Tư tưởng quyền con người trong đời sống pháp luật thời kỳ phong kiến Việt Nam

Dưới thời trị vì của vua Lê Thánh Tông, nhà vua chủ trương “san định luật lệ cho thích dụng với thời thế” thành bộ luật. ‘Quốc triều hình luật’- bộ Tổng luật điều chỉnh hầu hết các quan hệ xã hội - là một bộ luật lớn với 722 điều, chia thành 13 chương, có đánh số chương, điều và đặt tên cho từng chương, điều. Để bảo vệ người dân, Quốc triều hình luật ghi nhận hàng loạt các hành vi bị cấm đối với quan lại: quấy nhiễu ức hiếp dân (Điều 164); tự tiện bắt bớ, giam cầm người vô tội (Điều 636); phạm nhân không đáng gông cùm mà gông cùm (Điều 658); vô cớ đánh đập tù nhân (Điều 707); đánh chết hay bức tử người tù (Điều 682); tra tấn tù nhân tuổi cao và người chưa thành niên (Điều 665); không chăm sóc tù nhân (Điều 663); xử tội không đúng tội danh và theo luật quy định (Điều 679)21. Những điều luật được soạn thảo ra trong Quốc triều hình luật này thực chất là xuất phát từ ý nguyện của vua Lê Thánh Tông, và cho dù nó gắn bó với thực tiễn cuộc sống nhưng về cơ bản, nó mang những tư tưởng, tình cảm và quan niệm của Lê Thánh Tông, mang theo lòng nhân ái của vị vua lỗi lạc đó22. Tư tưởng coi trọng vai trò của nhân dân trong điều hành, quản lý nhà nước là điểm dễ nhận thấy trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Nói về vai trò của nhân dân, Phan Bội Châu nhấn mạnh: “Dân ta là chủ nước non”; “nước ta hẳn là gia tài tổ nghiệp của dân ta rồi, bỏ mất nó là do dân ta, thì thu phục lại nó tất cũng phải do dân ta làm” và “nước được cường thịnh là nhờ có nhân dân”23. Điều 248 Quốc triều hình luật đề cao nghĩa vụ của quan lại đối với người dân: “Quan lại được xem như cha mẹ của dân nên trách nhiệm của quan lại là phải bảo vệ tài sản cho dân, diệt trừ trộm cướp, bảo đảm trật tự xã hội để người dân yên ổn làm ăn, nếu để trộm cướp tụ tập trong hạt thì bị bãi chức hay đồ; không bắt trộm cướp và không tâu trình thì phải xử tăng tội một bậc”.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 136 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tư tưởng quyền con người trong đời sống pháp luật thời kỳ phong kiến Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt: Mặc dù còn những hạn chế nhất định nhưng chế độ phong kiến Việt Nam để lại cho chúng ta những di sản có giá trị về tư tưởng quyền con người trong đời sống pháp luật. Bài viết nêu những giá trị về quyền con người trong thời kỳ phong kiến Việt Nam mà chúng ta có thể kế thừa và phát huy trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền và hoàn thiện pháp luật Việt Nam hiện nay. TÖ TÖÔÛNG QUYEÀN CON NGÖÔØI TRONG ÑÔØI SOÁNG PHAÙP LUAÄT THÔØI KYØ PHONG KIEÁN VIEÄT NAM Hoàng Hùng Hải* Abstract: In spite of certain limitations, the Vietnamese feudal regime reserves valuable legacies of the human rights in the legal life. This article sets out the human rights values of the Vietnamese feudal era that we may inherit and promote in the process of building the rule of law and improve the Vietnam’s laws today. Thông tin bài viết: Từ khóa: Tư tưởng, quyền con người, pháp luật, phong kiến. Lịch sử bài viết: Nhận bài: 25/04/2017 Biên tập: 15/05/2017 Duyệt bài: 22/05/2017 Article Infomation: Keywords: Thoughts, human rights, laws, feudal regime Article History: Received: 25 Apr. 2017 Edited: 15 May 2017 Appproved: 22 May 2017 * TS. Phó viện trưởng Viện nghiên