Một dấu hiệu khác của nghiên cứu này là sự
tương quan giữa khối u nguyên phát và hạch lành
tính về biểu hiện % Glut-1 (hình 4) đòi hỏi sự giải
thích thật trọng. Tỉ lệ tế bào trung tâm nang dương
tính với Glut-1 trong những hạch lành tính được tìm
thấy tương quan với tỉ lệ tế bào u dương tính với
Glut-1 trong khối u nguyên phát, nhưng giá trị r2 bằng
0,1492 nhận được chỉ định rằng biên độ biểu hiện %
Glut-1 dương tính trong hạch lành tính sẽ khó được
tiên đoán nhờ % dương tính Glut-1 của khối u. Hơn
nữa, cường độ bắt màu nhuộm Glut-1 là một thông
số quan trọng khác của tình trạng chức năng Glut-1
không được tìm thấy tương quan giữa khối u nguyên
phát và hạch lành tính.
Hạch ác tính biểu hiện âm tính trên hình ảnh
FDG-PET đã không bao gồm trong nghiên cứu này,
bởi vì mục tiêu nghiên cứu này là xác định sự tương
quan của khối u nguyên phát với hạch dương tính
trên hình ảnh PET về mức độ hấp thu FDG và biểu
hiện Glut-1. Nói chung, sự hấp thu FDG ở các tổn
thương, lành tính hay ác tính bị ảnh hưởng bởi một
số yếu tố,18 và vì vậy thật khó khăn để xác định yếu
tố nào là quyết định chính yếu đến hấp thu FDG. Tuy
nhiên, về khối u nguyên phát và hạch di căn tại chỗ
tại vùng trong UTPKTBN, đã thấy bằng chứng rằng
mức độ hấp thu FDG càng cao được giải thích bởi
sự gia tăng biểu hiện Glut-1.
Giới hạn của nghiên cứu này liên quan đến xác
định vị trí tổn thương dương tính trên PET qua phẫu
thuật lấy bệnh phẩm làm giải phẫu bệnh. Việc xác
định chính xác vị trí các hạch khó quyết định trong
vài trường hợp.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 10 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tương quan cao về mức độ hấp thu 2-Deoxy-2-F18-Fuoro-D-Glucose (FDG) qua trung gian glucose transporter type 1 (glut-1) giữa khối u nguyên phát và hạch di căn tại chỗ tại vùng trong ung thư phổi không tế bào nhỏ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 07 - 03 / 2012190
nghiÊn CỨU KhoA hỌC
SCientiFiC reSeArCh
nghiÊn CỨU KhoA hỌC
SCientiFiC reSeArCh
TƯƠNG QUAN CAO VỀ MỨC ĐỘ HẤP THU
2-DEOXY-2-F18-FUORO-D-GLUCOSE (FDG)
QUA TRUNG GIAN GLUCOSE TRANSPORTER TYPE
1 (GLUT-1) GIỮA KHỐI U NGUYÊN PHÁT VÀ HẠCH
DI CĂN TẠI CHỖ TẠI VÙNG TRONG UNG THƯ PHỔI
KHÔNG TẾ BÀO NHỎ
high correlations between primary tumours and loco-
regional metastatic lymph nodes
in non-small-cell lung cancer with respect to
glucose transporter type 1-mediated 2-deoxy-2-F18-
fluoro-d-glucose uptake
Nguyễn Xuân Cảnh*, Young So***, Jin-Haeng Chung****
Won Woo Lee**, So Yeon Park**, Sàng Eun Kim**
* Đơn vị PET-CT và Cyclotron,
Bệnh viện Chợ Rẫy, Việt Nam,
Thực tập sinh tại Department of
Nuclear Medicine, Seoul National
University Bundang Hospital,
Seoul National University College
of Medicine, Seoul, Republic of
Korea năm 2006.
** Department of Nuclear
Medicine, Seoul National
University Bundang Hospital,
Seoul National University College
of Medicine, Seoul, Republic of
Korea.
*** Department of Nuclear
Medicine, Konkuk University
School of Medicine, Chungju,
Republic of Korea.
**** Department of Pathology,
Seoul National University
Bundang Hospital, Seoul National
University College of Medicine,
Seoul, Republic of Korea.
The purpose of the study was to investigate whether
glucose transporter type 1 (Glut-1) mediated 2-deoxy-2-F18-
fluoro-D-glucose (FDG) uptake of primary tumour is related
to the likelihood of malignancy involvement in loco-regional
lymph nodes (LNs) in 126 non-small-cell lung cancer (NSCLC)
patients (M:F = 103:23, age = 65 ± 9.7 years). Maximum
standardized uptake values (maxSUV) and Glut-1 expression
levels (determined by PeT and immunostaining, respectively)
of primary tumours and PET positive loco-regional LNs were
compared.
Significant correlations were found between malignant
LNs and primary tumours with respect to maxSUV (r = 0.6451,
p < 0.0001), %Glut-1 expression (r = 0.8341, p < 0.0001) and
Glut-1 staining intensity (p = 0.827, p < 0.0001). The area-
under-curve value for LN differentiation using lymph node
maxSUV was significantly higher in patients with a primary
tumour maxSUV of >6 (AUC = 0.775, p = 0.0001).
