Tương quan giữa mật độ trưởng thành đực vào bẫy pheromone giới tính và tỷ lệ gây hại của sâu tơ (plutella xylostella) trên ruộng rau cải

Từ kết quả theo d i diễn biến mật độ của P. xylostella trong một vụ cải cho thấy có thể thực hiện bằng phương pháp đặt bẫy pheromone giới tính tổng hợp với hàm lượng 0,1 mg pheromone/bẫy, mỗi ruộng cải đặt 4 bẫy pheromone trong suốt vụ cải (kéo dài từ 28 đến 63 ngày, tùy thuộc và giống cải), chỉ 0,4 mg pheromone được dùng cho khảo sát diễn biến mật độ quần thể của P. xylostella ở một địa điểm. Pheromone giới tính tổng hợp được xem là công cụ hữu hiệu để khảo sát động thái quần thể của côn trùng, từ đó cung cấp thông tin cho việc xây dựng các chương trình quản lý dịch hại hiệu quả (Wakamura, 1992; Ando et al., 2004; Ando and Yamakawa, 2011). Hàng năm ước tính có hơn 10 triệu mồi pheromone được ứng dụng để khảo sát động thái quần thể của côn trùng gây hại trên hơn một triệu ha cây trồng (Witzgall et al., 2010). Kết hợp số lượng trưởng thành vào bẫy pheromone với tỷ lệ gây hại trực tiếp trên đồng ruộng để xác định ngưỡng tác động (action threshold), thông qua phương trình hồi quy tuyến tính đã được áp dụng trên một số loài sinh vật hại cây trồng (Mudavanhu et al., 2011; Cross et al., 2009; Vang et al., 2018). Kết quả khảo sát cho thấy số lượng trưởng thành P. xylostella đực vào bẫy pheromone có tương quan chặt với tỷ lệ lá bị hại với hệ số tương quan r = 0,74 – 0,94) và tỷ lệ diện tích lá bị hại (r = 0,79 – 0,98) (hình 2, 3, 4 và 5), chứng tỏ thông tin về số lượng trưởng thành đực vào bẫy pheromone giới tính có thể được tham khảo để xác định thời điểm ra quyết định phòng trừ đối với sâu tơ. Ở tỷ lệ gây hại ước tính 40% (đối với tỷ lệ lá bị hại) và 5% (đối với tỷ lệ diện tích lá bị hại) số lượng trưởng thành đực vào bẫy pheromone tương ứng trên từng ruộng cải bắp, cải bông, cải bắp ve và cải ngọt là 44,1; 55,5; 92,4 và 5,1 con/bẫy/tuần (cho tỷ lệ lá bị hại) và 135,5; 374,5; 53,5 và 0,9 con/bẫy/tuần (cho tỷ lệ lá diện tích bị hại) (bảng 3).

pdf9 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tương quan giữa mật độ trưởng thành đực vào bẫy pheromone giới tính và tỷ lệ gây hại của sâu tơ (plutella xylostella) trên ruộng rau cải, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV – Số 1/2019 23 5. Nguyễn Thị Thu Cúc, 2015. Côn trùng, nhện gây hại cây ăn quả tại Việt Nam và thiên địch. Nhà Xuất bản Đại học Cần Thơ, 623 trang. 6. Trần Thanh Thy , Lê Văn Vàng, Nguyễn Lộc Hiền và Nguyễn Hữu Minh Tiến, 2016. Nghiên cứu ứng dụng hóa chất tín hiệu để quản lý ngài Hellula undalis Fabricius (Lepidoptera: Crambidae) hại rau cải tại Đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, Số chuyên đề (3): 200-209. 7. Trần Trọng D ng, Phạm Văn Sol, Châu Nguyễn Quốc Khánh, Trần V Phến và Lê Văn Vàng, 2017. Tình hình gây hại, đặc điểm hình thái và sinh học của sâu đục quả Citripestis sagittiferalis gây hại bưởi ở Đồng bằng sông Cửu Long. Tạp Chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 52b: 64-69. 8. Ando, T., S. Inomata and M. Yamamoto, 2004. Lepidopteran sex pheromones. Topics Current Chemistry. 239:51-96. 9. Douangvilavanh Keomanivone, 2018. “Khảo sát ảnh hưởng của một số hóa chất tín hiệu đối với sùng khoai lang, Cylas formicarius (Coleoptera: Curculionidae)”. Luận văn Thạc sĩ khoa học, chuyên ngành Bảo vệ Thực vật, Khoa Nông nghiệp và Sinh học Ứng dụng, trường Đại học Cần Thơ, 36 trang. 