Kết quả trên cho thấy nhóm trẻ có mẹ với
kinh đầu sớm sẽ dậy thì sớm hơn gấp > 2 lần so
với mẹ có kinh đầu trung bình và gấp 3 lần với
mẹ có kinh đầu trễ. Tác giả Speroff và cs (2005)
cũng ghi nhận có sự liên quan mạnh với tuổi
kinh đầu của chị gái, nhưng lại không liên quan
với kinh đầu của me. Theo Nguyễn Thị Mai
Trang (2003) nghiên cứu đối tượng học sinh nữ
cấp II không thấy có sự khác biệt về tuổi kinh lần
đầu của con với kinh đầu của me.
Nhóm học lực trung bình liên quan với dậy
thì sớm OR*=3,8 lần so với học giỏi. Để giải thích
yếu tố liên quan đâu là nguyên nhân này cần
phải có thời gian nghiên cứu dọc. Liên hệ với kết
quả của Trương Thị Nguyện Hảo (1999) cho kết
quả ngược lại, không có sự khác biệt giữa nhóm
qua yếu tố học lực.
Chúng tôi ghi nhận tỉ lệ dậy thì sớm hơn cao
nhất ở nhóm truy cập mạng internet thường
xuyên nhiều gấp 2,13 lần so nhóm không truy
cập mạng internet. Ngày nay, hệ thống mạng
toàn cầu rất đa dạng và phong phú, đặc biệt có
những trang web không lành mạnh, những câu
chuyện gợi dục hay các phim lãng mạn “nửa
kín, nửa hở” kích thích trí tò mò của trẻ và đã
ảnh hưởng lớn đến sự phát triển dậy thì. Trong
những nghiên cứu trước đây chúng tôi không
thấy đề cập đến yếu tố này.
Theo kết quả nghiên cứu, nhóm ngồi trước
màn hình với ánh sáng nhân tạo >3 giờ/ ngày có
nguy cơ dậy thì sớm gấp 2,14 lần so với ≤ 3
giờ/ngày. Thực tế trong nước vẫn chưa có đề tài
nào nghiên cứu yếu tố này ảnh hưởng đến vấn
đề dậy thì của trẻ gái. Xem tivi hay chơi game
trên vi tính là trò tiêu khiển giải trí của các em
bậc tiểu học, nhưng thời gian phải có hạn. Nếu
các em tiếp xúc nhiều với ánh sáng nhân tạo sẽ
làm giảm lượng melatonin, làm hormone giấc
ngủ càng thấp và thúc đẩy quá trình dậy thì(3).
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 209 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tuổi dậy thì và các yếu tố liên quan ở học sinh nữ 8-11 tuổi tại nội thành thành phố Hồ Chí Minh (2008), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 1
TUỔI DẬY THÌ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở HỌC SINH NỮ 8-11
TUỔI
TẠI NỘI THÀNH TP. HCM (2008)
Nguyễn Thị Kiều Oanh*, Võ Minh Tuấn**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Trẻ dậy thì cần có sự chăm sóc đặc biệt nhằm giải tỏa gánh nặng tâm lý cho trẻ. Mục tiêu
nghiên cứu nhằm xác định tuổi dậy thì và yếu tố liên quan ở nữ 8-11 tuổi tại nội thành TP.HCM.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang vào tháng 2 & 3/2008 ở các bé gái 8-11
tuổi tại 4 trường phổ thông cơ sở, được chọn ngẫu nhiên phân tầng ở TP.HCM. Cô giáo chủ nhiệm đóng vai trò
điều tra viên ngay tại lớp học. Có kinh lần đầu là tiêu chuẩn chẩn đoán của dậy thì. Phỏng vấn các yếu tố ảnh
hưởng rồi so sánh giữa hai nhóm có kinh và chưa có kinh.
Kết quả: Khảo sát 1.571 bé gái 8-11 tuổi, tỷ lệ dậy thì là 13,9%. Trung vị của tuổi hành kinh lần đầu trong
nhóm này là 10. Dậy thì sớm hơn bình thường liên quan có ý nghĩa thống kê đến sống ở trung tâm thành phố
(OR* =1,33), kinh tế gia đình khá giả (OR* = 2,8), BMI cao (OR* =4,6), kinh đầu mẹ sớm (OR* = 3,72). Một số
yếu tố khác cũng chỉ cho thấy liên quan như: học lực, thời gian sử dụng internet hay xem tivi.
