý luận chính trị phải có sự hiểu biết sâu sắc và cơ bản đạt trình độ nhuần nhuyễn về lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đồng thời cần có kiến thức khoa học cơ bản và khoa học bổ trợ. Song song theo đó người giảng viên phải không ngừng thường xuyên trao dồi nhằm nâng cao kỹ năng sư phạm, bởi một giảng viên giảng chính trị tốt không thể không có kỹ năng sư phạm, nhất là những vấn đề thuộc về nghiệp vụ giảng dạy như: soạn bài giảng, sử dụng ngôn ngữ và phương pháp giảng dạy, sử dụng phương tiện trực quan. Bên cạnh, người giảng viên phải là tấm gương về đạo đức cách mạng, sự chân thành, trung thực, khiêm tốn, quý mến học viên; cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư như Bác Hồ đã dạy; say mê với công việc giảng dạy, lao động không biết mệt mỏi cho sự nghiệp giáo dục của Đảng. Việc nâng cao chất lượng giảng viên, vừa nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng đào tạo giáo dục lý luận chính trị, nâng cao tính chiến đấu, tính khoa học trong giảng dạy; vừa là đáp ứng trình độ hiểu biết ngày càng nâng cao của người học. Tóm lại, người giảng viên lý luận chính trị, nhất là giảng viên trường Chính trị đòi hỏi phải có phẩm chất chính trị như một chiến sĩ cộng sản rất mực trung thành với lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều đó thể hiện ở sự nhạy cảm với tình hình chính trị, sắc sảo trong sự phân tích khoa học đối với những hiện tượng chính trị xã hội mới xuất hiện trong đời sống hàng ngày trong nước và quốc tế, để có định hướng đúng cho mình cũng như truyền đạt cho học viên trong mọi tình huống phức tạp của cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận hiện nay. Mặc dù số lượng giảng viên của Trường còn thiếu nghiêm trọng nhưng thời gian qua Ban giám hiệu rất quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ giảng viên; ngoài việc cử bình quân hàng năm từ 08 đến 10 lượt cán bộ, giảng viên dự các lớp bồi dưỡng, tập huấn do Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và Học viện Hành chính Quốc gia tổ chức, nhà trường còn cử giảng viên theo học lớp đào tạo tập trung và tại chức theo hệ cao học và đại học chuyên ngành. Tuy nhiên, so với yêu cầu đặt ra thì hiện nay Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng, còn thiếu nghiêm trọng về số lượng giảng viên, phần lớn giảng viên hiện hữu đã lớn tuổi, chưa được đào tạo, bồi dưỡng có hệ thống về nghiệp vụ sư phạm; đồng thời, chưa đồng bộ về chuyên ngành đào tạo. Để khắc phục tình trạng này, cần thực hiện một số giải pháp sau: - Thứ nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho số giảng viên lớn tuổi được dự các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên ngành và nghiệp vụ chuyên môn ở các cơ sở đào tạo ở trung ương, kể cả được đi học tập, nghiên cứu kinh nghiệm thực tế ở nước ngoài, để cho đội ngũ này làm tốt vai trò nòng cốt trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học ở nhà trường. - Thứ hai, đối với số giảng viên còn trẻ tuổi, tạo điều kiện cho họ có nhiều thời gian đi công tác, học tập thực tế ở cơ sở. Có kế hoạch bố trí một số giảng viên trẻ có điều kiện và triển vọng xuống cơ sở công tác có thời hạn (từ 02 - 03 năm) để quy hoạch đào tạo lâu dài, tạo nguồn bổ sung đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của nhà trường. Đối với những giảng viên có triển vọng, cần được đào tạo ở trình độ cao hơn nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trong tình hình mới. - Thứ ba, bên cạnh việc đảm bảo giảng dạy cần tăng cường đưa giảng viên đi xâm nhập thực tế, với yêu cầu nội dung, thời gian cụ thể, thực tế; đồng thời, tăng cường tham gia các công trình nghiên cứu cụ thể trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội - xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở nhằm bổ sung kiến thức thực tiễn phục vụ giảng dạy và đóng góp cho công tác chỉ đạo, lãnh đạo của Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh. - Thứ tư, mạnh dạn tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo từ những sinh viên đã tốt nghiệp Đại học hay Cao đẳng các chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn (hay các chuyên ngành gần với các môn học đo trường Chính trị tỉnh đảm trách) để bổ sung thêm đội ngũ giảng viên và cán bộ cho nhà trường đủ về số lượng và đồng bộ về chuyên ngành đào tạo cho các Khoa của Trường đủ sức hoàn thành nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng ngày càng lớn của nhà trường những năm tới. Điều quan trọng cần phải có chế độ chính sách đãi ngộ hợp lý, căn cơ, lâu dài để thực hiện các biện pháp trên, tránh lúc này lúc khác, người này người khác thực hiên khác nhau. - Thứ năm, xây dựng đội ngũ giảng viên kiêm chức là những đồng chí lãnh đạo tỉnh, lãnh đạo và các chuyên gia trong ban ngành đoàn thể của tỉnh, có khả năng và điều kiện tham gia giảng dạy chuyên sâu ở những bài, chuyên đề thuộc lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ cụ thể. Đây không phải là biện pháp tạm thời, đáp ứng yêu cầu cấp