10. Pinheiro, P.F., Queiroz, V.T., Rondelli, V. M., Costa, A. V., Marcelino, T. P. and Pratissoli, D., 2013. Insecticidal activity of citronella grass essential oil on Frankliniella schultzei and Myzus persicae. Agricultural Sciences, 37(2): 413-454. 11. Shivankar, V.J. and Singh, S. , 2005. Insect pests of citrus and magagement. Kalyani Publishers, New Delhi: 122-123. 12. Tripathi, A.K., Upadhyay, S., Bhuiyan, M. and Bhattacharya, B. R., 2009. A review on prospect of essential oils as biopesticide in insect-pest managenment. Academic, 1(5): 052-063. Phản biện: TS. Nguyễn Văn Liêm TƢƠNG QUAN GIƢA MẬT ĐỘ TRƢỞNG THÀNH ĐỰC VÀO BẪY PHEROMONE GIỚI TÍNH VÀ TỶ LỆ GÂY HẠI CỦA SÂU TƠ (Plutella xylostella) TRÊN RUỘNG RAU CẢI Correlation between Numbers of Captured Males by Sex Pheromone Trap and Damage Ratio of the Diamond Back moth (Plutella xylostella) in Cruciferous Vegetable Fields Đinh Thị Chi 2 , Châu Nguyễn Quốc Khánh 1 , Hồ Trọng Nghĩa 1 và Lê Văn Vàng 1 Ngày nhận bài: 18.02.2019 Ngày chấp nhận: 05.3.2019 Abstract The Diamond back moth (Plutella xylostella) is one of the destructive insect pests of cruciferous vegetables. In order to supply basic information for establishment of effective management program, dynamics of population and damage of P. xylostella were monitored at brassica vegetable fields in Vinh Long and Soc Trang provinces by use of sex pheromone traps and field survey. P. xylostella presented and damaged at surveyed fields through out the crop season with the dynamics of population and damage kept at low level at the early crop season and then gradually increased until before harvest (exception at broccoli field). Furthermore, the numbers of captured males tightly correlated with damage ratios (correlation coefficient r = 0.74- 0.98) indicating that sex pheromone trap is able to be utilize as tool for monitoring the popualtion dynamics and supplying action threshold for timing control of P. xylostella in field. Keywords. Action threshold, diamond back moth, monitoring, Plutella xylostella, sex pheromone 1. Khoa Nông nghiệp, Trường Đại học Cần Thơ 2. Khoa Nông nghiệp, Trường Cao đẳng Cộng đồng Sóc Trăng Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV – Số 1/2019 24 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Sâu tơ, Plutella xylostella Linnaeus (Lepidoptera: Plutellidae), là loài côn trùng gây hại lá quan trọng trên họ rau thập tự (Brassicaceae) ở Đông Nam Á và khắp các địa điểm trồng rau cải trên thế giới (Waterhouse, 1993). Tại Việt Nam, P. xylostella được ghi nhận gây hại trên nhiều loại rau cải như cải bắp, cải bẹ trắng, cải ngọt, cải bông và cải rổ, nghiêm trọng nhất là trên cải bắp và cải bông (Nguyễn Văn Huỳnh, Lê Thị Sen, 2013). Khi hiện diện ở mật độ cao sâu tơ có thể làm tán lá xơ xác hoặc chỉ còn lại phần gân lá, sự gây hại có thể làm giảm từ 30-50% năng suất (Nguyễn Đức Khiêm, 2006). Nguy hiểm hơn, P. xylostella đã kháng với 95 gốc thuốc trừ sâu trong 866 trường hợp được ghi nhận (APRD, 2018). Do tính kháng thuốc, nông dân canh tác rau cải thường phải phun thuốc trừ sâu ở liều lượng và tần suất cao để phòng trừ sâu tơ. Do hầu hết rau cải là rau ăn lá, có thể ăn tươi hoặc nấu chín, nên bên cạnh sự phá hại trực tiếp, dư lượng của các loại thuốc bảo vệ thực vật hóa học dùng để