Kết luận: Cứ 100 bé gái 8-11 tuổi thì có 14 bé đã dậy thì ở TP HCM 2008. Cần có chương trình giáo dục về
giới tính và vệ sinh kinh nguyệt trong trường cấp I bắt đầu từ lớp 2.
ABSTRACT
PUBERTY AND RISK FACTORS AMONG STUDENTS AT THE AGE OF 8-11 IN THE CENTER
DISTRICTS IN HCMC (2008)
Nguyen Thi Kieu Oanh, Vo Minh Tuan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 92 - 97
Background: Puberty children need special care to help them to release pschycological depression. Our
study aim is exam the prevalence and risk factors of puberty among children 8-11 year-old in the center
districts in HCMC.
Method: A cross-sectional study conducted from Feb to March 2008, among 8 –11 year-old children at 4
elementary schools in HCMC by using the stratified randomized selection. Female teachers took a role of
investigators for our study. Menarche is gold standard for confirming puberty. Face-to-face interview applied for
getting risk factors of puberty, we compared the odd of the factors between with and without menarche.
Result: Conducted research on 1,571 female students from 8 to 11 year old, prevalence of puberty 13.9%.
Among these subjects, Medium of menarche was 10 There were some factors found having significantly relation
with the earlier puberty such as living in the center of city (OR* = 1.33), higher economic class (OR* =2.8), high
BMI (OR* = 4.6), mom with early menarche (OR* = 3.72). GPA, time consumption of watching television or
using internet was also found significant relationship with the earlier puberty.
Conclusion: There were 14 puberties counted for each 100 girl from 8-11 year old. We are in need of a
program of sexual and menstrual hygienic education applied for the second grade of all elementary schools.
ĐẶT VẤN ĐỀ VÀ MỤC TIÊU
Tuổi dậy thì là thời kỳ chuyển tiếp từ giai
đoạn trẻ thơ sang giai đoạn trưởng thành tính
dục, là thời kỳ quá độ khi không còn là trẻ con
* Khoa Điều dưỡng, Đại học Y Dược Tp. HCM ** Bộ môn Sản, Đại học Y Dược Tp. HCM.
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 2
nhưng chưa hẳn là người lớn(7). Đây là thời kỳ
mà bất cứ một thiếu niên nào cũng phải trải qua
những biến đổi quan trọng về thể chất cũng như
về tâm lý(9).
Ở tuổi dậy thì, tâm sinh lý thay đổi, làm cho
hành vi ứng xử thay đổi, trẻ lúng túng. Trẻ gái
dậy thì có biểu hiện lớn nhanh hơn các bạn đồng
lứa tuổi lúc đó hormon tăng trưởng phát triển
nhanh, tích vào xương nhưng cũng sớm làm
chín đầu xương, cho nên những trẻ gái trưởng
thành sớm hơn thì cao hơn ở tuổi 12 so với trẻ
gái trưởng thành ở tuổi trung bình và trễ nhưng
lại có xu hướng lùn hơn so với những trẻ gái này
khi ở tuổi trưởng thành(5). Khi một đứa trẻ bình
thường đến tuổi dậy thì, những nhận thức của
nó tương xứng với sự phát triển tính dục của cơ
thể. Ngược lại, những đứa trẻ mắc chứng dậy thì
sớm có nhu cầu về tính dục nhưng lại ở một cá
nhân chưa phát triển về nhận thức, do vậy nhu
cầu của chúng hoàn toàn mang tính bản năng.
Nhiều báo cáo về mối tương quan giữa tình
trạng dậy thì và quan hệ tình dục sớm đã được
ghi nhận(6). Dậy thì sớm được cho là có liên quan
đến một số bệnh như: ung thư vú, bệnh lý tim
mạch(1). Dậy thì sớm là một trong những nguyên
nhân khiến trẻ yêu sớm, nhận thức về tình yêu
lệch lạc, trẻ không được trang bị đầy đủ về kiến
thức giới tính, làm gia tăng nguy cơ nạo phá thai
ở tuổi vị thành niên. Nếu dậy thì sớm do những
nguyên nhân thực thể, có thể dẫn đến tử vong,
nên cần phát hiện sớm và điều trị kịp thời, nếu
vô căn không được điều trị sẽ dễ dẫn đến chiều
cao thấp ở tuổi trưởng thành. Trẻ dậy thì cần có
sự chăm sóc đặc biệt, kiểm tra kịp thời nhằm giải
tỏa gánh nặng tâm lý cho trẻ và cho cha mẹ, cải
thiện chiều cao cơ thể và tránh nảy sinh những
hậu quả nghiêm trọng.
