Tư tưởng thượng tôn pháp luật của chủ tịch Hồ Chí Minh và sự vận dụng trong xây dựng nhà nước pháp quyền

Thứ tư: Vận dụng tư tưởng thượng tôn pháp luật của Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi phải học tập theo phong cách, tấm gương tự giác chấp hành pháp luật của Người. Đặc biệt, đối với đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức phải nêu gương sáng trong thực hiện pháp luật. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời trong việc thực thi pháp luật, trong việc đảm bảo tính hợp pháp của các quyết định mà Người ban hành, ngay cả trong sinh hoạt, công tác thường ngày. Trong việc bảo vệ pháp luật, Người theo nguyên tắc đã vi phạm phải xử lý; xử lý hợp tình, thấu lý; cán bộ càng to vi phạm thì xử lý phải càng nghiêm khắc. Muốn vậy, cần quan tâm thực hiện một số giải pháp cụ thể sau đây: - Tiếp tục đẩy mạnh giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật đồng thời coi trọng giáo dục đạo đức cho đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức nhà nước. - Quy định cụ thể danh mục quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước; thực hiện đúng nguyên tắc “cán bộ, công chức, cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp luật quy định”. - Tăng cường chế độ quản lý cán bộ, công chức bằng một mô hình hợp lý, có kiểm tra, đánh giá, có phối hợp, kiểm soát lẫn nhau. Đồng thời, thực hiện các chế độ, chính sách đảm bảo cán bộ, công chức sống được bằng chính đồng lương của mình. - Xử lý nghiêm minh bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật nào của cán bộ công chức, không để xử lý nội bộ hoặc xử nhẹ, xử không đúng tính chất, mức độ vi phạm, thậm chí bao che cho các hành vi vi phạm pháp luật

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 344 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tư tưởng thượng tôn pháp luật của chủ tịch Hồ Chí Minh và sự vận dụng trong xây dựng nhà nước pháp quyền, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt: Bài viết phân tích những giá trị trong tư tưởng thượng tôn pháp luật của Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự vận dụng tư tưởng của Người trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay. TƯ TƯỞNG THƯỢNG TÔN PHÁP LUẬT CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH Tào Thị Quyên* Abstract: This article provides the analysis of the values in Ho Chi Minh’s thoughts on ideological superiority and the proposed applicality of his thoughts in the development of a socialist rule-of-law state of Viet Nam today. Thông tin bài viết: Từ khóa: tư tưởng Hồ Chí Minh, tôn trọng pháp luật, Hiến pháp tối cao; tuân thủ pháp luật. Lịch sử bài viết: Nhận bài: 28/04/2017 Biên tập: 15/05/2017 Duyệt bài: 22/05/2017 Article Infomation: Keywords: Ho Chi Minh's thoughts, respect for law, supreme Constitution; law compliance. Article History: Received: 28 Apr. 2017 Edited: 15 May 2017 Appproved: 22 May 2017 * PGS, TS, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 1. Tư tưởng thượng tôn pháp luật của Chủ tịch Hồ Chí Minh Một là, thiết lập và thực hiện “chế độ pháp trị” thống nhất trong phạm vi cả nước Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật là đặc trưng của nhà nước kiểu mới, là biện pháp quan trọng hàng đầu để xây dựng 1 Hồ Chí Minh, Nhà nước và pháp luật, Nxb. Pháp lý, Hà Nội, 1985, tr. 250. và củng cố chính quyền nhân dân non trẻ mới được thành lập. Người viết: "thực hiện chế độ pháp trị, giữ vững và bảo vệ quyền lợi nhân dân, bảo vệ chế độ dân chủ của ta. Đó là nhiệm vụ tích cực"1. Chế độ pháp trị theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là chế độ trong đó pháp luật được đề cao, được tôn trọng và triệt để tuân theo. Chỉ VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 3Số 15(343) T8/2017 có thể thực hiện chế độ pháp trị đó thì Nhà nước dân chủ mới có thể tồn tại và phát triển bền vững. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện "chế độ pháp trị" ở Việt Nam. Người đã soạn thảo Tám điều mệnh lệnh của Chính phủ dân chủ cộng hoà Việt Nam, trong đó đặc biệt nhấn mạnh yêu cầu tuân thủ pháp luật của tất cả người dân Việt Nam. Người viết: "Toàn thể nhân dân, không phân biệt giai cấp, tín ngưỡng và nghề nghiệp, đều phải giữ gìn trật tự và ra sức ủng hộ chính quyền nhân dân, tuân theo pháp luật của Chính phủ và mệnh lệnh của quân đội"2. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã thấm nhuần sâu sắc quan điểm của V.I. Lênin về tính thống nhất của pháp chế XHCN. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, có pháp chế thống nhất thì uy quyền của Nhà nước mới mạnh. Sức mạnh đó thể hiện ở sức mạnh thống nhất, ở hiệu lực hoạt động của toàn bộ bộ máy nhà nước, ở sự nhịp nhàng, ăn khớp trên nền tập trung dân chủ, chống lại mọi biểu hiện phân tán, thiếu đồng bộ trong áp dụng pháp luật. Người đã rất nhiều lần phê phán tình trạng cục bộ, phân tán, thiếu thống nhất từ trên xuống dưới, từ trung ương đến địa phương và giữa các ngành và các địa phương khác nhau. Trong Thông tư số 155-TTg ngày 10/4/1952, nhân danh Thủ tướng Chính phủ, Người chỉ rõ: "Một khuyết điểm lớn hiện nay đang làm trở ngại nhiều cho công tác chúng ta là tình trạng thiếu thống nhất từ cấp trên xuống cấp dưới, giữa các ngành ở mỗi cấp Đến mỗi cấp, sự thực hiện công tác càng phân tán, càng thiếu phối hợp. Phải thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ"3. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện pháp luật thống nhất, theo Người, thực chất cũng là nhằm chống lại tư tưởng tự do chủ nghĩa. Người chỉ rõ thế nào là tự do chủ nghĩa và 2 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, T.6, tr. 564. 3 Hồ Chủ tịch và pháp chế, Hội Luật gia Việt Nam, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1985, tr. 169. 4 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 11, tr. 24. 5 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 10, tr. 269. những biểu hiện của tự do chủ nghĩa là: "Không nghiêm chỉnh chấp hành đúng đắn đường lối, chính sách của Đảng, không tôn trọng pháp luật và thể lệ của Nhà nước, tự cho mình là đúng, phát biểu theo ý riêng, không báo cáo và xin chỉ thị cấp trên, xem thường tổ chức và kỷ luật"4. Người đã kịch liệt phê phán những cán bộ bị trói buộc bởi chủ nghĩa cá nhân và thiếu ý thức pháp luật, không triệt để tuân theo pháp luật. Trong Bài nói chuyện tại Đại hội Đảng bộ Hà Nội (ngày 1/2/1961), Người đã nêu những ví dụ về tình trạng vi phạm pháp luật của cán bộ. Đó là: "Đối với nhân dân thì quan liêu, mệnh lệnh, xem thường pháp luật, không tôn trọng quyền lợi của nhân dân (như có khi khám xét nhà mà không báo trước cho chủ nhà). Tự tiện ra mệnh lệnh lung tung (như bán bánh ngọt không cho người mua mang bánh về nhà, bắt người ta ăn tại chỗ)"5. Đây chính là những biểu hiện vi phạm pháp chế nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến tính thống nhất và nghiêm minh của pháp chế xã hội chủ nghĩa. Hai là, đề cao vai trò và bảo đảm hiệu lực tối cao của Hiến pháp và luật Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc đề cao giá trị của Hiến pháp trong đời sống chính trị - xã hội không chỉ thể hiện khát vọng lớn lao của Người trên những bài viết, lời nói, mà còn được thể hiện bằng hành động cách mạng thực tế. Người cho rằng, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà non trẻ mới được thành lập cần phải dựa trên cơ sở pháp lý vững chắc thì mới tiếp tục được duy trì và phát triển. Và cơ sở pháp lý cao nhất ở đây chính là Hiến pháp. Do vậy, ngay tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (ngày 3/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra những nhiệm vụ cấp bách của chính quyền cách mạng, trong đó có nhiệm NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 4 Số 15(343) T8/2017 vụ ban hành Hiến pháp. Người viết: "Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế nên nước ta không có Hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng các quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ"6. Ủy ban dự thảo Hiến pháp đã được thành lập theo Sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ lâm thời ngày 20/9/1945. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau một năm được soạn thảo khẩn trương, bản Hiến pháp đã được hoàn thành. Tại phiên họp Quốc hội thông qua Hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu: "Sau khi nước nhà mới tự do được 14 tháng đã làm thành được bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước nhà. Bản Hiến pháp đó còn là một vết tích lịch sử đầu tiên trong cõi Á Đông này nữa. Bản Hiến pháp đó chưa hoàn toàn nhưng nó đã làm nên theo một hoàn cảnh thực tế. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới nước Việt Nam đã độc lập. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới biết dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới: Phụ nữ Việt Nam đã được đứng ngang hàng với đàn ông để hưởng chung mọi quyền tự do của một công dân. Hiến pháp đó đã nêu lên một tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các giai cấp"7. Theo Hiến pháp năm 1946, cơ chế bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp ở Việt Nam đã được biểu hiện rõ nét ở quy định về thủ tục lập hiến và sửa đổi Hiến pháp. Việc sửa đổi Hiến pháp phải tuân thủ những quy định chặt chẽ và nghiêm ngặt, thông qua hình thức phúc quyết của nhân dân. Điều 21 và Điều 70 Hiến pháp năm 1946 quy định: "Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp"; "Sửa đổi Hiến pháp phải theo cách thức sau đây: a) Do hai phần ba tổng số nghị viên yêu cầu. b) Nghị viện bầu ra một ban 6 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, tập 4, tr. 8. 7 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, tập 4, tr. 440. dự thảo những điều thay đổi. c) Những điều thay đổi khi đã được Nghị viện ưng thuận thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết". Ba là, mọi chủ thể phải chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, không có ngoại lệ Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng của pháp chế XHCN và cũng chính là tư tưởng nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nguyên tắc này đã được Người nêu ra trong Tám điều mệnh lệnh của Chính phủ dân chủ cộng hoà Việt Nam: Toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt giai cấp, tín ngưỡng và nghề nghiệp, đều phải giữ gìn trật tự, tuân theo pháp luật của Chính phủ và mệnh lệnh của quân đội. Như vậy, yêu cầu tuân thủ pháp luật là mệnh lệnh, là nguyên tắc đối với tất cả công dân, không kể người đó là cán bộ, công chức hay là dân thường, không kể người đó làm nghề nghiệp gì, theo tín ngưỡng, tôn giáo gì. Nguyên tắc này xuất phát từ luận điểm nổi tiếng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình và trước toàn thể quốc dân đồng bào, đó là: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng". Điều đó có nghĩa là, mọi công dân đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Chính vì vậy, việc tuân theo pháp luật là trách nhiệm của mọi công dân. Đây cũng chính là một đặc trưng của Nhà nước pháp quyền; theo đó, nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp và pháp luật không chỉ từ phía người dân mà cả từ phía các cơ quan nhà nước, cán bộ nhà nước. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật còn được thể hiện hết sức sinh động qua hoạt động thực tiễn của Người. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng luôn sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Năm 1951, tại Đại hội toàn quốc lần thứ hai của Đảng họp ở Việt Bắc, khi Bác về nhà nghỉ của mình, chiến sĩ công an được phân công canh gác nhà của Bác nhưng không NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 5Số 15(343) T8/2017 nhận ra Bác vì Người ăn mặc quá giản dị, nên đã yêu cầu Bác cho xem giấy ra vào. Bác không trách móc người chiến sĩ ấy mà yêu cầu đồng chí bảo vệ trực tiếp của Bác đi tìm chỉ huy để lấy giấy ra vào và trình cho chiến sĩ gác nhà. Bác lại còn khen người chiến sĩ ấy đã nghiêm túc chấp hành đúng quy định. Có lần, Bác đi thăm một công trường quân đội. Sợ Bác mệt, các đồng chí đi cùng sửa soạn máy bay cho Bác. Bác đã gạt đi và bảo: "Các chú tưởng làm Chủ tịch nước thì muốn làm gì cũng được à?". Có lần Bác đi công tác xa về đến thủ đô vào giữa trưa. Xe ô tô chở Bác đi đến một ngã tư thì gặp đèn đỏ, phải dừng lại. Thấy Người đi xe từ sáng sớm, đã mệt, đồng chí lái xe bảo đồng chí bảo vệ đến đề nghị cảnh sát giao thông cho bật đèn xanh lên. Đồng chí bảo vệ vừa định mở cửa xe bước ra thì Bác liền giữ lại và nói cho biết là phải nghiêm chỉnh tuân theo tín hiệu giao thông đã quy định, không nên giành ưu tiên cho mình, để làm trở ngại trật tự chung. Bốn là, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn sâu sát thực tế, nắm vững tình hình triển khai thực hiện chính sách, pháp luật bởi các cơ quan nhà nước, cán bộ nhà nước. Người hiểu rõ nguyên nhân của thực trạng vi phạm pháp luật, vi phạm kỷ luật công tác của cán bộ nhà nước, cơ quan nhà nước và chỉ đạo về phương châm cũng như những biện pháp cụ thể để phòng, chống những vi phạm pháp luật đó. Trong bức thư gửi các đồng chí tỉnh nhà (ngày 17/tháng/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Ở các địa phương, những khuyết điểm to nhất là: a) Khuynh hướng chật hẹp và bao biện 8 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4, tr. 20-21 9 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4, tr. 21. b) Lạm dụng hình phạt c) Kỷ luật không đủ nghiêm"8. Bức thư nói trên tuy chỉ gửi cho các cán bộ ở tỉnh Nghệ An nhưng nó cũng có tác dụng giáo dục rất sâu sắc đối với nhiều địa phương khác. Tình trạng vi phạm pháp chế, vi phạm kỷ luật công tác, trái đạo đức cách mạng của cán bộ được Bác nêu ra trong bức thư này cũng là tình trạng xảy ra ở nhiều địa phương. Với tinh thần cầu thị tiến bộ, Bác nhắc nhở cán bộ: "Chúng ta phải lập tức sửa đổi ngay, Chúng ta không sợ có khuyết điểm, Chúng ta chỉ sợ không có quyết tâm sửa đổi, Chúng ta phải lấy lòng "chí công vô tư", Chúng ta phải hiểu rõ và làm theo đúng chính sách của Chính phủ thì những khuyết điểm nói trên sẽ dễ sửa đổi và sự toàn dân đoàn kết sẽ càng vững vàng"9. Từ chỗ kịch liệt lên án tình trạng thi hành kỷ luật không nghiêm, Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện quyết tâm đấu tranh chống những biểu hiện lợi dụng chức quyền để vi phạm pháp luật, hoặc dung túng, bao che cho những hành vi phạm pháp. Theo Người, nếu những hành vi vi phạm pháp luật không bị trừng phạt, thì sự buông lỏng đó sẽ là tiền đề gây ra những hành vi phạm pháp tiếp theo. Hơn nữa, nó còn gây nên tâm lý coi thường pháp luật, gây tổn hại cho pháp chế và trật tự pháp luật. Trong Bức thư gửi các đồng chí Bắc Bộ (ngày 1/3/1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Nhiều nơi các đồng chí phạm lỗi, nhưng không bị trừng phạt xứng đáng, có đồng chí bị hạ tầng công tác nơi này, đi nơi khác lại ở nguyên cấp cũ hay chỉ bị hạ tầng công tác theo hình thức, nhưng vẫn ở cấp bộ cũ làm việc. Có đồng chí đáng phải bị trừng phạt, NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 6 Số 15(343) T8/2017 nhưng vì cảm tình, nể nang chỉ phê bình, cảnh cáo qua loa cho xong chuyện. Thậm chí còn có nơi che đậy cho nhau, tha thứ cho nhau, lừa dối cấp trên, giấu diếm đoàn thể. Thi hành kỷ luật như vậy làm cho các đồng chí không những không biết sửa lỗi mình mà còn khinh thường kỷ luật"10. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để thực hiện xử lý kỷ luật nghiêm minh đối với các hành vi vi phạm pháp luật, trách nhiệm nặng nề nhất thuộc về các cơ quan tư pháp. Người đã rất nhiều lần tham dự và chỉ đạo hoạt động của các cơ quan thanh tra và tư pháp. Trong bức thư gửi Hội nghị Tư pháp tháng 2/1948, Người viết: "Các bạn là bậc trí thức. Các bạn có trách nhiệm nặng nề và vẻ vang, là làm gương cho dân về mọi việc Các bạn là những người phụ trách thi hành pháp luật. Lẽ tất nhiên các bạn phải nêu cao cái gương "trọng công, thủ pháp, chí công vô tư" cho nhân dân noi theo"11. Như vậy, theo Người, đối với cán bộ tư pháp, ngoài những phẩm chất cần thiết khác, trước hết họ phải vì lợi ích chung, giữ gìn pháp luật, vô tư, không được thiên vị, tư thù, tư oán, không được tự cho mình đứng trên và đứng ngoài pháp luật. Cán bộ tư pháp phải có được phẩm chất ấy thì công tác xét xử mới đáp ứng được yêu cầu cao nhất là bảo đảm tính nghiêm minh và công bằng. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo phải kiên quyết trong xét xử vụ án Trần Dụ Châu, nguyên giám đốc Nha Quân nhu, Bộ Quốc phòng, một cán bộ cao cấp trong quân đội phạm tội "biển thủ công quỹ, nhận hối lộ, phá hoại công cuộc kháng chiến". Thông qua đó, chúng ta thấy rõ tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tính công bằng và nghiêm minh của công tác xét xử. Công bằng ở đây là công bằng đối với tất cả mọi người, bất kể người đó là ai và giữ cương vị, chức vụ gì, nếu phạm tội thì phải bị xử lý nghiêm minh theo đúng tội trạng và 10 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr. 73. 