phòng trị sâu tơ c ng ảnh hưởng đến chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm của rau cải. Từ năm 2005, Đồng Bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã trở thành vùng trồng rau trọng điểm, trong đó rau cải đang ngày càng được trồng phổ biến. Việc hình thành và mở rộng của những vùng chuyên sản xuất rau cải theo hướng GAP và hữu cơ, đòi hỏi biện pháp quản lý sự gây hại của sâu tơ phải được thực hiện theo hướng tổng hợp, an toàn và bền vững. Pheromone giới tính là hóa chất tín hiệu được cá thể tiết ra môi trường để thu hút các cá thể khác giới trong loài cho hoạt động giao phối (Lê Văn Vàng, 2016). Do tính chuyên tính cao, pheromone giới tính được xem là công cụ hữu hiệu để khảo sát biến động mật độ quần thể của côn trùng gây hại cây trồng, từ đó cung cấp thông tin cơ sở cho việc xây dựng chương trình quản lý hiệu quả (Ando and Yamakawa, 2011; Witzgall, 2010). Pheromone giới tính của P. xylostella được xác định gồm các thành phần (Z)-11-hexadecenal (Z11-16:Ald), (Z)-11- hexadecenyl acetate (Z11-16:OAc) và (Z)-11- hexadecen-1-ol (Z11-16:OH) (Tamaki et al., 1977; Ando et al., 1979). Pheromone giới tính tổng hợp đã được ứng dụng thành công trong khảo sát động thái quần thể, bẫy tập hợp (mass trapping) và quấy rối sự giao phối (mating disruption) của P. xylostella (Reddy and Urs, 1997; Reddy and Guerrero, 2000; Schroeder et al., 2000). Bằng việc sử dụng phản ứng Wittig chọn lọc, Chi and Vang (2018) đã tổng hợp và đánh giá hiệu quả hấp dẫn trên đồng ruộng của các thành phần pheromone giới tính đối với sâu tơ tại tỉnh Sóc Trăng. Dưới đây xin trình bày kết quả đánh giá hàm lượng pheromone giới tính thích hợp và ứng dụng bẫy pheromone giới tính để theo d i diễn biến mật độ sâu tơ trên các ruộng cải ở tỉnh Sóc Trăng và tỉnh Vĩnh Long. 2. VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Hóa chất Pheromone giới tính tổng hợp của P. xylostella, các hợp chất (Z)-11-hexadecen-1-ol (Z11-16:OH), (Z)-11-hexadecenal (Z11-16:Ald) và (Z)-11-hexadecenyl acetate (Z11-16:OAc) với độ tinh khiết >96%, được cung cấp từ nghiên cứu của Chi and Vang (2018). 2.2 Ngài P. xylostella Ấu trùng của P. xylostella được thu trên các ruộng cải bắp ở huyện Bình Tân (tỉnh Vĩnh Long) và ở quận Cái Răng (thành phố Cần Thơ) đem về phòng thí nghiệm Phòng trừ sinh học, Khoa Nông nghiệp, trường đại học Cần Thơ (ĐHCT). Sâu được nuôi trong hộp nhựa nhỏ (kích thước 12× 10× 7 cm) với thức ăn là lá cải tươi (trồng tại nhà lưới) cho đến khi hóa nhộng. Mỗi nhộng được tách ra nuôi riêng trong từng hộp nhựa nhỏ (4× 2,5× 3,5 cm) bên trong có đặt miếng bông gòn ướt để giữ ẩm cho đến khi v hóa. Trưởng thành sau khi v hóa được phân biệt giới tính bằng cách quan sát màu sắc của vân cánh và hình dạng của đốt bụng cuối theo phương pháp của Chen et al. (2011) và được nuôi bằng dung dịch mật ong 10%. 2.3 Mồi và bẫy pheromone - Đối với mồi pheromone giới tính tổng hợp: gồm các hợp chất Z11-16:Ald, Z11-16:OAc và Z11-16:OH được pha loãng trong n-hexane tinh khiết (Merk) ở nồng độ 10 mg/ml và 100 mg/ml theo tỷ lệ 5:5:1 tương ứng (Chi and Vang, 2018). Dùng microsyringe hút một lượng dung dịch tương ứng với khối lượng thử nghiệm nhồi vào tuýp cao su (đường kính 3 mm, dài 1,5 cm) để làm mồi pheromone. Sau khi đặt trong tủ hút (fumehood) 10 phút để bay hơi dung môi, tuýp cao su được gói lại bằng giấy nhôm và