Ngày nay xã hội càng phát triển, TP. HCM là
một trong những thành phố công nghiệp phát
triển cùng với sự hội nhập kinh tế thế giới, đời
sống của người dân càng được nâng cao, các em
có nhiều cơ hội tiếp xúc nhiều thông tin với đủ
mọi hình thức, sự phát triển tâm sinh lý của các
em gái cũng sớm hơn so với trước. Chính vì vậy
không ít bậc cha mẹ và các em gái băn khoăn
không biết quá trình dậy thì của con gái và bản
thân mình là bình thường hay bất thường.
Những năm gần đây, tuổi thấy kinh của các bé
gái ở nhiều quốc gia có xu hướng sớm hơn(11).
Mặc dù có nhiều chuyên gia sản phụ khoa
cũng như các nhà tâm lý học thông tin cho rằng
“trẻ Việt Nam dậy thì sớm” đã được cảnh báo,
nhưng trong những năm gần đây chưa thấy số
liệu thống kê rõ ràng là tại TP. HCM tình trạng
dậy thì ở các bé gái học cấp I. Vì vậy, chúng tôi
tiến hành khảo sát “Tuổi dậy thì và các yếu tố
liên quan ở học sinh nữ 8-11 tuổi tại nội thành
TP. HCM” với câu hỏi nghiên cứu: Tuổi dậy thì
trung bình và tỉ lệ dậy thì ở học sinh nữ 8-11 tuổi
tại nội thành TP. HCM là bao nhiêu? Các yếu tố
liên quan đến dậy thì là gì? Hy vọng rằng
nghiên cứu này sẽ góp một phần vào sự nghiệp
giáo dục, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho thế
hệ trẻ Việt Nam của chúng ta, đặc biệt trẻ gái
mới lớn - mới bắt đầu dậy thì.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chính
Xác định tuổi dậy thì trung bình, tỉ lệ dậy thì
ở học sinh nữ 8-11 tuổi tại nội thành TP.HCM.
Mục tiêu thứ cấp
Xác định yếu tố liên quan đến dậy thì:
- Yếu tố nội tại gồm chỉ số BMI, cân nặng lúc
sanh, tuổi thai lúc sanh, học lực cuối năm học,
hoạt động thể lực, tình trạng cha mẹ, số con
trong gia đình, thứ tự con trong gia đình, tuổi có
kinh lần đầu của mẹ.
- Yếu tố bên ngoài gồm nơi cư trú, khí hậu,
hoàn cảnh kinh tế, thời gian tiếp xúc với màn
hình, truy cập mạng internet, đọc truyện.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang.
Dân số nghiên cứu
Dân số mục tiêu
Học sinh nữ 8-11 tuổi tại TP. Hồ Chí Minh.
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 3
Dân số nghiên cứu
Học sinh nữ 8-11 tuổi các khối lớp 3, 4 và 5
của 4 trường tiểu học tại nội thành TP. HCM:
Trường tiểu học Trưng Trắc Quận 11, Phan Đình
Phùng Quận 3, Phan Chu Trinh Quận Bình Tân
và Quận Bình Thạnh.
Cỡ mẫu
Chúng tôi sử dụng công thức tìm 1 tỉ lệ trong
cộng đồng nhằm đáp ứng cho mục tiêu chính
của nghiên cứu. Vậy công thức tính cỡ mẫu là:
Z21-α/2 * P (1-P)
N =
d2
Z1-α/2 = 1,96. P = 2,8% (14). d = 0,01 → n = 1.046
Vì nghiên cứu cộng đồng với hiệu ứng thiết
kế mẫu 1,5 nên N = 1.046 x 1,5= 1.569
Kỹ thuật chọn mẫu:
Ngẫu nhiên phân tầng.