11 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr. 381-3 12 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.129. hậu quả của hành vi phạm tội. 2. Vận dụng tư tưởng thượng tôn pháp luật của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng nhà nước pháp quyền Việc thấm nhuần tư tưởng thượng tôn pháp luật của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương tăng cường pháp chế XHCN, đi liền với quản lý xã hội bằng pháp luật và mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền. Một trong những phương hướng cơ bản nhằm tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam mà Đại hội VIII đề ra là: "Tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức"12. Có thể nói, việc gắn yêu cầu tăng cường pháp chế XHCN với mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của Đảng ta trong việc đề cao pháp luật trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Vào thời điểm này, một số dấu hiệu cơ bản của Nhà nước pháp quyền đã được thừa nhận, đó là: 1/đề cao Hiến pháp và pháp luật trong xã hội, bảo đảm hiệu lực tối cao của Hiến pháp và luật; 2/ đòi hỏi các cơ quan nhà nước, đơn vị, tổ chức chính trị xã hội và mọi công dân đều phải chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật; 3/ tôn trọng quyền và tự do của công dân. Việc Đảng ta gắn yêu cầu tăng cường pháp chế XHCN với mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền là một chủ trương sáng suốt và phù hợp quy luật phát triển của xã hội Việt Nam. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã xác định rõ hơn mục tiêu xây dựng Nhà NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 7Số 15(343) T8/2017 nước pháp quyền XHCN Việt Nam gắn với yêu cầu thượng tôn Hiến pháp và pháp luật. Văn kiện Đại hội IX ghi rõ: "Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật"13. Thể chế hóa quan điểm của Đảng, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân". Đồng thời, Điều 8 Hiến pháp năm 2013 quy định rõ: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật”. Với các quy định này, yêu cầu thượng tôn Hiến pháp và pháp luật theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đảng và Nhà nước ta phát triển đầy đủ và hoàn thiện hơn. Nhà nước phải bảo đảm các nguyên tắc pháp quyền: Đó là một Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân; thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm tỉnh tối cao của Hiến pháp; tổ chức quyền lực nhà nước theo cơ chế quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; và do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Để tiếp tục vận dụng một cách đúng đắn tư tưởng thượng tôn pháp luật của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, cần lưu ý mấy vấn đề sau đây: Thứ nhất: Vận dụng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam phải đảm bảo nguyên tắc “trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Việc vận dụng tư tưởng này của Người trong xây dựng pháp luật đòi 13 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 131. hỏi phải đảm bảo xây dựng được một hệ thống pháp luật đồng bộ, toàn diện và tính pháp chế. Tính đồng bộ, toàn diện của hệ thống pháp luật đòi hỏi phải có đủ luật điều chỉnh hầu hết các quan hệ, các lĩnh vực của đời sống xã hội; hình thành đầy đủ các bộ phận pháp luật như: pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị; pháp luật về đảm bảo quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân; pháp luật về dân sự, kinh tế, trọng tâm là thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; pháp luật về giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, văn hoá- thông tin, thể thao, dân tộc, tôn giáo, dân số, gia đình, trẻ em và chính sách xã hội; pháp luật về quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; pháp luật về hội nhập quốc tế. Tính pháp chế của của hệ thống pháp luật trong nhà nước pháp quyền XHCN phải được thể hiện ở chỗ: 1/Sự thống nhất, nhất quán về mục tiêu điều chỉnh của các văn bản quy phạm pháp luật; 2/Sự chặt chẽ, chính xác của các quy định pháp luật; 3/Tính nghiêm minh của các chế tài xử lý; 4/ Bảo đảm trật tự thứ bậc hiệu lực của các văn bản quy phạm