bảo quản Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV – Số 1/2019 25 trong ngăn mát của tủ lạnh cho đến khi tiến hành thí nghiệm (hình 1A). - Đối với mồi là ngài cái chưa giao phối (virgin female): ngài cái được nhốt trong rổ lưới kim loại dùng để lược trà bên trong có treo một mẩu bông gòn tẩm dung dịch nước đường 10% để làm thức ăn với miệng rổ được đậy bằng giấy bìa cứng (hình 1B). Hình 1. Đánh giá sự hấp dẫn của bẫy pheromone đối với P. xylostella. (A) Mồi hấp dẫn bằng pheromone tổng h p; (B) Mồi hấp dẫn bằng ngài cái chƣa giao phối; (C) Bẫy đặt trên ruộng thí nghiệm Trên ruộng cải thí nghiệm, mồi pheromone được đặt vào giữa tấm dính của bẫy dính có mái che (30 x 27 cm, Takeda Chemical Ind. Ltd.Osaka, Nhật Bản). Bẫy được treo trên hai thanh tre cắm chéo nhau, cách mặt liếp trồng cải 0,5 m (hình 1) và được treo vào lúc chiều mát. Đối với bẫy đối chứng dương là ngài cái chưa giao phối, rổ lưới kim loại đựng ngài được thay mới 3 - 4 ngày/lần. 2.4 Khảo sát hàm lƣ ng hấp dẫn hiệu quả của pheromone giới tính đối với P. Xylostella Thí nghiệm được bố trí theo phương pháp khối hoàn toàn ngẫu nhiên một nhân tố với 9 công thức gồm 7 hàm lượng pheromone, ngài cái chưa giao phối và đối chứng. Mỗi công thức được lặp lại 3 lần. Mỗi lần lặp lại của một công thức là một bẫy pheromone. Bẫy được đặt trên ruộng thí nghiệm ở khoảng cách 8 m × 16 m (tương ứng bẫy/128 m 2 ). Bẫy được đặt với tuýp cao su nhồi 5 µl n-hexane được dùng làm nghiệm thức đối chứng âm, còn bẫy được đặt mồi là một ngài P. xylostella cái chưa giao phối được dùng làm đối chứng dương. 2.5 Điều tra diễn biến mật độ quần thể và sự gây hại của sâu tơ trên ruộng cải Từ kết quả ghi nhận ở Mục 2.4, bẫy pheromone với hàm lượng 0,1 mg được sử dụng để khảo sát diễn biến mật độ quần thể và sự gây hại của P. xylostella. Việc khảo sát được thực hiện tại 2 ruộng cải ở huyện Mỹ Xuyên (tỉnh Sóc Trăng) và 2 ruộng cải ở huyện Bình Tân (tỉnh Vĩnh Long). Đặc điểm của các ruộng cải thí nghiệm được trình bày trong bảng 1. Trên mỗi ruộng thí nghiệm tiến hành đặt 4 bẫy pheromone ở thời điểm khoảng từ 7 - 14 ngày sau khi trồng. Ghi nhận số lượng ngài P. xylostella đực vào bẫy, tỷ lệ lá bị hại trên cây và tỷ lệ diện tích lá bị hại một lần/tuần cho đến tuần trước khi thu hoạch. Điều tra sự gây hại của sâu tơ trên ruộng cải theo phương pháp 5 điểm chéo góc (4 điểm ngoại vi và 1 điểm trung tâm), tại mỗi điểm ghi nhận tỷ lệ lá bị hại và tỷ lệ diện tích lá bị hại trên 3 cây cải ở cùng thời điểm ghi nhận số lượng trưởng thành đực vào bẫy. Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV – Số 1/2019 26 Bảng 1. Một số đặc điểm của ruộng cải đƣ c dùng trong hảo sát diễn biến mật độ quần thể và sự gây hại của sâu tơ P. xylostella Ruộng Loại cây Diện tích (m 2 ) Địa điểm Thời gian khảo sát 1. Cải bắp 1.000 xã Tham Đôn, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng. 01/04/2018 đến 02/06/2018 2. Cải bông 2.200 xã Tham Đôn, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng. 07/04/2018 đến 02/06/2018 3. Cải bắp ve 1.200 xã Thành Lợi, huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long 18/09/2018 đến 23/10/2018 4. Cải ngọt 1.200 xã Thành Lợi, huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long 16/09/2018 đến 14/10/2018 2.6 Xử lý số liệu Số liệu thu thập từ các thí nghiệm được xử lý bằng chương trình Microsoft Office Excel 2003 và thống kê bằng chương trình SPSS. 