cứu Quyền con người - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 1. Tôn trọng phẩm giá con người, quý trọng phụ nữ, trẻ em, người yếu thế Dưới chế độ phong kiến Việt Nam, mặc dù còn rất nhiều hạn chế trong bảo vệ quyền con người, nhưng tư tưởng tôn trọng con người, coi con người là giá trị cao quý nhất được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Có thể nhận thấy điều đó qua cách người dân khuyên bảo, nhắc nhở nhau: “người là vàng, của là ngãi”, “người sống hơn đống vàng”, “còn người còn của”; “người ta là hoa của đất” Con người được tôn trọng, được tạo điều kiện phát triển, ngay cả: “những gia nô, nô tỳ tuy tồn tại đến tận thời Lý - Trần nhưng họ vẫn có thân phận NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 16 Số 13(341) T7/2017 con người, có quyền sống và có cơ hội để thành đạt (như Dã Tượng, Yết Kiêu là gia nô đã trở thành danh tướng và Trần Hưng Đạo đã đề cao những người đại diện cho tầng lớp này”1. Những người yếu thế, các đối tượng dễ bị tổn thương có thời kỳ được Nhà nước quan tâm, chăm sóc. “Nhà nước có nghĩa vụ giúp người nghèo khó, tật nguyền, cô nhi, quả phụ về lương thực, nơi ở, thuốc men; binh sĩ, tù nhân đang giam cầm, dân đinh đi sưu dịch cũng được săn sóc”2. Tư tưởng yêu thương, quý trọng con người cũng được thể hiện trong văn học, trong cách ứng xử giữa con người với con người qua các triều đại phong kiến Việt Nam. Không dừng lại ở đó, tư tưởng ấy được cụ thể hóa phần nào trong pháp luật, như triều Hậu Lê có một số quy định của pháp luật liên quan đến việc bảo vệ quyền và các lợi ích cơ bản của con người trong xã hội3. Điều 294 và 295 Quốc triều hình luật quy định: Nhà nước và mọi người phải có trách nhiệm chăm sóc, nuôi nấng những người ốm đau không ai nuôi nấng, những người vô gia cư, thấp hèn, những người tàn tật, góa vợ, góa chồng, mồ côi, nghèo khổ không nơi nương tựa; tù nhân phạm tội nếu bị thương hay ốm đau phải được chữa trị, chăm sóc. “Khác với các quốc gia phương Tây, kể từ khi lập quốc, tư tưởng tôn dân đã được 1 Phạm Hồng Thái (chủ biên), Tư tưởng Việt Nam về quyền con người, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 108-109. 2 Phạm Hồng Thái, Sđd, tr. 102. 3 Phạm Thị Ngọc Huyền, “Tính nhân văn của pháp luật nhà Lê thế kỷ XV (1428-1497)”, Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 2/2000, tr. 51. 4 Nguyễn Minh Tuấn, “Đặc trưng của dân chủ trong chế độ phong kiến Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 10 (45), 2004, tr. 62. 5 Nguyễn Thanh Bình, va-gia-tri-co-ban-ve-quyen-con-nguoi-trong-Quoc-trieu-hinh-luat-421.html, tra cứu ngày 1/3/2016. 6 Phan Huy Lê, “Lê Thánh Tông và Bộ luật Hồng Đức”, trong sách Quốc triều hình luật: Những giá trị lịch sử và đương đại góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2008, tr. 33. xem như là một đặc trưng điển hình của các quốc gia phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng”4. Trong chế độ phong kiến, phân biệt đẳng cấp vẫn còn duy trì, bất bình đẳng tồn tại như một mặc nhiên. Tuy nhiên, “Bộ luật Hồng Đức không chỉ nhằm bảo vệ địa vị và quyền lợi của nhà vua, giai cấp phong kiến thống trị, mà còn thừa nhận và bảo vệ những quyền cơ bản nhất của con người, mọi người”5. Nhận định về những tiến bộ quy định trong Bộ luật Hồng Đức, GS. Phan Huy Lê chỉ ra rằng, có 4 điều luật bảo vệ quyền lợi của phụ nữ mà các bộ luật phương Đông cùng