Bước 1: Chọn mẫu cụm, lập danh sách tất cả
các quận trung tâm và quận vùng ven nội thành
TP. HCM, sau đó rút thăm ngẫu nhiên được 2
quận trung tâm là: quận 3 và quận 11; 2 quận
vùng ven là: quận Bình Thạnh và quận Tân Phú.
Bước 2: Lập danh sách tất cả các trường tiểu
học trong mỗi quận được chọn, sau đó rút thăm
ngẫu nhiên 1 trường trong mỗi quận. Kết quả
như sau:
Quận 3: Trường tiểu học Phan Đình Phùng.
Quận 11: Trường tiểu học Trưng Trắc.
Quận Bình Thạnh: Trường tiểu học Bình
Hòa.
Quận Tân Phú: Trường Phan Chu Trinh.
Chúng tôi lấy ở mỗi trường với cỡ mẫu gần
tương đương bằng ¼ mẫu chung # 393.
Bước 3: Trong mỗi trường lấy 3 khối (lớp 3, 4
và 5). Lập danh sách tất cả các lớp trong mỗi
khối, vì trong mỗi khối số lượng học sinh gần
tương đương nhau nên sẽ phân tầng: mỗi khối
lớp là một tầng. Trong mỗi tầng cỡ mẫu gần
tương đương nhau. Chọn ngẫu nhiên một số lớp
trong mỗi tầng cho đến khi đủ cỡ mẫu dự tính.
Thời gian lấy mẫu nghiên cứu vào tháng 2 và 3
năm 2008, thời điểm này thuận lợi vì các em vừa
thi xong học kỳ I của năm học và các cô giáo chủ
nhiệm có thời gian hơn để làm công tác điều tra
viên.
Chúng tôi chọn các giáo viên chủ nhiệm làm
công tác điều tra viên, các cộng tác viên này
được tập huấn kỹ về kỹ năng vấn hỏi dựa bộ câu
hỏi đã soạn sẵn, kỹ thuật cân nặng và đo chiều
cao của bé (có sự hợp tác của nhân viên phòng y
tế của trường). Chúng tôi chọn tất cả là cô giáo,
nếu bốc thăm trúng lớp thầy giáo làm chủ nhiệm
thì chọn cô bảo mẩu làm điều tra viên.
Điều tra viên thực hiện các bước
Gởi thư ngỏ về cho phụ huynh điền ngày
hôm trước.
Phỏng vấn: phỏng vấn trực tiếp các em học
sinh nữ bằng bộ câu hỏi đã được soạn sẵn (sau
khi đã nhận lại phiếu do phụ huynh trả lời). Các
điều tra viên sẽ phỏng vấn các em vào giờ sinh
hoạt lớp và những giờ nghỉ giữa các tiết học.
Quan sát: Công cụ đo lường như cân nặng,
đo chiều cao của bé (được thực hiện tại phòng y
tế trường).
Bước 4: Phân tích kết quả: n1: có kinh, n2:
chưa có kinh → sử dụng cho mục tiêu chính. Sau
đó tìm yếu tố liên quan (nhóm bệnh: đã có kinh,
nhóm chứng: chưa có kinh).
Tiêu chí loại trừ
Dị tật hình thể ngoài. Có 1 trong 4 nhân tố
không hợp tác gồm sự đồng thuận tham gia
nghiên cứu của nhà trường, giáo viên chủ
nhiệm, của phụ huynh và học sinh.
Phương pháp xử lý số liệu
Nhập số liệu bằng phần mền Epi Data. Xử lý
số liệu bằng phần mềm thống kê Stata 10.0. Phân
tích gồm 2 bước: bước 1 mô tả và phân tích đơn
biến; bước 2 dùng mô hình hồi qui đa biến nhằm
kiểm soát yếu tố gây nhiễu để tính OR hiệu
chỉnh (OR*) cho các biến số. Tính toán thống kê
với độ tin cậy 95%.
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 4
KẾT QUẢ & BÀN LUẬN
Đặc điểm đối tượng điều tra
Tổng số học sinh được phỏng vấn: 1.610
em, loại ra 39 trường hợp do phiếu điều tra gởi
về phụ huynh ghi thiếu thông tin hoặc các em
trả lời thiếu trong bảng câu hỏi. Đối tượng
tham gia nghiên cứu cuối cùng là 1.571 học
sinh. Vùng trung tâm có 771 em gồm: 374 tại
trườngTrưng Trắc, 397 tại trường Phan Đình
Phùng. Vùng ven có 800 em, gồm: 399 tại
Trường Bình Hòa, 401 tại Trường tiểu học
Phan Chu Trinh. Phân bố theo khối lớp: khối 3:
501 em, khối 4: 524 em, khối 5: 546 em. Tuổi
trung bình của mẹ: 38,97 ± 5,22 tuổi. Tuổi kinh
đầu trung bình của mẹ: 14,63 ± 1,80 tuổi.