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1 Hiệu quả hấp dẫn của pheromone giới tính tổng h p ở các hàm lƣ ng hác nhau đối với trƣởng thành P. xylostella Kết quả trình bày ở bảng 2 cho thấy tất cả các công thức thí nghiệm có mồi pheromone ở dãy hàm lượng từ 0,01 mg/tuýp đến 1,0 mg/tuýp đều có số lượng trưởng thành P. xylostella đực vào bẫy cao hơn so với nghiệm thức đối chứng âm (tuýp cao su nhồi 5 µl n-hexane). Giữa các hàm lượng pheromone thử nghiệm, các hàm lượng từ 0,01 - 0,3 mg là có số lượng trưởng thành P. xylostella đực vào bẫy tương đương với công thức đối chứng dương (một ngài cái chưa giao phối). Các hàm lượng từ 0,5 - 1,0 mg có số lượng trưởng thành P. xylostella đực vào bẫy thấp hơn so với đối chứng dương. Điều này cho thấy ngài P. xylostella hấp dẫn với hàm lượng pheromone ở mức thấp. Bảng 2. Số lƣ ng trƣởng thành P. xylostella (con) vào bẫy pheromone với mồi hấp dẫn ở các hàm lƣ ng hác nhau Công thức Hàm lượng (mg/tuýp) Con/bẫy/tuần (1) 1 0,01 134,2 ± 71,3 a 2 0,05 139,5 ± 69,8 a 3 0,1 107,3 ±65,2 ab 4 0,3 63,0 ± 25,3 bc 5 0,5 53,8 ± 33,2 c 6 0,7 59,8 ± 33,8 c 7 1,0 50,5 ± 23,3 c 8 01 TT cái chưa giao phối (2) 95,0 ± 41,6 ab 9 5 µl n-hexane 0,0 ± 0,0 d CV 13,9% Ghi chú: (1) Trung bình quy đổi trở lại của log (x+1 . Giá trị trong cột có cùng một ký tự theo sau thì không khác biệt ở mức ý nghĩa 1% theo phép thử Duncan; (2) Trưởng thành cái chưa b t cặp được thay 3- 4 ngày/lần. Pheromone giới tính của P. xylostella được xác định gồm hai thành phần là Z11-16:Ald và Z11-16:OAc (Tamaki et al., 1977). Khảo sát sự hấp dẫn trên đồng ruộng đã bổ sung hợp chất Z11-16:OH như là thành phần bổ trợ (auxiliary component) (Ando et al., 1979). Kết quả tổng Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV – Số 1/2019 27 hợp và đánh giá hiệu quả hấp dẫn ngoài đồng của Chi and Vang (2018) cho thấy P. xylostella ở ĐBSCL đáp ứng đồng thời với cả ba thành phần pheromone ở tỷ lệ giữa các thành phần là 5:5:1. Kết quả khảo sát trình bày trong bảng 2 cho thấy ngài P. xylostella đực đáp ứng với pheromone ở hàm lượng thấp (từ 0,01 – 0,1 mg). Mặc dù số lượng trưởng thành P. xylostella đực vào bẫy ở các hàm lượng từ 0,01 – 0,1 mg không có sự khác biệt giữa các công thức, hàm lượng 0,1 mg được lựa chọn cho khảo sát diễn biến mật số quan thể vì để đảm bảo thời hoạt động của mồi pheromone trên đồng ruộng trong suốt vụ cải (không phải thay mồi cho bẫy). 3.2. Diễn biến mật số quần thể và sự gây hại của P. xylostella a Trên ruộng cải b p Kết quả khảo sát diễn biến mật độ và mức độ gây hại của P. xylostella trên ruộng cải bắp ở huyện Mỹ Xuyên (tỉnh Sóc Trăng) từ ngày 01/4/2018 – 02/06/2018 được trình bày trong hình 2. Số lượng trưởng thành đực vào bẫy và sự gây hại của P. xylostella hiện diện trong suốt vụ cải với diễn biến mật độ tương tự nhau và ở mức độ thấp cho đến 42 ngày sau khi trồng (trung bình 15,2 con/bẫy/tuần, 24,7% và 1,4%). Sau đó gia tăng đến cuối vụ (85,3 con/bẫy/tuần, 57,2% và 3,4%) (hình 2A). Qua phân tích tương quan giữa số lượng trưởng thành vào bẫy với tỷ lệ lá bị hại và với tỷ lệ diện tích lá bị hại cho kết quả tương quan chặt với hệ số tương quan r = 0,84 (hình 2B) và 0,79 (hình 2C), tương ứng. Hình 2. Diễn biến số lƣ ng trƣởng thành P. xylostella vào bẫy pheromone, tỷ lệ lá bị hại và tỷ lệ diện tích lá bị