High correlations between the primary tumours and
metastatic LNs in NSCLC with respect to the Glut-1 mediated
FDG uptake may be useful for mediastinal LN discrimination
by FDG-PeT.
Keywords: Non-small-cell lung cancer, FDG-PET, Lymph
node, Glucose transporter.
SUMMARy
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 07 - 03 / 2012 191
nghiên CỨU KHoa HỌC
i. đặt vấn đề
Ghi hình PET (Positron emission tomography)
với thuốc phóng xạ 2-deoxy-2-F18-fluoro-D-glucose
(FDG) đã từng được báo cáo là có giá trị trong chẩn
đoán di căn hạch tại chỗ tại vùng trong ung thư phổi
không tế bào nhỏ (UTPKTBN) do mức độ hấp thu
FDG cao bởi hạch di căn.1,2 Hấp thu FDG trong khối
Ung thư phổi không tế bào nhỏ nguyên phát có lẽ
phản ánh thay đổi chuyển hóa glucose qua trung
gian protein vận chuyển glucose vào trong tế bào u
là glucose transporter type 1 (Glut-1).3–5 Hơn nữa, đã
có những báo cáo cho rằng mức độ hấp thu FDG
tương quan với mức độ trầm trọng của khối u6 và
thời gian sống còn của bệnh nhân.7–11 Hấp thu FDG
cao ở khối u nguyên phát từng được đề nghị có liên
quan đến khả năng di căn hạch tại chỗ tại vùng.12,13
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có báo cáo nào nói đến
liên quan giữa khối u nguyên phát và hạch tại chỗ tại
vùng về khía cạnh hấp thu FDG và biểu hiện Glut-1.
FDG không phải là thuốc đặc hiệu để phân biệt khối
u, những hạch lành tính mà tăng chuyển hóa glucose
có lẽ sẽ hấp thu FDG và tạo nên hình ảnh dương tính
giả trên ghi hình PET.14 Vì vậy, việc hiểu đúng quan
hệ về hoạt động chuyển hóa giữa khối u nguyên phát
và hạch ác tính/hạch lành tính có lẽ giúp ích trong
việc phân biệt hạch di căn hay hạch lành tính tại chỗ
tại vùng. Vì vậy, chúng tôi nghiên cứu tương quan
giữa khối u nguyên phát và hạch tại chỗ tại vùng trong
UTPKTBN về khía cạnh mức độ hấp thu FDG và biểu
hiện Glut-1.
ii. đối tƯỢng và PhƯƠng PhÁP
1. Bệnh nhân
Trình tự 126 bệnh nhân UTPKTBN có chụp FDG-
PET trải qua phẫu thuật cắt bỏ khối u và nạo hạch tại
chỗ tại vùng từ tháng 08/2003 đến 07/2006 được tham
gia vào nghiên cứu. 53 trong số 126 bệnh nhân (42%)
đã từng tham gia trong nghiên cứu đã được báo cáo
trước đây.15 Nghiên cứu này là sự mở rộng một loạt
nghiên cứu của chúng tôi liên quan đến ung thư phổi
và hình ảnh FDG-PET.11,15–17 Phẫu thuật cắt bỏ khối u
được thực hiện khoảng 4 tuần sau khi ghi hình FDG-
PET. Tiêu chuẩn loại trừ là những bệnh nhân đã có
hóa trị tân hỗ trợ trước đây hoặc có hình ảnh PET âm
tính thật sự (PET âm tính là khi không phát hiện được
hạch trung thất di căn và phân chia giai đoạn pTNM
có N0). Tổng cộng có 196 hạch tại chỗ tại vùng dương
tính trên hình ảnh PET (gồm 52 hạch ác tính và 144
hạch lành tính) đã được phân tích. Tất cả các bệnh
nhân đồng ý trên văn bản cho phép phân tích mẫu
bệnh phẩm để nghiên cứu.
2. ghi hình Pet
Ghi hình FDG-PET được thực hiện trên máy PET
scanner (Allegro, Philips Medical Systems, Cleveland,
OH). Tất cả bệnh nhân được nhịn đói tối thiểu 6 giờ
trước khi ghi hình FDG-PET. Nồng độ glucose máu,
định lượng trước khi tiêm FDG, là 94,3 ± 14,1 mg/
dl. Thuốc 18F-FDG được tiêm tĩnh mạch với liều 5,18
MBq/kg (0,14 mCi/kg) và ghi hình PET toàn thân được
thực hiện khoảng 50 phút sau tiêm FDG từ nền sọ đến
đùi trên. Hình ảnh PET được tái tạo theo không gian 3
chiều và hình ảnh transaxial có độ phân giải 4,8mm.
Giá trị hấp thu chuẩn SUV (Standardised uptake
value) của vùng quan tâm được tính toán theo công
thức: SUV = [Hoạt độ phóng xạ vùng quan tâm (Bq/ml) x
khối lượng thô của cơ thể (kg)] / Hoạt độ liều tiêm (Bq).