bách trước mắt mà là biện pháp lâu dài để phát huy trí tuệ và sử dụng mọi tài năng giảng dạy trong tỉnh cho trường Chính trị. 2.2.2.6. Đổi mới phương pháp giáo dục gắn liền đổi mới và nâng cao chất lượng công tác quản lý học viên Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác quản lý học viên trên cơ sở phát huy tính tự giác học tập và rèn luyện của học viên Cải tiến và nâng cao chất lượng công tác tuyển sinh đầu vào. Chất lượng tuyển sinh đầu vào có ảnh hưởng đến việc thực hiện các khâu trong quy trình đào tạo, đến kết quả học tập của học viên và chất lượng đào tạo của nhà trường. Do đó, cần phải cải tiến và nâng cao chất lượng tuyển sinh đầu vào, bảo đảm thực chất những tiêu chuẩn quy định cho từng loại lớp. Qua kết quả điều tra xã hội học cho thấy khi trả lời câu hỏi: Trong điều kiện hiện nay, nên chọn phương thức tuyển sinh nào trong 3 phương thức sau đây: chiêu sinh như hiện nay; cử tuyển theo yêu cầu của địa phương; và thi tuyển đầu vào theo tiêu chuẩn quy định. Được trả lời như sau: - Đối với 98 phiếu dành cho cơ quan, đơn vị sử dụng cán bộ, thì có: 38 phiếu đồng ý theo phương thức chiêu sinh theo tiêu chuẩn như hiện nay; 45 phiếu đồng ý phương thức cử tuyển theo yêu cầu của địa phương; 15 phiếu đề nghị phải qua thi tuyển đầu vào theo tiêu chuẩn quy định. - Đối với 389 phiếu dành cho những học viên đã ra trường, thì có các chỉ số tương ứng là: 141 phiếu, 182 phiếu và 66 phiếu. - Đối với 93 phiếu dành cho số học viên hệ trung cấp chính trị đang học tại trường, cũng có các chỉ số tương ứng như sau: 31 phiếu, 37 phiếu và 25 phiếu. Với kết quả trên cho thấy mặc dù đa số ý kiến cho rằng khi tuyển sinh nên chọn phương thức "Cử tuyển theo yêu cầu của địa phương, đơn vị" (45/98; 182/389; 37/93). Nhưng thiết nghĩ, trong những năm trước mắt, cần kết hợp cả 2 phương thức: chiêu sinh theo tiêu chuẩn như hiện nay kết hợp với kiểm tra chất lượng đầu vào sẽ hợp lý hơn, vì: thông qua chiêu sinh sẽ tạo thuận lợi cho các địa phương, đơn vị chủ động chọn cử cán bộ đi học theo quy hoạch; còn kiểm tra chất lượng để đánh giá thực chất trình độ học viên trứơc khi vào học để có những biện pháp quản lý chất lượng học tập tốt hơn. Tuy nhiên, nếu qua kiểm tra mà trình độ học viên quá yếu, thì mạnh dạn không tiếp nhận vào lớp học và trả về địa phương. Đó là phương án cho những năm trước mắt, còn về lâu dài, nhất thiết phải thi tuyển đầu vào một cách nghiêm túc. Chỉ có vậy mới nâng cao trách nhiệm của địa phương, của đội ngũ cán bộ, công chức đối với nghĩa vụ học tập, và mới bảo đảm chất lượng đào tạo của nhà trường. Cải tiến hình thức, nội dung xêmina, ôn tập, kiểm tra, thi và đánh giá kết quả học tập, chất lượng học viên ra trường. Đây là những khâu học tập rất quan trọng trong quy trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên, nhất là trong chương trình đào tạo trung cấp chính trị. Nó phản ánh tương đối chính xác trình độ nhận thức, khả năng vận dụng lý luận của từng học viên. Tuy nhiên, để đạt được yêu cầu này, việc đưa ra nội dung thảo luận, nội dung ôn tập, kiểm tra, thi và thời gian vật chất cần thiết dành cho các khâu này có tác động trực tiếp đến thái độ, hành vi học tập, rèn luyện của học viên. Nội dung thảo luận, ôn tập, kiểm tra hay thi, và cả thời gian dành cho các khâu này không đúng tầm sẽ tạo cho học viên tâm lý ỷ lại hoặc lo lắng, hoang mang. Từ đó dẫn đến học tủ hoặc có hành vi tiêu cực để đối phó với nhà trường. Vì vậy cần quan tâm các vấn đề như sau: + Về xêmina phần học: đây là một khâu học tập rất quan trọng, giúp cho học viên nắm vững hơn kiến thức lý luận của phần học một cách có hệ thống, bước đầu có những liên hệ vận dụng lý luận vừa học vào thực tiễn; đồng thời, qua đó mà rèn luyện kỹ năng thuyết trình của học viên về một vấn đề lý luận cụ thể. Đây vừa là yêu cầu đào tạo cán bộ của nhà trường, vừa là một kỹ năng cần thiết của người cán bộ trực tiếp tác chiến ở cơ sở, khả năng vận động, thuyết phục, tuyên truyền miệng là chủ yếu. Để đạt được yêu cầu này, phải đảm bảo được 03 việc: Một là, nội dung đưa ra xêmina phải bao quát nhưng đúng trọng tâm của phần học, không phải thảo luận lại từng bài học; nêu vấn đề vừa khả năng nhận thức và trình độ hiểu biết của học viên. Hai là, giảng viên chủ trì buổi xêmina phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng nội dung các câu hỏi, tình huống đặt ra, kể cả định hướng trả lời, dự kiến diễn biến buổi thảo luận và chỉ đóng vai trò người hướng dẫn, định hướng nhận thức và kết luận những vấn đề được đặt ra (tuyệt đối không làm thay học viên). Ba là, bố trí thời gian thoả đáng để cho buổi xêmina đạt được yêu cầu đặt ra, cả thời gian dành cho học viên chuẩn bị đề cương và thời gian cho buổi xêmina. Sau xêmina nên cho học viên làm bài kiểm tra viết 02 tiết. Nội dung kiểm tra cũng vừa sức, không quá khó, chủ yếu chỉ để kiểm tra nhận thức của học viên về một vấn đề cụ thể nào đó của phần học và có một phần liên hệ thực tiễn. + Về nội dung ôn tập phục vụ kiểm tra hay thi hết môn