thời không có, đó là: Người con gái được chia tài sản như con trai (Điều 388); con gái trưởng được thừa kế đất hương hỏa nếu gia đình không có con trai (Điều 391); khi gia đình phải phân chia tài sản thì tài sản do vợ chồng làm ra được chia đôi (Điều 374,375) và trường hợp chồng không đi lại với vợ trong 5 tháng thì người vợ có quyền bỏ chồng (Điều 308)6. Bên cạnh đó, nhiều quy định trong Bộ luật Hồng Đức không chỉ tiến bộ so với thời bấy giờ mà còn có giá trị kế thừa trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật ngày nay. Ví dụ, Điều 322, 333 Bộ luật Hồng Đức quy định: Phụ nữ có quyền xin ly hôn; phụ nữ phạm tội thì được giảm nhẹ mức độ hình phạt so với nam giới NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 17Số 13(341) T7/2017 - là các biểu hiện rõ nét tư tưởng tôn trọng phụ nữ. Mỗi triều đại phong kiến Việt Nam đều có những nét tích cực trong tư tưởng tôn trọng, bảo vệ quyền con người, trong đó: “Triều Hậu Lê đã đạt được nhiều thành tựu trong việc bảo vệ quyền con người, thể hiện lòng yêu thương con người, trân trọng phẩm giá con người, tin tưởng vào sức mạnh con người, hành động vì con người”7. 2. Yêu chuộng hòa bình, đấu tranh vì quyền dân tộc tự quyết Từ xa xưa trong lịch sử, các Nhà nước phong kiến Việt Nam đã xác định nguyên tắc trị quốc là giữ yên dân, trừ bạo ngược “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”8. Đồng thời, tư tưởng bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo vệ Tổ quốc luôn được gìn giữ và phát triển qua các triều đại. Ông cha ta đã khẳng định: “Sông núi nước Nam vua Nam ở” thể hiện tinh thần kiên quyết đấu tranh bảo vệ bờ cõi, bảo vệ quyền tự quyết của dân tộc mình. “Cốt lõi tư tưởng pháp luật của Lê Thánh Tông là luật pháp phải có chức năng giữ cho đất nước luôn ở thế chủ động đối phó với quân xâm lược nước ngoài”9. Khẳng định chủ quyền quốc gia, Nguyễn Trãi đã viết: “Xét ra từ xưa, Giao Chỉ không phải là đất của Trung Quốc rõ lắm rồi” (thư gửi Vương Thông, Sơn Thọ, Mã 7 Nguyễn Thanh Bình, Một số nội dung và giá trị cơ bản về quyền con người trong Quốc triều hình luật, Tạp chí Triết học số 7/2008, tr. 15. 8 Nguyễn Trãi, Toàn tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976, tr. 201. 9 Nguyễn Minh Tuấn, Mai Văn Thắng (đồng chủ biên), Nhà nước và pháp luật triều Hậu Lê với việc bảo vệ quyền con người, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2014, tr. 38. 10 Bài biểu tiến công, dẫn theo Nguyễn Tài Thư (Chủ biên), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, tr. 262. 11 Phan Bội Châu, Toàn tập, t.3. Nxb. Thuận Hoá, Huế, 1990, tr. 478. 12 Phan Bội Châu, Sđd., t.3, tr.134-135. Kỳ), “vẫn trộm nghĩ, đất cõi Giao Nam thực là nơi ở ngoài cương giới (Trung Quốc)10. Đến thời kỳ thực dân - phong kiến, tư tưởng độc lập dân tộc, giành quyền tự quyết tiếp tục được phát huy. “Phan Bội Châu lấy việc cứu quốc làm chủ nghĩa, cho nên muốn cho nước ta độc lập. Lại lấy việc cứu dân làm chủ nghĩa, cho nên không muốn ngó thấy dân ta phải lầm than”11. Đối với Phan Bội Châu, “phải xóa bỏ chính thể quân chủ, vì đó là một chính thể rất xấu xa vậy” và phải “đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam và thành lập nước Cộng hòa dân chủ”12. Tư tưởng nhân đạo, tôn trọng quyền con người trong lịch sử phong kiến Việt Nam còn được thể hiện qua cách ứng xử với giặc ngoại xâm, với những tù binh, hàng binh. Sau