Khối lượng thô của cơ thể được sử dụng cho chuẩn
hóa SUV để loại trừ ảnh hưởng của mô mỡ mà đề kháng
với hấp thu FDG18 và được tính toán theo công thức19:
1,10 x cân nặng (kg) – {128 x [(cân nặng)2 / (100
x chiều cao (m))2 ]} cho nam, và
1,07 x cân nặng (kg) – {128 x [(cân nặng)2 / (100
x chiều cao (m))2 ]} cho nữ.
Vùng quan tâm (region of interest = ROI) được vẽ
trên khối u nguyên phát và hạch tại chỗ tại vùng trên hình
ảnh transaxial theo từng slice để bao phủ toàn bộ thể
tích tổn thương. Maximum SUV (maxSUV) được xem là
đại diện cho mức độ hấp thu FDG của tổn thương.
3. Bản đồ hạch
Khối u nguyên phát và hạch tại chỗ tại vùng được
xác định nhờ hình ảnh CT và PET. Hấp thu FDG bất
thường tại các vị trí hạch được ghi nhận dựa theo
bản đồ hạch của hệ thống phân loại Hội lồng ngực
Hoa Kỳ.20 Bản đồ hạch như vậy cũng được sử dụng
trong phân chia giai đoạn trong phẫu thuật, xác định
vị trí mẫu hạch bệnh phẩm, kết quả giải phẫu bệnh
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 07 - 03 / 2012192
nghiên CỨU KHoa HỌC
theo vị trí hạch tương xứng trên hình ảnh PET. Các
hạch có mức độ hấp thu FDG cao hơn hình ảnh FDG
trong máu trung thất được xem là hạch dương tính
trên hình ảnh PET. Những hạch âm tính trên hình ảnh
PET không được đưa vào nghiên cứu.
4. nhuộm hóa mô miễn dịch glut-1
Kĩ thuật nhuộm hóa mô miễn dịch Glut-1 như đã
được mô tả trong y văn.11,15 Kết quả mô bệnh học và
nhuộm miễn dịch Glut-1 được đánh giá bởi bác sĩ giải
phẫu bệnh mà không biết trước thông tin lâm sàng.
Đường kính lớn nhất khối u nguyên phát (cm) và hạch
(mm) được đo lường. Biểu biện %Glut-1 được xác
định là tỉ lệ tế bào u dương tính với Glut-1 (%) trong
khối u và trong hạch ác tính hoặc tỉ lệ tế bào trung tâm
nang dương tính với Glut-1 (%) cho hạch lành tính.
Cường độ bắt màu nhuộm Glut-1 được phân loại như
sau: 1:yếu; 2:yếu đến vừa; 3:vừa và 4:mạnh. Hồng
cầu trong cùng slide được sử dụng như hình để kiểm
chứng dương tính cho biểu hiện Glut-1.
5. thống kê sinh học
Phân tích thống kê được thực hiện trên chương
trình MedCalc (version 9.2.0.2).
Tương quan giữa khối u nguyên phát và hạch tại
chỗ tại vùng về maxSUV, % biểu hiện Glut-1, đường
kính lớn nhất được phân tích Pearson. Trong khi
tương quan giữa khối u nguyên phát và hạch tại chỗ
tại vùng về cường độ bắt màu nhuộm Glut-1 được
phân tích Spearman.
So sánh nhóm giữa đường kính lớn nhất và
maxSUV được phân tích theo t-test hoặc Mann-
Whitney test. Độ chính xác chẩn đoán maxSUV của
hạch được đánh giá bởi phân tích đường cong ROC
(receiver-operating-characteristic). Giá trị p <0,05
được xem là có ý nghĩa.
iii. KẾt QUẢ
1. đặc tính bệnh nhân
Trong 126 bệnh nhân UTPKTBN có 35 bệnh
nhân ở giai đoạn I, 33 bệnh nhân ở giai đoạn II, 54
bệnh nhân ở giai đoạn III và 4 bệnh nhân ở giai đoạn
IV. Đặc tính của 126 bệnh nhân như mô tả trong bảng
1. Trong 196 hạch tại chỗ tại vùng dương tính trên
hình ảnh PET có 52 hạch được xác định là ác tính
và 144 hạch được xác định là lành tính. Trong 144
hạch lành tính có 86/144 hạch (59,7%) xác định lành
tính dựa vào giải phẫu bệnh và 58/144 hạch (40,3%)
xác định lành tính dựa vào theo dõi hình ảnh PET/
CT trong thời gian 7,8 ± 3,9 tháng (từ 2–16 tháng).
MaxSUV của những hạch lành tính xác định nhờ giải
phẫu bệnh (2,82 ± 0,90) là không có khác biệt so với
những hạch xác định là lành tính nhờ theo dõi lâm
sàng (2,78 ± 0,69) (p > 0,05).