hại (A) trên ruộng cải bắp ở huyện Mỹ Xuyên (tỉnh Sóc Trăng) và tƣơng quan giữa các yếu tố trên (B và C) b Trên ruộng cải bông Diễn biến mật độ trưởng thành đực vào bẫy và sự gây hại của sâu tơ trên ruộng cải bông tại huyện Mỹ Xuyên (tỉnh Sóc Trăng) được trình bày trong Hình 3. Tương tự như trên ruộng cải bắp, P. xylostella hiện diện và gây hại trong suốt vụ cải bông. Tỷ lệ lá bị hại và diện tích lá bị hại giảm dần từ 14 ngày sau khi trồng cho đến cuối vụ trong khi số lượng trưởng thành đực vào bẫy tạo thành một cao điểm tới 88,3 con/bẫy vào thời điểm 28 ngày sau khi trồng, sau đó giảm dần cho đến cuối vụ. Mặt dù, diễn biến mật độ trưởng thành đực vào bẫy và sự gây hại có sự khác biệt ở các thời điểm 14 và 28 ngày sau khi trồng, đồng thời có tương quan chặt giữa số lượng trưởng thành đực vào bẫy và tỷ lệ lá bị hại (r = 0,84) hoặc tỷ lệ diện tích lá bị hại (r = 0,79) (hình 3B và 3C). Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV – Số 1/2019 28 Hình 3. Diễn biến số lƣ ng trƣởng thành P. xylostella vào bẫy pheromone, tỷ lệ lá bị hại và tỷ lệ diện tích lá bị hại (A) ruộng cải bông ở huyện Mỹ Xuyên (tỉnh Sóc Trăng) và tƣơng quan giữa các yếu tố trên (B và C) c Trên ruộng cải b p ve Diễn biến số lượng trưởng thành đực vào bẫy và tỷ lệ gây hại của sâu tơ trên ruộng cải bắp ve ở huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh long được trình bày trong hình 4. Tương tự như trên các ruộng cải bắp và cải bông, sâu tơ c ng hiện diện và gây hại trên ruộng cải bắp ve trong suốt vụ. Tuy nhiên, số lượng trưởng thành đực vào bẫy chỉ bắt đầu tăng mạnh từ thời điểm 28 ngày sau khi trồng cho đến cuối vụ (hình 4A). Số lượng trưởng thành đực vào bẫy tương quan rất chặt với tỷ lệ lá bị hại (r = 0,94) và tỷ lệ diện tích lá bị hại (r = 0,98) (hình 4B và 4C). d Trên ruộng cải ngọt Hình 4. Diễn biến số lƣ ng trƣởng thành P. xylostella vào bẫy pheromone, tỷ lệ lá bị hại và tỷ lệ diện tích lá bị hại (A) ruộng cải bắp ve ở huyện Bình Tân (tỉnh Vĩnh Long) và tƣơng quan giữa các yếu tố trên (B và C) Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV – Số 1/2019 29 Kết quả theo d i trên ruộng cải ngọt ở huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long được trình bày trong hình 5. Diễn biến số lượng trưởng thành đực vào bẫy và tỷ lệ gây hại của sâu tơ trên ruộng cải ngọt là tương tự như trên các ruộng cải bắp và cải bắp ve, tăng dần từ đầu vụ đến cuối vụ. Phân tích tương quan cho thấy số lượng trưởng thành đực vào bẫy có tương quan chặt với tỷ lệ lá bị hại (r = 0,74) và tương quan rất chặt với tỷ lệ diện tích lá bị hại (r = 0,91) (hình 5B và 5C). Hình 5. Diễn biến số lƣ ng trƣởng thành P. xylostella vào bẫy pheromone, tỷ lệ lá bị hại và tỷ lệ diện tích lá bị hại (A) ruộng cải ngọt ở huyện Bình Tân (Vĩnh Long) và tƣơng quan giữa các yếu tố trên (B và C) Từ kết quả theo d i diễn biến mật độ của P. xylostella trong một vụ cải cho thấy có thể thực hiện bằng phương pháp đặt bẫy pheromone giới tính tổng hợp với hàm lượng 0,1 mg pheromone/bẫy, mỗi ruộng cải đặt 4 bẫy pheromone trong suốt vụ cải (kéo dài từ 28 đến 63 ngày, tùy thuộc và giống cải), chỉ 0,4 mg pheromone được dùng cho khảo sát diễn biến mật độ quần thể của P. xylostella ở một địa điểm. Pheromone giới tính tổng hợp được xem là công cụ hữu hiệu để khảo sát động thái quần thể của côn trùng, từ đó cung cấp thông tin cho