chiến thắng lừng lẫy chống Nguyên - Mông, nhà Trần bảo toàn tính mạng rồi tha tù binh, hàng binh về nước. Thời nhà Minh, Nhà nước phong kiến Việt Nam còn tạo điều kiện cho những người bị bắt trở về nước họ, nếu đi thủy thì cho thuyền, đi bộ thì cho ngựa, đồng thời cấp lương thực, thực phẩm cho họ. 3. Con người gắn với cộng đồng, xã hội Quyền con người không chỉ là quyền riêng có của cá nhân mỗi người mà nó còn là giá trị nền tảng cho sự tồn tại của cộng NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 18 Số 13(341) T7/2017 đồng, quốc gia, dân tộc. Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu thương, đoàn kết gắn bó với nhau, nhắc nhau: “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”; “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng”. Tinh thần gắn bó tập thể luôn được đề cao, tạo nên sức mạnh: “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao” Trong chế độ phong kiến, chính sách, pháp luật của Nhà nước chú trọng hướng tới việc gìn giữ mối quan hệ khăng khít của làng bản, đất nước. Bên cạnh phép vua thì có lệ làng. Phép vua và lệ làng tuy không phải là một nhưng nhìn chung không hoàn toàn khác biệt nhau, chống lại nhau. Điều đó cho thấy, trong chế độ phong kiến Việt Nam chính sách, pháp luật cũng góp phần phát huy được tính đa dạng của phong tục, tập quán, nét văn hóa của các địa phương, vùng miền, đồng thời duy trì và phát triển được tinh thần đoàn kết, tính thống nhất của dân tộc. Tinh thần đoàn kết cũng được thể hiện trong mối quan hệ dân với nước, dân với vua. Phan Bội Châu cho rằng: dân là chủ nước, nước là của dân. Vua phải lấy dân làm trời, dân chính là trời của kẻ đứng đầu cai trị nước; rằng, một nước có ba điều quan trọng là nhân dân, đất đai, chủ quyền, trong đó nhân dân đứng thứ nhất13. Nhận thức rõ giá trị truyền thống của các quốc gia, dân tộc về tinh thần đoàn kết, gắn kết cộng đồng, sau này, Tuyên ngôn quốc tế về Quyền con người của Liên hiệp quốc xác định rằng: “Mỗi người đều có những nghĩa vụ đối với 13 Phan Bội Châu, Toàn tập, t.2. Nxb. Thuận Hoá, Huế, 1990, tr. 386. 14 Trung tâm nghiên cứu Quyền con người, Các văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người, Sđd, Hà Nội, 2002, tr. 34. cộng đồng mà chính trong đó nhân cách của bản thân có thể phát triển tự do và đầy đủ” (Điều 29)14. 4. Yêu chuộng công lý, đấu tranh vượt qua những quy định hà khắc trong xã hội Quyền con người là yếu tố động, luôn vận động và phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Có được những thành tựu như ngày nay, trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, con người đã trải qua không ít thử thách, khó khăn, phải đấu tranh, phấn đấu vươn lên giành lấy quyền con người, quyền tự do cho mình. Đấu tranh giành quyền tự do cho con người được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, thông qua văn học, nghệ thuật, qua các quy định của pháp luật và bằng cả các cuộc đấu tranh. Trong văn học dân gian hay trong các tác phẩm văn học hiện thực phê phán, các tác phẩm, câu chuyện, câu ca dao, hò vè luôn nhằm phê phán, đả kích thói hư, tật xấu của con người, chê trách các quy định hà khắc hay đả kích các vị quan tham, nhũng lại của chế độ phong kiến. Tuy còn có những hạn chế nhất định, nhưng các tác phẩm này đã góp phần thúc đẩy việc bảo đảm quyền tự do, dân chủ, chống áp bức, bóc lột, bất công ở nước ta thời phong