2. tương quan giữa khối u nguyên phát và hạch di
căn về mức độ hấp thu Fdg và biểu hiện glut-1
52 hạch ở 37 bệnh nhân được xác định là hạch
ác tính. MaxSUV trung bình của hạch ác tính là 3,7
± 2,1 (từ 1,6–11,5) và maxSUV trung bình của khối
u nguyên phát tương ứng là 6,4 ± 2,9 (từ 1,0–15,2).
Có sự tương quan ý nghĩa giữa maxSUV của khối
u nguyên phát và hạch ác tính (hệ số tương quan
Pearson r = 0,6451; 95% độ tin cậy từ 0,4517–0,7806;
p < 0,0001).
Bảng 1. Đặc tính bệnh nhân (n = 126)
đặc tính Số Bn %
Giới
Nam 103 81,7
Nữ 23 18,3
Loại tế bào u
Carcinoma tuyến 72 57,1
Carcinoma tế bào gai 42 33,3
Carcinoma tế bào lớn 9 7,1
Carcinoma tế bào gai-tuyến 2 1,6
Carcinosarcoma 1 0,8
Giai đoạn hạch trên GPB
N0 45 35,7
N1 32 25,4
N2 48 38,1
N3 1 0,8
Giai đoạn khối u trên GPB
T1 38 30,2
T2 67 53,2
T3 10 7,9
T4 11 8,7
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 07 - 03 / 2012 193
nghiên CỨU KHoa HỌC
Hồi qui tuyến tính giữa maxSUV hạch ác tính (Y1)
so với maxSUV khối u nguyên phát ( X1) theo phương
trình Y1 = 0,5938 + 0,4808 X1 với giá trị r2 là 0,4162
(hình 1). Có sự tương quan ý nghĩa giữa maxSUV của
khối u nguyên phát và maxSUV hạch di căn tại chỗ tại
vùng, với hệ số tương quan Pearson r = 0,6451; 95%
độ tin cậy từ 0,4517–0,7806; p < 0,0001.
Trong 37 bệnh nhân có hơn 1 hạch dương tính
trên hình ảnh PET, sự tương quan cũng được tìm thấy
giữa maxSUV của khối u nguyên phát và maxSUV
cao nhất của hạch di căn (r = 0,6663; 95% độ tin cậy
0,4365–0,8145; p < 0,0001).
Có 48 hạch di căn tại chỗ tại vùng trong 34 bệnh
nhân với mẫu mô hạch đã được nhuộm hóa mô miễn
dịch cho Glut-1. % biểu hiện Glut-1 trong hạch di căn
hấp thu FDG dương tính được tìm thấy có tương
quan ý nghĩa % biểu hiện Glut-1 trong khối u nguyên
phát (r = 0,8341; 95% độ tin cậy 0,7207–0,9040; p <
0,0001).
Hồi qui tuyến tính của % biểu hiện Glut-1 trong
hạch ác tính (Y2) so với % biểu hiện Glut-1 trong
khối u nguyên phát (X2) được biểu diễn theo phương
trình Y2 = 14,4062 + 0,8673X2 (r2 = 0,6957) (hình 2).
Cường độ bắt màu nhuộm Glut-1 của khối u nguyên
phát và hạch ác tính có tương quan ý nghĩa (p =
0,827; 95% độ tin cậy 0,664–0,915; p < 0,0001).
Đường kính lớn nhất của khối u nguyên phát là
4,3 ± 2,1 cm và của hạch di căn tại chỗ tại vùng là 14,7
± 6,4 mm. Tuy nhiên, không có sự tương quan ý nghĩa
về đường kính lớn nhất giữa khối u nguyên phát và
hạch di căn tại chỗ tại vùng (r = 0,1364, p = 0,3502).
3. tương quan giữa khối u nguyên phát và hạch
lành tính về hấp thu Fdg và biểu hiện glut-1
Hấp thu FDG được nhìn thấy trong 144 hạch
lành tính trong 75 bệnh nhân. MaxSUV trung bình
của hạch lành tính là 2,8 ± 0,8 (từ 1,4–6,6), trong khi
trung bình maxSUV của khối u nguyên phát tương
ứng là 6,7 ± 3,7 (từ 1,0-19,9). Không có sự tương
quan được tìm thấy giữa maxSUV khối u nguyên
phát và hạch lành tính (r = - 0,0125, p = 0,8831).
79 hạch lành tính trong 57 bệnh nhân được nhuộm
hóa mô miễn dịch Glut-1. Phân tích cho thấy có sự
tương quan thấp giữa % biểu hiện Glut-1 của khối u
nguyên phát và % biểu hiện Glut-1 của hạch lành tính
(r = 0,3863, p = 0,0004) với 95% độ tin cậy 0,1806–
0,5596. Hồi qui tuyến tính giữa % biểu hiện Glut-1 của
hạch lành tính tại chỗ tại vùng (Y2) so với % biểu hiện
Glut-1 của khối u nguyên phát (X2) qua phương trình Y2
= 5,1752 + 0,1101X2 (r2 = 0,1492) (hình. 4). Tuy nhiên,
hình 1. Bản đồ phân bố maxSUV của khối u nguyên
phát so với maxSUV của hạch di căn tại chỗ tại vùng, với
đường hồi qui và khoảng tiên đoán 95%.