phải đáp ứng yêu cầu về lý luận và thực tiễn đặt ra của từng môn học. Học thì phải toàn diện, nhưng ôn tập thì phải có trọng tâm, tránh tràn lan, dàn đều. + Về nội dung các đề kiểm tra hết môn và thi hết môn cũng phải đúng trọng tâm, trọng điểm và đáp ứng yêu cầu môn học đặt ra, tránh quá khó, hay quá dễ, hoặc có tính đánh đố và phải nằm trong giới hạn nội dung ôn tập đã cho. Nội dung các đề kiểm tra hay thi hết môn, nói chung phải đáp ứng được 03 tính chất cơ bản: tính lý luận khoa học; tính thực tiễn thể hiện ở sự vận dụng của Đảng, Nhà nước hay của địa phương, đơn vị và tính chiến đấu, phê phán. + Về đánh giá kết quả học tập khi kết thúc môn học hay cuối khoá, có thể thực hiện các hình thức: . Đối với môn học: tuỳ theo từng môn học, có thể áp dụng một trong 03 hình thức: thi vấn đáp, thi viết hoặc thi theo phương pháp trắc nghiệm. . Đối với tốt nghiệp cuối khoá: cần thực hiện theo phương thức: chọn từ 20% - 30% số học viên trong lớp mà kết quả học tập bình quân các môn học đạt loại khá, giỏi viết tiểu luận với những chủ đề do nhà trường đưa ra (có thể liên quan đến lĩnh vực công tác của học viên); số còn lại sẽ thực hiện thi viết. Một vấn đề cần lưu ý là khi trả bài kiểm tra, bài thi hết môn lãnh đạo khoa nên bố trí thời gian để đánh giá rút kinh nghiệm với học viên về yêu cầu của câu hỏi, những nội dung cần đạt theo yêu cầu của đáp án, góp ý cách diễn đạt nội dung trả lời trong bài làm của học viên. Đây cũng có thể là một biện pháp giúp học viên nắm chắc hơn nội dung kiến thức lý luận cơ bản và vận dụng vào thực tiễn. Thực hiện đa dạng hoá hình thức quản lý, biện pháp tác động tạo tính tích cực, tự giác học tập, rèn luyện của học viên. Quản lý học viên, bao gồm cả số lượng, chất lượng học tập và rèn luyện, thực chất là sử dụng những biện pháp tác động đến người học nhằm đạt được những mục tiêu, yêu cầu của từng khoá học đã đề ra. Tuy nhiên, không được chủ quan, mà phải tuân thủ theo các Nội quy, Quy chế đã ban hành; đồng thời, phải chú ý đến các yếu tố tâm sinh lý và những đối tượng, hoàn cảnh cá biệt, không nên rập khuôn, cứng nhắc. Qua thực tế các lớp, hoạt động quản lý cần quan tâm thực hiện tốt các biện pháp sau đây: - Thứ nhất, thực hiện nghiêm túc quản lý việc chấp hành giờ giấc học tập, rèn luyện của học viên thông qua nắm sĩ số hàng ngày, không chỉ ở các buổi nghe giảng trên lớp mà tất cả các khâu trong quá trình học tập, sinh hoạt trong suốt khoá học. Có thể thông qua phiếu điểm danh, sổ đầu bài để thực hiện điều này, nhưng phải có kiểm chứng thực tế và công khai trước lớp để tránh tình trạng gian dối hay cho phiếu lẫn nhau giữa các học viên. Sau cuối mỗi môn học, chủ nhiệm lớp cùng Ban cán sự lớp công bố công khai trước lớp việc thực hiện giờ giấc học tập của học viên. Đây là biện pháp đầu tiên bảo đảm tính công bằng giữa các học viên với nhau trong cùng một lớp. - Thứ hai, giáo viên chủ nhiệm lớp kết hợp với giảng viên giảng bài cho kiểm tra viết tại lớp từ 15-20 phút một vấn đề nào đó trong bài đang học hoặc bài học trước đó của môn học. Đây là bài kiểm tra làm điều kiện cùng với các bài kiểm tra viết 02 tiết theo quy định chung của từng cụm bài để xét thi hết môn học, phần học. - Thứ ba, xử lý nghiêm túc, kịp thời những hành vi vi phạm Nội quy, Quy chế theo quy định, không phân biệt loại hình đào tạo tập trung hay tại chức, tránh tình trạng giơ cao đánh khẽ. Đồng thời, biểu dương, khen thưởng kịp thời những cá nhân, tập thể học viên có những thành tích tốt trong học tập, rèn luyện để nêu gương chung. - Thứ tư, cần thường xuyên mời các diễn giả, chuyên gia kinh tế - văn hoá - văn học, nghệ thuật đến báo cáo ngoại khoá nhằm bổ sung kiến thức ngoài phần lý luận chính trị cơ bản trong chương trình quy định. - Thứ năm, nên tổ chức các buổi sinh hoạt, học tập ngoại khoá theo nhóm, tổ hay cả lớp với những chủ đề thích hợp đối với từng lớp và từng thời điểm. Nội dung sinh hoạt vừa gắn lý luận đang học với thực tiễn ngoài xã hội, vừa tạo điều kiện cho học viên tập nói, tập diễn thuyết trước đông người, có thể gắn với những ngày kỷ niệm, những sự kiện lịch sử của dân tộc trong năm. Qua đó mà củng cố lý luận đã học, tạo điều kiện cho học viên chia sẻ những kinh nghiệm quý trong cuộc sống - Thứ sáu, có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường và địa phương, đơn vị có học viên đi học trong quản lý học viên, ở cả hai loại hình đào tạo tập trung và tại chức. Ngoài việc thông báo kết quả học tập, rèn luyện từng môn học của học viên về địa phương, đơn vị, truớc khi học viên ra trường, Ban giám hiệu nên tổ chức Hội nghị với đại diện các đơn vị, địa phương để nhà trường thông báo kết quả học tập và rèn luyện toàn khoá của từng học viên. Đây là việc làm cần thiết và cần thực hiện nghiêm túc nhằm thực hiện tốt hơn chủ trương: Gắn đào tạo với đề bạt, bố trí cán bộ, công chức. 2.2.2.7. Đổi mới phương pháp giảng dạy chú ý tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác đào tạo Để góp phần đào tạo được những cán bộ tốt bên cạnh