kiến. Cũng vì thế, khi nhận thức rõ nguy cơ tha hóa trong bộ máy nhà nước, Nguyễn Trãi - một vị quan của Nhà nước phong kiến - đã nhấn mạnh rằng: “Phàm người có chức vụ coi quan trị dân đều phải theo phép công bằng... đổi bỏ thói tham ô, sửa trừ tệ lười biếng, coi công việc của quốc gia là công việc của mình; lấy NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 19Số 13(341) T7/2017 điều lo của sinh dân làm điều lo thiết kỷ”15. Không những thế, “tư tưởng bạo động chính trị có cả trong những câu nói truyền khẩu dân gian như “được làm vua, thua làm giặc”; “bao giờ dân nổi can qua, con vua thất thế lại ra quét chùa”; “thà rằng bạo động bất lương, còn hơn chết đói nằm đường thối thây”16. Pháp luật của các Nhà nước phong kiến cũng có nhiều quy định chống bất công, chống oan sai. Triều Lý thực hiện việc đặt Lầu chuông trong thành Thăng Long để dân chúng ai có việc kiện tụng, oan uổng thì đánh chuông lên17. Tiếng chuông đó vừa như là tiếng kêu ai oán, vừa là lời nói công khai cho mọi người, vừa để báo cho quan lại có nghĩa vụ biết để giải quyết vụ việc. Điều 29 Quốc triều hình luật còn quy định phải xét xử đúng người, đúng tội, nghiêm cấm trường hợp tăng tội nhẹ thành nặng, chuyển tội nặng ra nhẹ, đem tội nhẹ buộc thành tội nặng, thể hiện rõ nét tính công bằng, nghiêm minh, tinh thần bảo vệ và đấu tranh vì công lý, tư tưởng tôn trọng, bảo vệ quyền con người. 5. Tư tưởng bảo vệ quyền con người trong mối quan hệ giữa chính quyền với người dân Quyền con người được thể hiện chủ yếu trong mối quan hệ giữa Nhà nước với người dân, ở việc Nhà nước ghi nhận và tuyên bố bảo vệ các quyền và tự do của con người. Mặc dù chưa thoát khỏi chế độ người bóc lột người, chưa thoát khỏi sự ràng 15 Xem Nguyễn Trãi, Sđd, tr. 199. 16 Phan Huy Lê, Tìm về cội nguồn, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 1999, t. 1, tr. 112. 17 Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2009, t.1, tr. 119. 18 Nguyễn Minh Tuấn, Mai Văn Thắng, Sđd, tr. 36. 19 Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.1, tr. 342. buộc bởi sự thống trị giai cấp bất bình đẳng, nhưng trong suốt chiều dài tồn tại của chế độ phong kiến Việt Nam, vẫn nổi lên nét đẹp chủ đạo trong mối quan hệ gắn bó giữa Nhà nước với người dân. Nguyễn Trãi - một vị quan của Nhà nước phong kiến - đã “mong sao cho đất nước thái bình, nhân dân no đủ để “nơi thôn cùng xóm vắng không còn tiếng hờn giận, oán sầu. Như vậy, điều kiện mà Nguyễn Trãi đặt ra ở đây là vua phải là một vị minh quân, một vị vua sáng, phải biết quan tâm, chăm lo đến đời sống nhân dân”18. Và ông cũng chỉ ra chân lý cai trị: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Mối quan hệ giữa Nhà nước với người dân, sự quan tâm của nhà vua đến người dân còn được thể hiện rõ nét qua một chỉ dụ của vua Lý Thánh Tông. Mùa đông giá rét, vua Lý Thánh Tông lệnh cho các quan: “Trẫm ở trong quan, sưởi than xương thú, mặc áo lông chồn còn rét thế này, nghĩ đến người tù bị giam trong ngục, khổ sở về gông cùm, chưa rõ gian ngay, ăn không no bụng, mặc không kín thân, khốn khổ vì gió rét, hoặc có kẻ chết không đáng tội, trẫm rất thương xót. Vậy lệnh cho hữu ty phát chăn chiếu và cấp cơm ăn ngày hai bữa”19. Năm 1042, nhà Lý biên soạn và cho ban hành Bộ luật Hình thư, đây là bộ luật thành văn đầu tiên của nhà nước quân chủ Việt Nam. Bộ Hình thư ra đời thay thế cho các quy chế, luật lệ, chiếu