hình 3. Bản đồ phân bố maxSUV của khối u nguyên
phát so với maxSUV của hạch tại chỗ tại vùng lành tính,
với đường hồi qui và khoảng tiên đoán 95%.
hình 2. Bản đồ phân bố % biểu hiện Glut-1 của khối
u nguyên phát so với % biểu hiện Glut-1 của hạch di
căn tại chỗ tại vùng và đường hồi qui tương xứng.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 07 - 03 / 2012194
nghiên CỨU KHoa HỌC
cường độ bắt màu nhuộm Glut-1 của khối u nguyên
phát và cường độ bắt màu nhuộm Glut-1 của hạch lành
tính không thấy có tương quan (p = 0,089; 95% khoảng
tin cậy –0,183 đến 0,348; p = 0,5179).
Đường kính lớn nhất của khối u nguyên phát là
3,7 ± 1,9 cm và của hạch lành tính tại chỗ tại vùng
11,6 ± 4,7 mm. Không có sự tương quan ý nghĩa về
đường kính lớn nhất giữa khối u nguyên phát và hạch
lành tính tại chỗ tại vùng (r = 0,1403, p = 0,1949).
4. Ứng dụng lâm sàng về tương quan giữa
maxSUv của khối u nguyên phát và hạch
Tương quan giữa maxSUV của các hạch di căn,
hạch lành tính tại chỗ tại vùng và khối u nguyên phát
thể hiện ở hình 5. Bản đồ phân bố hình 5 là phát sinh
từ hình 1 và 3. Khi maxSUV của khối u nguyên phát
<6, đã có sự trùng lắp giá trị maxSUV của hạch di
căn và lành tính (phần trên và dưới bên trái của hình
5). Nhưng khi maxSUV của khối u nguyên phát >6,
hạch di căn và lành tính dễ dàng được phân biệt với
giá trị maxSUV khác biệt (phần trên và dưới bên phải
của hình 5).
MaxSUV của hạch đóng vai trò quan trọng trong
việc phân biệt hạch di căn và lành tính chỉ khi maxSUV
của khối u nguyên phát >6 với giá trị vùng dưới đường
cong = 0,775 (p = 0,0001) (Hình. 6 A). Không có sự
khác biệt giữa đường kính lớn nhất của hạch di căn
(14,9 ± 5,1 mm) và hạch lành tính (12,7 ± 4,1 mm)
(p = 0,3401) được quan sát khi khối u nguyên phát có
maxSUV >6.
Nói một cách khác, maxSUV của hạch không
cho phép phân biệt hạch di căn và hạch lành tính khi
khối u nguyên phát có maxSUV ≤6 (hình. 6B).
iv. thẢo LUận
Dấu hiệu chính trong nghiên cứu này là khối u
nguyên phát và hạch di căn tại chỗ tại vùng trong
UTPKTBN có sự tương quan cao về mức độ hấp
thu FDG và biểu hiện Glut-1, nhưng không có tương
quan về mức độ hấp thu FDG giữa khối u nguyên
phát và hạch lành tính tại chỗ tại vùng. Hơn nữa, đã
hình 5. Bản đồ phân bố maxSUV của khối u nguyên
phát so với maxSUV của hạch di căn và hạch lành tính
tại chỗ tại vùng. Đường chỉ dọc để phân biệt giá trị max-
SUV của khối u nguyên phát = 6. Đường chỉ ngang để
phân biệt giá trị maxSUV của hạch = 3.
hình 6. Đường cong ROC liên quan đến maxSUV để
phân biệt hạch di căn và hạch lành tính. Khi khối u
nguyên phát có maxSUV >6, hạch di căn và hạch lành
tính dễ dàng được phân biệt (A). Tuy nhiên, khi khối u
nguyên phát có maxSUV ≤6, không thể phân biệt được
hạch di căn và hạch lành tính (B).
hình 4. Bản đồ phân bố % biểu hiện Glut-1 của khối u
nguyên phát so với % biểu hiện Glut-1 của hạch lành
tính tại chỗ tại vùng và đường hồi qui tương quan.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 07 - 03 / 2012 195
nghiên CỨU KHoa HỌC
có nghiên cứu cho thấy những biểu hiện Glut của khối
u nguyên phát UTPKTBN khác với biểu hiện Glut ở
tổn thương di căn.21 Vì vậy, nghiên cứu này lần đầu
tiên cho thấy có biểu hiện tương quan giữa biểu hiện
Glut-1 của khối u nguyên phát với biểu hiện Glut-1
của tổn thương di căn trong UTPKTBN.