Bảng 1 Phân bố đối tượng nghiên cứu theo tuổi
Tuổi Số học sinh Tỉ lệ (%)
8 355 22,6
9 468 29,8
10 578 36,8
11 170 10,8
Tổng 1.571 100
Đặc điểm dậy thì
Chúng tôi coi đã có kinh tại thời điểm khảo
sát cắt ngang là bé gái đã dậy thì. Trong mẫu
nghiên cứu có 218 em dậy thì và 1.353 em chưa
dậy thì, sử dụng số liệu này để tìm mối liên quan
cho mục tiêu 2. Tỉ lệ dậy thì của trẻ 8-11 tuổi là
13,9%. Tỉ lệ trẻ dậy thì tăng dần theo tuổi. Không
có bé gái nào có kinh trong độ tuổi 6-7, do đó
mục tiêu chính của nghiên cứu trung phân tích
trong độ tuổi 8-11, không dàn trải đều cho toàn
bộ nữ sinh cấp I. So sánh với các tác giả khác
(bảng 2):
Bảng 2. So sánh tỉ lệ dậy thì với nghiên cứu các tác
giả khác
Tác giả Năm Vùng Tuổi (%)
Trương Thị Nguyện Hảo 1999 TP. HCM 6-10 2,8
Nguyễn Thị Mai Trang 2003 Long An 11 7
Chúng tôi 2008 TP. HCM 8-11 13,9
Da trắng ≤ 11 10 DS. Freedman và cs
(châu Âu)
1992-
1994 Da đen ≤ 11 17
Susan J và cs 2005 Úc < 12 16
Seung-Yup Ku và cs 2005 Hàn Quốc ≤ 12 2,7
Bảng 3. Tuổi có kinh lần đầu trong nhóm đã dậy thì:
Tuổi có kinh Số học sinh Tỉ lệ trên 1.571 (%)
8 6 0,4
9 49 3,1
10 157 10,0
11 6 0,4
Có kinh 218 13,9
Chúng tôi khảo sát tuổi có kinh lần đầu
trong nhóm đã dậy thì, kết quả cho thấy: Tuổi
dậy thì trung bình (Mean): 9,75 ± 0,55 tuổi; Tuổi
dậy thì trung vị (Median): 10 tuổi.
Xác định các yếu tố liên quan tới dậy thì ở
bé gái 8-11 tuổi.
Chúng tôi đưa 7 biến số vào phương trình
hồi quy đa biến, bao gồm: địa chỉ, tình trạng
kinh tế, tình trạng dinh dưỡng, tuổi kinh đầu
của mẹ, học lực, truy cập internet và thời gian
xem tivi hoặc chơi game, nhằm kiểm soát các
yếu tố gây nhiễu.
Bảng 4 Phân tích hồi quy đa biến tìm các yếu tố liên
quan
Yếu tố OR* 95%CI P
Vùng ven 1
Địa chỉ
Trung tâm 1,33 0,98-1,81 0,048
Nghèo 1
Trung bình 0,92 0,37-2,29 0,86 Kinh tế
Khá 2,6 1,01- 6,69 0,047
Gầy 1
Trung bình 4,01 1,24-13,01 0,02 Dinh dưỡng
Béo 4,08 1,23-13,53 0,021
Muộn 1
Trung bình 1,34 0,82-2,19 0,23 Kinh đầu của
mẹ
Sớm 3,72 1,58- 8,75 0,0026
Giỏi 1
Khá 1,45 1,04-2,01 0,027 Học lực
Trung bình,
yếu 3,81 2,05-7,08 < 0,001
Không 1
Thỉnh thoảng 1,72 1,23-2,39 0,002 Internet
Thường xuyên 2,13 1,34-3,38 0,001
=< 3 giờ/ngày 1 Xem Tivi,
chơi game > 3 giờ/ngày 2,14 1,58-2,89 < 0,001
Nhóm trẻ sống ở trung tâm dậy thì sớm hơn
1,33 lần so với trẻ sống ở vùng ven. Có thể do
nhịp độ sống và điều kiện sống cao hơn cùng
với sự chăm sóc, dinh dưỡng ảnh hưởng trực
tiếp đến sự phát triển của trẻ. Kết quả này cũng
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 5
phù hợp với nghiên cứu của Cao Quốc Việt,
1997: trẻ em sống ở thành phố Hà Nội có kinh
sớm hơn trẻ em ở Bắc Thái. Theo Trần Anh Tuấn
(1999) nữ sinh nội thành TP. HCM có kinh sớm
hơn ngoại thành.