nhiều yếu tố thì yếu tố cơ sở vật chất đóng vai trò hết sức quan trọng. Nội dung có ý nghĩa quyết định, nhưng hình thức cũng giữ vai trò quan trọng. Trong những năm qua, trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng đã được lãnh đạo tỉnh quan tâm đầu tư xây dựng khang trang đáp ứng một phần đáng kể trong công tác đào tạo cán bộ cho các ngành các cấp trong tỉnh. Để đảm bảo tốt hơn yêu cầu đào tạo cán bộ trong giai đoạn mới, nhất là góp phần nâng cao hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị chương trình trung cấp lý luận chính trị cần quan tâm hơn những vấn đề sau: - Đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ bản để sớm hoàn thành các hạng mục công trình còn lại theo quy hoạch, xây dựng nhà trường thật sự là một môi trường khang trang, hiện đại, xanh, sạch, đẹp. - Đầu tư những trang thiết bị cần thiết một cách đồng bộ hoá và từng bước hiện đại hoá các phương tiện dạy và học, vui chơi, giải trí, góp phần tích cực nâng cao chất lượng đào tạo toàn diện của trường, như máy đèn chiếu, phòng lab, khu thể dục thể thao. - Tăng cường, cải tiến hoạt động của thư viện đảm bảo trang bị đủ sách, báo, tạp chí phục vụ cho giảng dạy và học tập như các sách kinh điển: Lênin toàn tập, Lênin tuyển tập, Mác-Ăngghen toàn tập, Mác-Ăngghen tuyển tập, Hồ Chí Minh toàn tập, Hồ Chí Minh tuyển tập, Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Văn kiện Đảng toàn tập; sách tham khảo về chính trị, kinh tế, xã hội, công tác xây dựng Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị, văn bản luật được cập nhật; cần nối mạng và bố trí một số máy tại phòng đọc phục vụ nhu cầu truy cập thông tin của học viên, từng bước hình thành thư viện điện tử. - Nâng cao chất lượng khu ký túc xá học viên, trang bị đầy đủ những điều kiện cở sở vật chất tối thiểu đảm bảo cho việc học tập và nghiên cứu của học viên, như bố trí hợp lý số học viên trong 01 phòng, đầy đủ giường, bàn ghế, ánh sáng, quạt. 2.3. Kiến nghị 2.3.1. Đối với Trung ương - Các ban ngành có liên quan như Ban Tổ chức Trung ương, Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Hành chính Quốc gia, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Ban Tài chính Quản trị Trung ương - thống nhất việc xây dựng mô hình Trường Chính trị tỉnh, gồm cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác giảng dạy - học tập và phục vụ; các chế độ chính sách đối với giảng viên và học viên như kinh phí đào tạo dành cho một học viên/năm, chế độ phụ cấp giảng dạy, chế độ trợ cấp tiền ăn học viên, các phương tiện được trang bị cho các Khoa và giảng viên... tránh tình trạng mỗi nơi mỗi vận dụng khác nhau. - Ban Tổ chức Trung ương: đề nghị xem xét và bổ sung đối tượng học trung học chính trị, ngoài số đối tượng theo Quyết định 88/QĐ/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng ngày 05 tháng 9 năm 1994 và Hướng dẫn số 07 TC/TW của Ban Tổ chức Trung ương cần bổ sung thêm đối tượng là giáo viên, cán bộ ngành giáo dục - đào tạo, y - bác sĩ, cán bộ ngành y tế, lực lượng vũ trang và cán bộ khác trên địa bàn tỉnh. - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Hành chính Quốc gia, các ngành có liên quan sớm liên tịch thống nhất các nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở một cách đồng bộ, thống nhất, ổn định, tránh chồng chéo, lãnh phí khi một đối tượng cán bộ, công chức phải học lại khi tham gia học các chương trình khác nhau. Cần có cơ quan thẩm định lại việc biên soạn tài liệu, giáo trình đào tạo để tránh trùng lặp, lãng phí. Cần gắn kết phần kiến thức lý luận cơ bản của giáo trình trung cấp lý luận chính trị với kiến thức thực tiễn, tập trung vào những nội dung nhằm giúp việc giải quyết những tình huống thực tiễn đặt ra trong đời sống cơ sở. Thường xuyên, định kỳ tổ chức tập huấn nhằm hướng dẫn nâng cao kiến thức khoa học chuyên ngành, phương pháp giảng dạy, cập nhật kiến thức, trao đổi thông tin cho đội ngũ giảng viên. Bên cạnh giáo trình đang thực hiện theo Quyết định của Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, cần có tài liệu hướng dẫn bổ sung ở từng thời điểm cụ thể và từng đối tượng cụ thể; như thế sẽ tránh việc biên soạn giáo trình sau mỗi lần Đại hội Đảng toàn quốc hoặc địa phương phải biên soạn giáo trình phục vụ cho các đối tượng phù hợp địa phương. Tổ chức nhiều đoàn cho các Trường Chính trị tỉnh đi nghiên cứu thực tế, trao đổi học tập kinh nghiệm giữa các địa phương và ngoài nước. 2.3.2. Đối với tỉnh Sóc Trăng - Tỉnh ủy, Ban Tuyên giáo, Ban Tổ chức và các Sở ban ngành cần khai thác, sử dụng tốt khả năng của đội ngũ giảng viên như bố trí làm báo cáo viên kiêm chức, báo cáo viên chuyên đề, nghiên cứu giúp các tổ chức cơ sở đảng, thu hút tham gia vào các chương trình nghiên cứu khoa học, xây dựng - phản biện các chương trình kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tỉnh nhà. Tạo điều kiện cho lãnh đạo, giảng viên được tham gia vào các đoàn nghiên cứu học tập ở nước ngoài do Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Hành