Mặc dù mức độ hấp thu FDG của khối u nguyên
phát ảnh hưởng đến khả năng di căn hạch,12 mặc
dù có mối quan hệ tương hỗ giữa mức độ hấp thu
FDG và biểu hiện Glut-1 trong khối u nguyên phát3 và
hạch,14 nhưng bản chất quan hệ giữa khối u nguyên
phát và hạch tại chỗ tại vùng về hấp thu FDG và biểu
hiện Glut-1 chưa được biết rõ. Nghiên cứu này cho
thấy có sự tương quan ý nghĩa giữa hấp thu FDG của
khối u nguyên phát và hạch di căn tại chỗ tại vùng
và đặc biệt là giá trị maxSUV của hạch di căn dường
như bằng một nữa so với giá trị maxSUV của khối u
nguyên phát trong UTPKTBN (hình 1), cùng với mức
độ biểu hiện Glut-1 của khối u nguyên phát cũng được
tìm thấy có tương quan ý nghĩa với biểu hiện Glut-1
của hạch di căn tại chỗ tại vùng (hình 2). Những dấu
hiệu này cho thấy rằng khối u nguyên phát có một sự
liên kết với hạch di căn tại chỗ tại vùng nhưng không
tìm thấy sự liên kết với hạch lành tính về hoạt động
chuyển hóa glucose.
Ghi hình FDG-PET là một phương pháp tiềm
năng trong việc phát hiện hạch di căn tại chỗ tại
vùng trong ung thư phổi,1,2 và nhiều nhà nghiên cứu
đang cố gắng cải thiện độ chính xác chẩn đoán của
FDG-PET trong phân lập giai đoạn di căn hạch trung
thất. Hạch di căn được phân loại dựa trên mức độ
hấp thu FDG bằng hoặc lớn hơn mức độ hấp thu
FDG của máu trung thất,1,22 và thông số bán định
lượng hấp thu FDG (đại diện SUV) được tìm thấy có
khả năng phân biệt hạch trung thất di căn hay lành
tính.23,24 Tuy nhiên, do kích thước nhỏ của hạch và
hiệu ứng thể tích từng phần, maxSUV được sử dụng
để khắc phục độ phân giải tương đối thấp của hệ
thống PET,5,25 và mặc dù phương pháp định lượng
này liên quan đến kết quả của 1 pixel của một khối u,
nhưng maxSUV có thể được tin cậy vì kết quả thay
đổi rất ít khi đo lường.13,26 Trong nghiên cứu này, giá
trị trung bình maxSUV của hạch di căn là khoảng ½
giá trị maxSUV của khối u nguyên phát, kết quả này
tương hợp với một báo cáo gần đây cho rằng tỉ lệ
maxSUV hạch/khối u nguyên phát = 0,58 (từ 0,32–
1,61) có thể được sử dụng để tiên đoán sự hiện diện
hạch di căn tại chỗ tại vùng trong UTPKTBN.13
Tuy nhiên, trong nghiên cứu trước đây, những
hạch lành tính được tìm thấy có tỉ lệ maxSUV hạch /
khối u nguyên phát là 0,40 (từ 0,21–1,10) và như vậy
đã có sự trùng lắp tỉ lệ maxSUV của hạch di căn và
hạch lành tính khi phân tích vùng dưới đường cong
(từ 0,40–0,57).13 Chúng tôi xem xét rằng maxSUV
của hạch có lẽ chĩ sẽ có tương quan với maxSUV
của khối u khi maxSUV của khối u có giá trị cao
(hình 6A) và khi khối u hấp thu FDG thấp, thì mức
độ hấp thu FDG của hạch tại chỗ tại vùng sẽ khó mà
phân biệt đây là hạch lành tính và hay hạch di căn
(hình 5).
Hạch lành tính hấp thu FDG là một vấn đề quan
trọng cần được quan tâm trên hình ảnh PET. Biểu
hiện Glut-1 ở trung tâm nang là lý do được đề nghị
để giải thích hạch lành tính dương tính trên ghi hình
PET.14 Tuy nhiên, không tìm thấy sự tương quan tỉ lệ
giữa mức độ loạn sản nang và hấp thu FDG trong
nghiên cứu của chúng tôi trước đây.15 Chúng tôi tin
rằng hạch lành tính dương tính trên PET có mức
độ loạn sản nang cao và mức độ biểu hiện Glut-1
cao hơn những hạch lành tính âm tính thật sự trên
PET,14 nhưng độ phân giải thấp của hệ thống PET
và hiệu ứng thể tích 1 phần đã cản trở việc làm sáng
tỏ quan hệ tương xứng giữa loạn sản nang và hấp
thu FDG.15 Trong nghiên cứu này, chúng tôi cho rằng
biểu hiện Glut-1 những tế bào trung tâm nang có lẽ
quyết định mức độ hấp thu FDG trong những hạch
lành tính và đến nay đã không có những giải thích
tốt để lý giải việc hấp thu FDG trong những hạch
lành tính. Mặc khác, chúng tôi đã không chú ý những
bệnh lý hạch lành tính khác, như histiocytosis và sắc
tố than (anthracotic pigmentation),15 lao,27 hoặc phản
ứng sarcoid28–30. Phản ứng sarcoid trong những hạch
trung thất từng được báo cáo như là nguyên nhân
gây nên dương tính giả ở bệnh nhân đang có bệnh
ác tính.28–30 Hơn nữa, dấu hiệu hóa mô miễn dịch đặc
hiệu khối u ở các hạch lành tính với phản ứng sarcoid
có lẽ dẫn dắt một cảm nghĩ rằng bệnh lý hạch trung
thất lành tính có lẽ liên quan đến vài đặc tính u.28
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 07 - 03 / 2012196
nghiên CỨU KHoa HỌC
Một dấu hiệu khác của nghiên cứu này là sự
tương quan giữa khối u nguyên phát và hạch lành
tính về biểu hiện % Glut-1 (hình 4) đòi hỏi sự giải
thích thật trọng. Tỉ lệ tế bào trung tâm nang dương
tính với Glut-1 trong những hạch lành tính được tìm
thấy tương quan với tỉ lệ tế bào u dương tính với
Glut-1 trong khối u nguyên phát, nhưng giá trị r2 bằng
0,1492 nhận được chỉ định rằng biên độ biểu hiện %
Glut-1 dương tính trong hạch lành tính sẽ khó được
tiên đoán nhờ % dương tính Glut-1 của khối u. Hơn
nữa, cường độ bắt màu nhuộm Glut-1 là một thông
số quan trọng khác của tình trạng chức năng Glut-1
không được tìm thấy tương quan giữa khối u nguyên
phát và hạch lành tính.