Điều kiện kinh tế cao sẽ có đầy đủ vật chất,
điều kiện sống tốt có thể giúp dinh dưỡng tốt, từ
đó ảnh hưởng đến dậy thì. Nhóm có kinh tế khá
tăng nguy cơ dậy thì sớm hơn gấp 2,6 lần so với
nhóm nghèo. Theo Nguyễn Thị Mai Trang
(2003) tuổi có kinh đầu ở nhóm kinh tế giàu xuất
hiện sớm nhất, trễ nhất là nhóm nghèo. Vấn đề
này cũng phù hợp với nghiên cứu của Trương
Thị Nguyện Hảo (1999), Cao Quốc Việt (1997)
Morrison-JA (1994).
Kết quả trên cho thấy nhóm trẻ có mẹ với
kinh đầu sớm sẽ dậy thì sớm hơn gấp > 2 lần so
với mẹ có kinh đầu trung bình và gấp 3 lần với
mẹ có kinh đầu trễ. Tác giả Speroff và cs (2005)
cũng ghi nhận có sự liên quan mạnh với tuổi
kinh đầu của chị gái, nhưng lại không liên quan
với kinh đầu của me. Theo Nguyễn Thị Mai
Trang (2003) nghiên cứu đối tượng học sinh nữ
cấp II không thấy có sự khác biệt về tuổi kinh lần
đầu của con với kinh đầu của me.
Nhóm học lực trung bình liên quan với dậy
thì sớm OR*=3,8 lần so với học giỏi. Để giải thích
yếu tố liên quan đâu là nguyên nhân này cần
phải có thời gian nghiên cứu dọc. Liên hệ với kết
quả của Trương Thị Nguyện Hảo (1999) cho kết
quả ngược lại, không có sự khác biệt giữa nhóm
qua yếu tố học lực.
Chúng tôi ghi nhận tỉ lệ dậy thì sớm hơn cao
nhất ở nhóm truy cập mạng internet thường
xuyên nhiều gấp 2,13 lần so nhóm không truy
cập mạng internet. Ngày nay, hệ thống mạng
toàn cầu rất đa dạng và phong phú, đặc biệt có
những trang web không lành mạnh, những câu
chuyện gợi dục hay các phim lãng mạn “nửa
kín, nửa hở” kích thích trí tò mò của trẻ và đã
ảnh hưởng lớn đến sự phát triển dậy thì. Trong
những nghiên cứu trước đây chúng tôi không
thấy đề cập đến yếu tố này.
Theo kết quả nghiên cứu, nhóm ngồi trước
màn hình với ánh sáng nhân tạo >3 giờ/ ngày có
nguy cơ dậy thì sớm gấp 2,14 lần so với ≤ 3
giờ/ngày. Thực tế trong nước vẫn chưa có đề tài
nào nghiên cứu yếu tố này ảnh hưởng đến vấn
đề dậy thì của trẻ gái. Xem tivi hay chơi game
trên vi tính là trò tiêu khiển giải trí của các em
bậc tiểu học, nhưng thời gian phải có hạn. Nếu
các em tiếp xúc nhiều với ánh sáng nhân tạo sẽ
làm giảm lượng melatonin, làm hormone giấc
ngủ càng thấp và thúc đẩy quá trình dậy thì(3).