pháp luật, trong đó Hiến pháp có hiệu lực cao nhất, các luật không được trái với Hiến pháp; văn bản dưới luật không được trái với văn bản luật; văn bản của chính quyền địa phương không được trái với văn bản của trung ương; văn bản của cấp dưới không được trái với văn bản của cấp trên. Điều kiện tiên quyết để đảm bảo tính pháp chế của hệ thống pháp luật là đảm bảo hoạt động xây dựng pháp luật phải được điều chỉnh bằng luật; sự tuân thủ nghiêm minh pháp luật của cơ quan có thẩm quyền xây dựng pháp luật, đồng thời có chế tài xử lý nghiêm đối với các vi phạm pháp luật trong xây dựng pháp luật. Thứ hai: Nghiên cứu tư tưởng thượng tôn pháp luật của Chủ tịch Hồ Chí Minh NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 8 Số 15(343) T8/2017 để vận dụng trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam đòi hỏi phải xuất phát từ những quan điểm có tính chất phương pháp luận, khoa học để nhận thức đúng đắn nội dung tư tưởng của Người, tránh suy diễn, ngộ nhận hoặc gán ghép một cách tùy tiện. Thứ ba: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật phải gắn với vận dụng cả phương pháp Hồ Chí Minh thì mới đưa được tư tưởng của Người vào trong toàn bộ quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. Trong phương pháp Hồ Chí Minh cần đặc biệt chú ý đến phương pháp khách quan, toàn diện, triệt để, vừa có tính nguyên tắc vừa linh hoạt mềm dẻo, với phương châm tôn trọng pháp luật, tôn trọng nhân dân, học dân, hiểu dân; coi trọng xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật, đảm bảo không một thiết chế quyền lực nào nằm ngoài sự kiểm soát, hoạt động ngoài khuôn khổ pháp luật. Thứ tư: Vận dụng tư tưởng thượng tôn pháp luật của Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi phải học tập theo phong cách, tấm gương tự giác chấp hành pháp luật của Người. Đặc biệt, đối với đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức phải nêu gương sáng trong thực hiện pháp luật. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời trong việc thực thi pháp luật, trong việc đảm bảo tính hợp pháp của các quyết định mà Người ban hành, ngay cả trong sinh hoạt, công tác thường ngày. Trong việc bảo vệ pháp luật, Người theo nguyên tắc đã vi phạm phải xử lý; xử lý hợp tình, thấu lý; cán bộ càng to vi phạm thì xử lý phải càng nghiêm khắc. Muốn vậy, cần quan tâm thực hiện một số giải pháp cụ thể sau đây: - Tiếp tục đẩy mạnh giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật đồng thời coi trọng giáo dục đạo đức cho đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức nhà nước. - Quy định cụ thể danh mục quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước; thực hiện đúng nguyên tắc “cán bộ, công chức, cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp luật quy định”. - Tăng cường chế độ quản lý cán bộ, công chức bằng một mô hình hợp lý, có kiểm tra, đánh giá, có phối hợp, kiểm soát lẫn nhau. Đồng thời, thực hiện các chế độ, chính sách đảm bảo cán bộ, công chức sống được bằng chính đồng lương của mình. - Xử lý nghiêm minh bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật nào của cán bộ công chức, không để xử lý nội bộ hoặc xử nhẹ, xử không đúng tính chất, mức độ vi phạm, thậm chí bao che cho các hành vi vi phạm pháp luật của mình và sớm trở về với cộng đồng. Trường hợp bắt buộc phải tiến hành việc xét xử đầy đủ thì Bộ luật TTHS cũ và mới đều quy định các biện pháp ngăn chặn áp dụng với người chưa thành niên phạm 26 Phạm Thị Thanh Nga, The Rights of the Child in Judicial Sector in Vietnam: Compliance with International Legal Standards, University of Wollongong, (2015) p. 194. tội, gồm: cấm đi khỏi nơi cư trú; bảo lãnh; đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Về cơ bản, các biện pháp này đã được sử dụng tương đối hiệu quả. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy, biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú và bảo lãnh thường xuyên được áp dụng nhiều hơn trong trường hợp người chưa thành niên phạm tội26 NGUYÊN TẮC VÌ LỢI ÍCH ... (Tiếp trang 36) NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 9Số 15(343) T8/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftu_tuong_thuong_ton_phap_luat_cua_chu_tich_ho_chi_minh_va_su.pdf