Hạch ác tính biểu hiện âm tính trên hình ảnh
FDG-PET đã không bao gồm trong nghiên cứu này,
bởi vì mục tiêu nghiên cứu này là xác định sự tương
quan của khối u nguyên phát với hạch dương tính
trên hình ảnh PET về mức độ hấp thu FDG và biểu
hiện Glut-1. Nói chung, sự hấp thu FDG ở các tổn
thương, lành tính hay ác tính bị ảnh hưởng bởi một
số yếu tố,18 và vì vậy thật khó khăn để xác định yếu
tố nào là quyết định chính yếu đến hấp thu FDG. Tuy
nhiên, về khối u nguyên phát và hạch di căn tại chỗ
tại vùng trong UTPKTBN, đã thấy bằng chứng rằng
mức độ hấp thu FDG càng cao được giải thích bởi
sự gia tăng biểu hiện Glut-1.
Giới hạn của nghiên cứu này liên quan đến xác
định vị trí tổn thương dương tính trên PET qua phẫu
thuật lấy bệnh phẩm làm giải phẫu bệnh. Việc xác
định chính xác vị trí các hạch khó quyết định trong
vài trường hợp.
v. KẾt LUận
Tương quan cao được tìm thấy giữa khối u nguyên
phát và hạch di căn tại chỗ tại vùng trong UTPKTBN
về mức độ hấp thu FDG và biểu hiện Glut-1. Tương
quan về mức độ hấp thu FDG giữa khối u nguyên phát
và hạch di căn tại chỗ tại vùng là một thông tin giá trị
để phân biệt hạch di căn hay hạch lành tính trên hình
ảnh PET.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vansteenkiste JF, Stroobants SG, De Leyn PR,
et al. Mediastinal lymph node staging with FDG-
PeT scan in patients with potentially operable
non-small cell lung cancer: a prospective analysis
of 50 cases. Leuven Lung Cancer Group. Chest
1997;112 :1480–6.
2. Lardinois D, Weder W, Hany TF, et al. Staging
of non-small-cell lung cancer with integrated
positron-emission tomography and computed
tomography. N Engl J Med 2003; 348 :2500–7.
3. Higashi K, Ueda Y, Sakurai A, et al. Correlation
of Glut-1 glucose transporter expression with
[18F]FDG uptake in non-small cell lung cancer.
Eur J Nucl Med 2000;27 :1778–85.
4. Chung JK, Lee YJ, Kim SK, Jeong JM, Lee DS,
Lee MC. Comparison of [18F]fluorodeoxyglucose
uptake with glucose transporter-1 expression
and proliferation rate in human glioma and non-
small-cell lung cancer. Nucl Med Commun 2004;
25:11–7.
5. Mamede M, Hig ashi T, Kitaichi M, et al. [18F]
FDG uptake and PcNA, Glut-1, and hexokinase-II
expressions in cancer s and inflammatory lesions
of the lung. Neoplasia 2005; 7:369–79.
6. Higashi K, Ueda Y, Ayabe K, et al. FD G PET in
the evaluation of the aggressiveness of pulmonary
adenocarcinoma: correlation with his topatholog
ical features. Nucl Med Commun 2000; 21:707–
14.
7. Vansteenkiste JF, Stroobants SG, Dupont PJ,
et al. Prognostic importance of the standardized
uptake value on (18)F-fluoro-2-deox y-glucose-
positron emission tomography scan in non-
small-cell lung cancer: an analysis of 125 cases.
Leuven Lung Cancer Group. J Clin Oncol 1999;
17:3201–6.
8. Higashi K, Ueda Y, Arisaka Y, et al. 18F-
FDG uptake as a biologic prognostic factor for
recurrence in patients with surgically resected
non-small cell lung cancer. J Nucl Med 2002;
43:39–45.