việc xây dựng các chương trình quản lý dịch hại hiệu quả (Wakamura, 1992; Ando et al., 2004; Ando and Yamakawa, 2011). Hàng năm ước tính có hơn 10 triệu mồi pheromone được ứng dụng để khảo sát động thái quần thể của côn trùng gây hại trên hơn một triệu ha cây trồng (Witzgall et al., 2010). Kết hợp số lượng trưởng thành vào bẫy pheromone với tỷ lệ gây hại trực tiếp trên đồng ruộng để xác định ngưỡng tác động (action threshold), thông qua phương trình hồi quy tuyến tính đã được áp dụng trên một số loài sinh vật hại cây trồng (Mudavanhu et al., 2011; Cross et al., 2009; Vang et al., 2018). Kết quả khảo sát cho thấy số lượng trưởng thành P. xylostella đực vào bẫy pheromone có tương quan chặt với tỷ lệ lá bị hại với hệ số tương quan r = 0,74 – 0,94) và tỷ lệ diện tích lá bị hại (r = 0,79 – 0,98) (hình 2, 3, 4 và 5), chứng tỏ thông tin về số lượng trưởng thành đực vào bẫy pheromone giới tính có thể được tham khảo để xác định thời điểm ra quyết định phòng trừ đối với sâu tơ. Ở tỷ lệ gây hại ước tính 40% (đối với tỷ lệ lá bị hại) và 5% (đối với tỷ lệ diện tích lá bị hại) số lượng trưởng thành đực vào bẫy pheromone tương ứng trên từng ruộng cải bắp, cải bông, cải bắp ve và cải ngọt là 44,1; 55,5; 92,4 và 5,1 con/bẫy/tuần (cho tỷ lệ lá bị hại) và 135,5; 374,5; 53,5 và 0,9 con/bẫy/tuần (cho tỷ lệ lá diện tích bị hại) (bảng 3). Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV – Số 1/2019 30 Bảng 3. Số lƣ ng trƣởng thành P. xylostella đực vào bẫy pheromone ƣớc tính (con/bẫy/tuần) và tỷ lệ gây hại (%) trên các ruộng cải bắp, cải bông, cải bắp ve và cải ngọt Ruộng cải Số lượng trưởng thành P. xylostella đực vào bẫy ước tính (con/bẫy/tuần)* Tỷ lệ lá bị hại = 40% Tỷ lệ diện tích lá bị hại = 5% - Cải bắp 44,1 135,2 - Cải bông 55,5 374,5 - Cải bắp ve 92,4 53,5 - Cải ngọt 5,1 0,9 * Số lượng trưởng thành P. xylostella đực vào bẫy ước tính dựa vào phương trình hồi quy tuyến tính trình bày trong các Hình 2, 3, 4 và 5. 4. KẾT LUẬN Mồi hấp dẫn phối trộn giữa ba thành phần Z11-16:Ald, OAc và OH theo tỉ lệ 5:5:1 ở hàm lượng 0,01-0,1 mg/tuýp cho hiệu quả hấp dẫn tương đương với trưởng thành cái chưa bắt cặp. Sử dụng bẫy pheromone làm công cụ có hiệu quả để theo d i biến động mật độ và quần thể của sâu tơ trên một số loại cây thuộc họ thập tự tại tỉnh Sóc Trăng và Vĩnh Long. Trên ruộng cải bắp, cải bông, cải bắp ve, cải ngọt quần thể sâu tơ từ đầu vụ đến cuối vụ với diễn biến quần thể theo quy luật tăng vào cuối vụ (trừ cải bông). Số lượng trưởng thành đực vào bẫy tương quan chặt với tỷ lệ lá bị hại và tỷ lệ diện tích lá bị hại với hệ số tương quan r từ 0,74 - 0,98 cho thấy khả năng ứng dụng bẫy pheromone giới tính để dự tính dự báo, cung cấp thông tin về thời điểm hiệu quả để ra quyết định phòng trừ sâu tơ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ando, T. and Yamakawa, R, 2011. Analyses of lepidopteran sex pheromones by mass spectrometry. Trends in Analytical Chemistry, 30(7): 990-1002. 2. Ando, T., Inomata S. and Yamamoto M. 2004. Lepidopteran sex pheromones. Topics Current Chem. 239: 51-96. 3. Ando, T., Koshihara, T., Yamada, H., Vu, M. H., Takahashi, N. and Tamaki, Y., 1979. Electroantennogram activities of sex pheromone analogues and their synergistic effect on field attraction in the diamondback moth. Applied Entomology and Zoology. 14(3): 362-364. 