chỉ trước đó. Nhu cầu và tác dụng của Hình thư được phản ánh trong nhận xét của nhà sử học Ngô Sĩ NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 20 Số 13(341) T7/2017 Liên như sau: “Trước kia, trong nước, việc kiện tụng phiền nhiễu, quan giữ việc hình câu nệ luật văn, cốt làm khắc nghiệt, thậm chí bị oan uổng. Vua lấy làm thương xót, sai sửa định luật lệnh, châm chước cho, thích dụng với thời bấy giờ, chia ra môn loại, biên ra điều khoản làm sách hình luật của mọi triều đại để cho người xem dễ biết. Sách làm xong, chiếu ban ra cho thi hành. Dân đều lấy làm tiện”. Đến Bộ luật Hình thư, “phép xử án được bằng thẳng, rõ ràng”20. Dưới thời trị vì của vua Lê Thánh Tông, nhà vua chủ trương “san định luật lệ cho thích dụng với thời thế” thành bộ luật. ‘Quốc triều hình luật’- bộ Tổng luật điều chỉnh hầu hết các quan hệ xã hội - là một bộ luật lớn với 722 điều, chia thành 13 chương, có đánh số chương, điều và đặt tên cho từng chương, điều. Để bảo vệ người dân, Quốc triều hình luật ghi nhận hàng loạt các hành vi bị cấm đối với quan lại: quấy nhiễu ức hiếp dân (Điều 164); tự tiện bắt bớ, giam cầm người vô tội (Điều 636); phạm nhân không đáng gông cùm mà gông cùm (Điều 658); vô cớ đánh đập tù nhân (Điều 707); đánh chết hay bức tử người tù (Điều 682); tra tấn tù nhân tuổi cao và người chưa thành niên (Điều 665); không chăm sóc tù nhân (Điều 663); xử tội không đúng tội danh và theo luật quy định (Điều 679)21... Những điều luật được soạn thảo ra trong Quốc triều hình luật này thực chất là xuất phát từ ý nguyện của vua Lê Thánh Tông, và cho dù nó gắn bó với thực 20 Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.1, tr. 331. 21 Quốc triều hình luật, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995. 22 Lê Thị Khánh Ly, AT-PHAP-VIIET-NAM-THOI-PHONG-KIEN/, truy cập ngày 21/3/2015. 23 Phan Bội Châu. Sđd, tr. 202, 394. tiễn cuộc sống nhưng về cơ bản, nó mang những tư tưởng, tình cảm và quan niệm của Lê Thánh Tông, mang theo lòng nhân ái của vị vua lỗi lạc đó22. Tư tưởng coi trọng vai trò của nhân dân trong điều hành, quản lý nhà nước là điểm dễ nhận thấy trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Nói về vai trò của nhân dân, Phan Bội Châu nhấn mạnh: “Dân ta là chủ nước non”; “nước ta hẳn là gia tài tổ nghiệp của dân ta rồi, bỏ mất nó là do dân ta, thì thu phục lại nó tất cũng phải do dân ta làm” và “nước được cường thịnh là nhờ có nhân dân”23. Điều 248 Quốc triều hình luật đề cao nghĩa vụ của quan lại đối với người dân: “Quan lại được xem như cha mẹ của dân nên trách nhiệm của quan lại là phải bảo vệ tài sản cho dân, diệt trừ trộm cướp, bảo đảm trật tự xã hội để người dân yên ổn làm ăn, nếu để trộm cướp tụ tập trong hạt thì bị bãi chức hay đồ; không bắt trộm cướp và không tâu trình thì phải xử tăng tội một bậc”. Dẫu biết rằng, trong chế độ phong kiến từng tồn tại không ít tư tưởng, hành vi xâm hại đến quyền con người, nhưng những tư tưởng tiến bộ về quyền con người trong chế độ phong kiến Việt Nam vẫn cần được nghiên cứu, kế thừa, phát huy trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân và hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam hiện nay NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 21Số 13(341) T7/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftu_tuong_quyen_con_nguoi_trong_doi_song_phap_luat_thoi_ky_ph.pdf
Tài liệu liên quan