9. Jeong HJ, Min JJ, Park JM, et al. Determination of
the prognostic value of [(18)F]fluorodeoxyglucose
uptake by using positron emission tomography
in patients with non-small cell lung cancer. Nucl
Med Commun 2002;23 :865–70.
10. Sasaki R, Komaki R, Macapinlac H, et al. [18F]
fluorodeoxyglucose uptake by positron emission
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 07 - 03 / 2012 197
nghiên CỨU KHoa HỌC
tomography predicts outcome of non-small-cell
lung cancer. J Clin Oncol 2005;23 :1136–43.
11. Nguyen XC, Lee WW, Chung JH, et al. FDG
uptake, glucose transporter type 1, and Ki-
67 expressions in non-small-cell lung cancer:
correlations and prognostic values. eur J Radiol
2007; 62:214–9.
12. Higashi K, Ito K, Hiramatsu Y, et al. 18F-
FDG uptake by primary tumor as a predictor of
intratumoral lymphatic vessel invasion and lymph
node involvement in non-small cell lung cancer:
analysis of a multicenter study. J Nucl Med 2005;
46:267–73.
13. cerfolio RJ, Bryant AS. Ratio of the maximum
standardized uptake value on FDG-PeT of the
mediastina l (N2) lymph nodes to the primary tumor
may be a universal predictor of nodal malignancy
in patients with non-small-cell lung cancer. Ann
Thorac Surg 2007;83 :1826–9 [discussion 1829-
30].
14. Chung JH, Cho KJ, Lee SS, et al.
Overexpression of Glut1 in lymphoid follicles
correlates with false-positive (18)F-FDG PeT
results in lung cancer staging. J Nucl Med 2004;
45 :999–1003.
15. Chung JH, Lee WW, Park SY, et al. FDG
uptake and glucose transporter type 1 expression
in lymph nodes of non-small cell lung cancer. eur
J Surg Oncol 2006; 32:989–95.
16. Lee WW, Chung JH, Jang SJ, et al.
consideration of serum glucose levels during
malignant mediastinal lymph node detection in
non-small-cell lung cancer by FDG-PeT. J Surg
Oncol 2006;94 :607–13.
17. Song YS, Lee WW, Chung JH, Park SY, Kim
YK, Kim SE. Correlation between FD G uptake
and glucose transporter type 1 expression
in neuroendocrine tumors of the lung. Lung
Cancer 2008; in press. doi:10.1016/j.lungc
an.2007.11.012.
18. Wahl R. Principles of cancer imaging with
fluorodeoxyglucose. In: Wahl R, editor. Principles
and practice of positron emission tomography.
Philadelphia: Lippincott Williams and Wilkins;
2002. p. 100–10.
19. .
20. Mountain cF, Dresler cM. Regional lymph
node classification for lung cancer staging. Chest
1997;111 :1718–23.
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát tương quan giữa mức độ hấp thu 2-deoxy-2-F18-fluoro-D-glucose (FDG) qua trung
gian glucose transporter type 1 (Glut-1) của khối u nguyên phát và hạch di căn tại chỗ tại vùng trong ung thư
phổi không tế bào nhỏ.
Đối tượng: 126 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ (Nam:Nữ = 103:23, tuổi = 65 ± 9,7) có chụp
FDG-PET trải qua phẫu thuật cắt bỏ khối u và nạo hạch tại chỗ tại vùng từ tháng 08/2003 đến 07/2006.
Phương pháp: Giá trị hấp thu chuẩn tối đa (maxSUV) trên hình ảnh PET và biểu hiện Glut-1 trên kết quả
hóa mô miễn dịch của khối u nguyên phát và hạch di căn tại chỗ tại vùng được so sánh.
Kết quả: Tương quan ý nghĩa đã được tìm thấy giữa hạch di căn và khối u nguyên phát về mức độ hấp
thu maxSUV (r = 0,6451, p < 0,0001), mức độ biểu hiện %Glut-1 (r = 0,8341, p < 0,0001) và cường độ bắt
màu Glut-1 (p = 0,827, p 6, giá trị vùng
dưới đường cong để phân biệt hạch di căn tại chỗ tại vùng với hạch lành tính là cao có ý nghĩa (AUC = 0,775,
p = 0,0001).
Kết luận: Tương quan cao mức độ hấp thu FDG qua trung gian Glut-1 giữa khối u nguyên phát và hạch
di căn tại chỗ tại vùng có lẽ hữu ích trong việc sử dụng hình ảnh PET để phân biệt hạch di căn tại chỗ tại vùng
với hạch lành tính trong ung thư phổi không tế bào nhỏ.
Từ khóa: Ung thư phổi không tế bào nhỏ, FDG-PET, hạch, Glucose transporter.
NGƯỜI THẨM ĐỊNH: GS.TS Phan Sỹ An
Các file đính kèm theo tài liệu này:
tuong_quan_cao_ve_muc_do_hap_thu_2_deoxy_2_f18_fuoro_d_gluco.pdf