chính Quốc gia và các ngành khác tổ chức. Cần quy hoạch đào tạo tuyển chọn đội ngũ giảng viên, cụ thể, từng giai đoạn; tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên hiện có; cho biên chế dự phòng để tạo nguồn cán bộ giảng viên. - Đề nghị các cấp ủy địa phương, lãnh đạo các ban ngành khi cử cán bộ đi học cần thực hiện nghiêm túc quy trình quy hoạch cán bộ với bồi dưỡng, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm như Nghị quyết của Đảng đã nêu; cần quán triệt sâu sắc hơn cho cán bộ đảng viên hiểu đi học vừa là tiêu chuẩn vưà là nhiệm vụ của người đảng viên. -Tiếp tục thực hiện chủ trương đa dạng hoá nội dung chương trình, hình thức mở lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên phù hợp với từng đối tượng cụ thể trong hệ thống chính trị cơ sở; vừa đẩy mạnh đào tạo cơ bản cho cán bộ dự nguồn, vừa chú trọng bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn theo chức danh, góp phần tiêu chuẩn hoá và nâng cao trình độ, năng lực và kỹ năng công tác cho đội ngũ cán bộ cơ sở; kết hợp giữa đào tạo chương trình trung cấp lý luận chính trị và một chuyên ngành khác (như: hành chính, pháp lý, tin học,... ) qua đó mà nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của cả hệ thống chính trị ở cơ sở. KếT LUậN Qua việc nghiên cứu đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí minh về giáo dục lý luận chính trị với việc nâng cao chất lượng đào tạo trung cấp lý luận chính trị ở Trường Chính trị tính Sóc Trăng”, luận văn đã đi đến một số kết luận sau đây: Đổi mới, nâng cao công tác giáo dục lý luận chính trị nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở Tỉnh Sóc Trăng được nghiên cứu dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là vấn đề hết sức mới và có ý nghĩa to lớn cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn; nó không chỉ giúp ích cho nhiệm vụ giáo dục lý luận chính trị ở Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng mà còn tạo động lực to lớn cho sự phát triển của tỉnh thông qua đội ngũ học viên được học tập chương trình trung cấp lý luận chính trị tại trường. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận chính trị, ngày nay vẫn là nền tảng, kim chỉ nam cho công tác đào tạo lý luận chính trị. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến công tác giáo dục lý luận chính trị. Theo Người, công tác giáo dục lý luận chính trị có ý nghĩa hết sức quan trọng, quyết định sự thành công của sự nghiệp cách mạng xuyên suốt trong mọi giai đoạn lịch sử. Đây là tư tưởng nhất quán của Người. Hoạt động của Hồ Chí Minh trên lĩnh vực giáo dục lý luận chính trị có ý nghĩa vô cùng quan trọng, Người đã góp phần nâng cao trình độ lý luận chung của toàn Đảng; củng cố quan điểm, lập trường và lý tưởng cộng sản, khả năng tư duy và năng lực hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Hồ Chí Minh đã để lại cho cách mạng nước ta một hệ thống quan điểm về mục đích, nội dung, phương châm, phương pháp giáo dục lý luận chính trị. Hệ thống quan điểm này, ngày nay vẫn là nền tảng là kim chỉ nam trong công tác đào tạo cán bộ nói chung, cho việc đào tạo lý luận chính trị nói riêng. Về tầm quan trọng của cán bộ và công tác cán bộ hiện nay Cán bộ và công tác cán bộ luôn là vấn đề quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước nước ta. Người cán bộ cách mạng có vai trò rất quan trọng, thể hiện trong rất nhiều các mối quan hệ; trong đó, quan hệ đối với đường lối, chính sách, quan hệ đối với tổ chức, quan hệ đối với công việc và đối với dân chúng là có tính quyết định. Có thể khẳng định, mọi công việc cách mạng đều phải bắt đầu từ cán bộ, từ việc hoạch định đường lối, chính sách cho đến tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, tổ chức quần chúng hành động cách mạng thực hiện đường lối, chính sách đó của Đảng và Chính phủ. Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Thực tiễn cách mạng nước ta hơn 76 năm qua, đặc biệt là qua 20 năm đổi mới đã chứng minh cho những khẳng định này: nơi nào có đội ngũ cán bộ tốt, đảng viên hết lòng vì Đảng, vì dân thì nơi đó tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, phong trào cách mạng của quần chúng phát triển, đời sống của nhân dân được cải thiện, mối quan hệ giữa Đảng và dân được củng cố; ngược lại, nơi nào cán bộ, đảng viên kém cỏi, nội bộ mất đoàn kết, thậm chí có tiêu cực thì nơi đó hoạt động của bộ máy đảng, chính quyền trì trệ, dân bất bình, khiếu kiện, tố cáo, Nghị quyết, chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước chậm đi vào cuộc sống... Đất nước ta đang thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước với mục tiêu và phương hướng tổng quát 5 năm 2006-2010 là: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; phát triển văn hoá; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh; mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị-xã hội; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại [19, tr.76]. Để hoàn thành sứ mệnh vẻ vang nhưng rất nặng nề