KẾT LUẬN & KIẾN NGHỊ
Tuổi dậy thì ngày càng sớm hơn theo điều
tra năm 2008 của chúng tôi, cứ 100 bé gái 8-11
tuổi thì có 14 bé đã dậy thì, đặc biệt có 0,4% trẻ 8
tuổi. Phụ huynh và nhà trường cần phối hợp
hiểu rõ đặc điểm tâm sinh lí của bé gái dậy thì
giúp cho các em tránh được sang chấn không
cần thiết ảnh hưởng đến học tập trong giai đoạn
này. Cần có chương trình giáo dục về giới tính
và vệ sinh kinh nguyệt trong nhà trường bắt đầu
từ lớp 2. Chương trình này do cô giáo chủ nhiệm
hướng dẫn, người được các em tin tưởng nhất
để chia sẻ những thông tin thầm kín. Các bậc
phụ huynh có con hoặc cháu gái cần nắm rõ một
số yếu tố liên quan đến tuổi dậy thì sớm hơn
bình thường, dưới 12 tuổi. Nên kiểm soát thời
gian trẻ tiếp xúc màn hình vi tính hay xem tivi,
đặc biệt lưu ý khi trẻ lên mạng internet. Nắm
được vai trò chế độ ăn uống hợp lý cho trẻ, đặc
biệt những trẻ đang thừa cân – béo phì. Bước
tiếp theo, chúng tôi sẽ nghiên cứu theo chiều dọc
để khảo sát những rối loạn trầm cảm của các bé
gái có kinh sớm khi còn học cấp I.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Berkey CS, Frazier AL, Gardner JD, et al.(1999). Adolescence
and breast cancer risk. Cancer; 85:2400–9.
2. Cao Quốc Việt, Nguyễn Phú Đạt (1997). Bàn về tăng trưởng
người Việt Nam. Đề tài KX 07-07. NXB Hà Nội, trang 92-125
& 491-503.
3. Cavallo A, Ritschel WA (1996). Pharmacokinetics of
melatonin in human sexual maturation. J Clin Endocrinol
Metab 81:1882–1886.
4. Freedman DS. et al (2002). Relation of Age at Menarche to
Race, Time Period, and Anthropometric Dimensions: The
Bogalusa Heart Study Pediatrics:110-117.
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 6
5. Herman-Giddens ME, Slora EJ, Wasserman, et al.(1997)
Secondary sexual characteristics and menses in young grils
seen in office practice: a study from the pediatric research in
office setting network pediatrics, 99: 501-512.
6. Holmes-KK (1994). Human ecology and behaviour and
sexually transmitted bacterial infections, Proc-Nalt-Acad-Sci-
USA, Mar, 91(7); 2448-55
7. Moore H (1998). Puberty and Disorders of Pubertal
Development. Essentials of Obstetrics and Gynecology, 3rd
Edition: 567-579.
8. Morrison-JA, Barton-B (1994). Sexual maturation and obesity
in 9 and 10 year-old black and white girls, The national health,
lung and blood institute growth and health study, J-Pediatr,
Jun; 124(6): 889-95.
9. Nguyễn Quỳnh Trang, Debra Efroymson (2001). Sách “Trò
chuyện về tình yêu, giới tính, sức khỏe”. NXB thanh niên
2001, trang 62-81.
10. Nguyễn Thị Mai Trang (2003). Tuổi có kinh lần đầu của nữ
sinh trung học cơ sở và một số yếu tố ảnh hưởng, luận văn
thạc sĩ Y học, trang 42-66.
11. Parent AS, Teilmann G (2003). The Timing of Normal Puberty
and the Age Limits of Sexual Precocity: Variations around the
World, Secular Trends, and Changes after Migration,
Endocrine Reviews 24: 668–693.
12. Speroff L and Fritz MA (2005). Clinical gynaecologic
endocrinology and infertility. 7 th, Lippincott Williams &
Wilkins, Philadelphia, USA, pp 366-370.
13. Trần Anh Tuấn (1999). Nghiên cứu sự trưởng thành tính dục,
kiến thức và thái độ về sức khỏe sinh sản ở học sinh phổ
thông cơ sở tại thành phố HCM, luận văn thạc sĩ y học: trang
35-59.
14. Trương Thị Nguyện Hảo (1999). Đánh giá sự trưởng thành
tính dục của học sinh 6-10 tuổi nội thành TP. HCM, luận văn
thạc sĩ Y học, trang 63-99.
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 7
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 8
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tuoi_day_thi_va_cac_yeu_to_lien_quan_o_hoc_sinh_nu_8_11_tuoi.pdf