của mình như Bác Hồ đã dạy: cán bộ phải vừa hồng, vừa chuyên, vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khoá IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã nêu: Cán bộ phải là người có phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, hết lòng phấn đấu vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc; có bản lĩnh chính trị vững vàng, không dao động trước những khó khăn, thử thách; có năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao; có nhân cách và lối sống mẫu mực, trong sáng; có ý thức tổ chức kỷ luật cao, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân [19, tr.136] Muốn vậy, thì đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành một mặt, phải nổ lực học tập vươn lên, phải bền bỉ rèn luyện và hoàn thiện mình về mọi mặt; mặt khác, phải được đào tạo, bồi dưỡng, nhất là được giáo dục lý luận chính trị, trước hết là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Có như vậy, đội ngũ cán bộ, công chức mới đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng ngày càng cao, mới đáp ứng được sự mong đợi và sự tín nhiệm, tin yêu của nhân dân. Nếu không làm được như vậy, thì như Bác Hồ đã cảnh báo: "Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân"[46, tr.557-558]. Về thực trạng công tác đào tạo trung cấp lý luận chính trị tại Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng. Những năm qua, trên cơ sở quán triệt Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ ba - Khoá VIII về Chiến lược cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và các Nghị quyết tiếp theo của Đảng, Nhà nước, sự hướng dẫn của các cơ quan chức năng ở Trung ương, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy và Uỷ ban nhân dân tỉnh, Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng luôn quan tâm nghiên cứu, tìm tòi cải tiến phương pháp dạy và học, quản lý và phục vụ nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thực tiễn và của cả người học. Nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ, đảng viên, trong đó đào tạo theo chương trình trung cấp lý luận chính trị, luôn là nhiệm vụ chủ yếu, hàng đầu của Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng. Chất lượng hoạt động đào tạo, bồi dưỡng của nhà trường có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ, đảng viên khi ra trường trở về địa phương, đơn vị công tác; do đó sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị ở cơ sở. Tuy nhiên, trên thực tế, trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công tác giáo dục lý luận chính trị ở Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng bộc lộ những hạn chế về nhiều mặt. Trước hết, là trong nội dung chương trình đào tạo còn một số bộ phận chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, chưa kết hợp giữa lý luận cơ bản và hướng dẫn xử lý những tình huống đang diễn ra ở địa phương, cơ sở. Hai là, phương pháp giảng dạy vẫn còn mang nặng theo lối mòn truyền thống, người học luôn thụ động, đội ngũ giảng viên vừa yếu lại vừa thiếu, công tác quản lý học viên còn nhiều bất cập, công tác đào tạo cán bộ không đáp ứng kịp yêu cầu cán bộ cơ sở” Những hạn chế và yếu kém trên đang đặt ra hết sức bức bách đòi hỏi phải có những giải pháp cụ thể, thiết thực và đồng bộ để giải quyết Về những giải pháp. Để đảm bảo tốt việc nâng cao chất lượng đào tạo trung cấp lý luận chính trị tại Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng, mỗi cán bộ, công nhân, viên chức và giảng viên nhà trường cần quán triệt những luận điểm quan trọng của Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận chính trị và vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo vào trong các khâu của quá trình giảng dạy và học tập tại nhà trường; cần tiếp tục đổi mới về nội dung, chương trình theo hướng thiết thực, cụ thể trên cơ sở giữ vững nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, nêu cao tính chiến đấu, tăng cường tính thực tiễn trong giáo dục lý luận chính trị. Kết hợp chặt chẽ việc nâng cao kiến thức lý luận chính trị với việc nâng cao đạo đức cách mạng; nêu cao ý thức tự học tự rèn của mỗi cán bộ, đảng viên. Quan tâm xây dựng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị nói chung, giảng viên trường Chính trị cả về bản lĩnh, phẩm chất, năng lực và phương pháp giảng dạy. Từng bước trang bị đồng bộ, hiện đại cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập rèn luyện. Vì vậy, cần đổi mới mạnh mẽ nội dung hình thức, biện pháp giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tuyên truyền sâu rộng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bồi dưỡng lòng yêu nước, yêu nhân dân, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tăng cường giáo dục phẩm chất đạo đức cách mạng, đặc biệt cho thế hệ trẻ. Chăm lo củng cố sự đoàn kết, thống nhất và tình đồng chí trong Đảng, thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên tự phê bình và phê bình. Điều đó có nghĩa cần “Đổi mới công tác giáo dục lý luận chính trị, tư tưởng trong Đảng, trước hết cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý chủ chốt các cấp; đổi mới nội dung, phương pháp học tập và giảng dạy trong hệ thống trường chính trị, nâng cao tính thiết thực và hiệu quả của chương trình” [19, tr.131]. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Lương Gia Ban (chủ biên) (2002), Góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và đổi mới nội dung chương trình các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2. Lương Gia Ban (2004), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về lý luận và học tập lý luận", Tạp chí Triết học, (1), tr.25-28. 3. Nguyễn Khánh Bật (2005), Chỉnh đốn Đảng là việc trước hết, việc phải làm ngay, Kỷ niệm 75 năm Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 4. Nguyễn Khánh Bật (chủ biên) (2003), Tập bài giảng tư tưởng Hồ Chí Minh, hệ cử nhân chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 5. Nguyễn Thị Thuận Bích (2004), Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với việc nâng cao chất lượng giảng dạy ở trường chính trị tỉnh (qua thực tế tỉnh Bình Thuận), Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 6. Nguyễn Đức Bình (1999), "Xây dựng Đảng về tư tưởng chính trị", Tạp chí Giáo dục lý luận, (2), tr.10-17. 7. Các chuyên đề về tư tưởng Hồ Chí Minh (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 8. Hồ Văn Chiểu (2005), Cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận hiện nay, trong sách "Nhận dạng các quan điểm sai trái, thù địch", Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, Hà Nội. 9. Lê Văn Cương (2005), Nhận dạng về các hoạt động chống phá Việt Nam trên mặt trận chính trị của các thế lực thù địch, trong sách "Nhận dạng các quan điểm sai trái, thù địch", Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, Hà Nội. 10.Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. 11.Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb Sự thật, Hà Nội. 12.Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Quyết định số 88-QĐ/TW của Ban Bí thư về việc thành lập trường chính trị cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Hà Nội. 13.Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 14.Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 15.Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ Chính trị (1999), Quy định chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng, số 54 - QĐ/TW. 16.Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 17.Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội (Lưu hành nội bộ). 18.Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Bí thư Ban Chấp hành Trung ương (2003), Chỉ thị về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay. 19.Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 20.Nguyễn Khoa Điềm (2004), "Nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị trong tình hình mới", Tạp chí Thông tin công tác tư tưởng lý luận, (1), tr.2-4. 21.Võ Nguyên Giáp (chủ biên) (1997), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 22.Võ Nguyên Giáp (2005), Một số vấn đề về nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 23.Trần Văn Giàu (1997), Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 24.Cao Duy Hạ (2005), "Về giảng viên lý luận chính trị", Báo Nhân dân, (05/05). 25.Mai Trung Hậu (2003), Chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn là nền tảng tư tưởng của các Đảng Cộng sản, trong sách "Một số vấn đề về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh", Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 26.Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng (2002), Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác tư tưởng, lý luận, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 27.Hội đồng Trung ương biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2002), Giáo trình triết học Mác - Lênin, Hà Nội. 28.Hội đồng Trung ương biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2003), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Hà Nội. 29.Đặng Xuân Kỳ (chủ biên) (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa và con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 30.Nguyễn Thị Hồng Lê (2004), Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 31. V.ILênin (1981), Toàn tập, T.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 32.Nguyễn Bá Linh (1994), Tư tưởng Hồ Chí Minh một số nội dung cơ bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 33.Đinh Xuân Lý (chủ biên) (2003), Một số chuyên đề về tư tưởng Hồ Chí Minh. Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, Đại học Quốc gia Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 34.C.Mác - Ph.Ăngghen (1980), Tuyển tập, Tập I, Nxb Sự thật, Hà Nội. 35.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 36.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 37.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 38.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 39.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 40.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 41.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 42.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 43.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 44.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 45.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 46.Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 47.Khoa Minh (2003), V.I.Lênin về công tác tư tưởng và lý luận, trong sách "Một số vấn đề về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh", Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 48.Trần Thị Yên Ninh (1998), Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 49.Ngô Kim Ngân (2001), "Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý cấp xã trong thời kỳ mới", Tạp chí Giáo dục lý luận, (7), tr.33. 50.Bùi Đình Phong - Phạm Ngọc Anh (2005), Công tác xây dựng đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Lao động, Hà Nội. 51.Nguyễn Trọng Phúc (2000), Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 52.Đào Duy Quát (2004), Về công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 53.Nguyễn Văn Sáu (2005), "Hội thi giảng viên dạy giỏi - hoạt động góp phần đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở trường chính trị", Báo Nhân dân. 54.Nguyễn Văn Sáu (chủ biên) (2005), Nghiên cứu giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 55.Tống Trần Sinh (2000), "Tiếp tục đổi mới toàn diện công tác của các trường chính trị tỉnh, thành phố", Thông tin công tác trường chính trị, (3), Vụ các trường chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 56.Song Thành (1997), Một số vấn đề phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu về Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 57.Trần Thành (chủ biên) (2003), Tư duy lý luận với hoạt động của người cán bộ, lãnh đạo chỉ đạo thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 58.Trần Thành (2005), Để tư tưởng Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng, Kỷ niệm 75 năm Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 59.Lê Hạnh Thông (2003), Đổi mới giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã các tỉnh Nam bộ, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 60.Lê Hạnh Thông (2000), "Hồ Chí Minh với công tác giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (2), tr.30. 61.Nguyễn Viết Thông (2005), Nhận dạng các quan điểm sai trái, thù địch về lý luận, trong sách "Nhận dạng các quan điểm sai trái, thù địch", Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, Hà Nội. 62.Hoàng Trang - Nguyễn Khánh Bật (đồng chủ biên) (2003), Tìm hiểu thân thế - sự nghiệp và tư tưởng Hồ Chí Minh (hỏi và đáp), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 63.Nông Văn Tiềm (2001), Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở tỉnh Cao Bằng trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 64.Hoàng Trang - Phạm Ngọc Anh (đồng chủ biên) (2004), Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với việc giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 65.Nguyễn Đình Trãi (2001), Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin ở các trường chính trị tỉnh, Luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 66.Nguyễn Phú Trọng (1999), "Tạo chuyển biến mới trong việc học tập lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên", Tạp chí Cộng sản. 67.Nguyễn Phú Trọng, Tô Huy Rứa, Trần KhắcViệt (2004), Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 68.Đào Duy Tùng (1985), Một số vấn đề về công tác tư tưởng, Nxb Sách giáo khoa Mác - Lênin. 69.Trần Ngọc Uẩn (2005), "Công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở trường chính trị", Tạp chí Lịch sử Đảng, tr.36. 70.Viện Mác - Lênin (1993), Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 71.Viện Mác - Lênin (1993), Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 72.Viện Mác - Lênin (1993), Hồ Chí Minh biên niên tiểp sử, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 73.Viện Mác - Lênin (1994), Hồ Chí Minh biên niên tiểp sử, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 74.Viện Mác - Lênin (1995), Hồ Chí Minh biên niên tiểp sử, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 75.Viện Mác - Lênin (1995), Hồ Chí Minh biên niên tiểp sử, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 76.Viện Mác - Lênin (1995), Hồ Chí Minh biên niên tiểp sử, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 77.Viện Mác - Lênin (1996), Hồ Chí Minh biên niên tiểp sử, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 78.Viện Mác - Lênin (1996), Hồ Chí Minh biên niên tiểp sử, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 79.Viện Mác - Lênin (1996), Hồ Chí Minh biên niên tiểp sử, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 80. Hồ Kiếm Việt (2004), Góp phần tìm hiểu đặc sắc tư duy triết học Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf170_2735.pdf