4. APRD, 2018. Arthropod pesticide resistance database. https://www.pesticideresistance.org/ search.php 5. Chen,. Y., Tian,. H., Wei, H., Zhan, Z. and Huang, Y., 2011. A Simple Method for Identifying Sex of Plutella xylostella (Linnaeus) Larva, Pupa and Adult. Fujian Journal of Agricultral Science. 4: 25p. 6. Chi, D. T. and Vang, L. V., 2018. Synthesis and field examinations of the sex pheromone of the diamondback moth, Plutella xylostella Linnaeus (Lepidoptera: Plutellidae) in the Mekong Delta of Vietnam. Can Tho University Journal of Science, 54(5): 1-6. 7. Cross, J. V., Hall, D. R., Shaw, P. and Anfora, G., 2009. Exploitation of the sex pheromone of apple leaf midge Dasineura mali Kieffer (Diptera: Cecidomyiidae): Part 2. Use of sex pheromone traps for pest monitoring, Crop Protection 28: 128 – 133. 8. Lê Văn Vàng. 2016. Nghiên cứu và ứng dụng hóa chất tín hiệu của côn trùng trong bảo vệ thực vật ở Đồng bằng sông Cửu Long. Trong: Quản lý dịch hại cây trồng thân thiện môi trường. Nhà xuất bản Trường Đại học Cần Thơ, trang 73-102 9. Mudavanhu, P., Addison, P. and Ken, L. P., 2011. Monitoring and action threshold determination for the obscure mealybug Pseudococcus viburni (Signoret) (Hemiptera: Pseudococcidae) using pheromone-baited traps. Crop Protection, 30(7): 919-924. 10. Nguyễn Đức Khiêm, 2006. Côn trùng nông nghiệp. Nhà Xuất Bản Nông Nghiệp Hà Nội, pp: 268. 11. Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thị Sen, 2013. Côn trùng gây hại cây trồng. Nhà Xuất Bản Nông Nghiệp. pp: 286. 12. Reddy, G. V. P. and Guerrero, A., 2000. Pheromone-based integrated pest management to control the diamondback moth Plutella xylostella in cabbage fields. Pest management Science. 56(10): 882-888. 13. Reddy, G. V. P. and Urs, K. C. D., 1997. Mass trapping of diamondback moth Plutella xylostella in cabbage fields using synthetic sex pheromones. International Pest Control, 39(4): 125-126. Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV – Số 1/2019 31 14. Schroeder, P. C., Shelton, A. M., Ferguson, C. S., Hoffmann, M. P. and Petzoldt, C. H., 2000. Application of synthetic sex pheromone for management of diamondback moth, Plutella xylostella, in cabbage. Entomologia Experimentalis et Applicata. 94(3): 243-248. 15. Tamaki, Y., Kawasaki, K., Yamada, H., Koshihara, T., Osaki, N., Ando, T., Yoshida, S. and Kakinohana, H., 1977. (Z)-11-Hexadecenal and (Z)-11- hexadecenyl acetates: sex-pheromone components of the diamondback moth (Lepidoptera: Plutellidae). Applied Entomology and Zoology. 12(3): 208-210. 16. Vang, L.V., Son, P. K. and Khanh, C. N. Q., 2018. Monitoring population dynamics of the citrus pock caterpillar (Prays endocarpa) by sex pheromone traps in the Mekong Delta of Vietnam. Can Tho University Journal of Science, 54(2): 35-39. 17. Wakamura, S., 1992. Development in application of synthetic sex pheromone to pest management. Japan Pesticide Information 61: 26-31. 18. Waterhouse, D. F., 1993. The Major Arthropod Pests and Weeds of Agriculture in Southeast Asia: Distribution, Importance and Origin. ACIAR (Australian Centre for International Agricultural Research). pp: 143. 19. Witzgall, P., Kirsch, P., and Cork, A., 2010. Sex Pheromones and Their Impact on Pest Management. Journal of Chemical ecology, 36(1): 80 - 100. Phản biện: PGS.TS. Lê Văn Trịnh ĐÁNH GIÁ THÀNH PHẦN MỘT SỐ NẤM BỆNH THUỘC GIỚI PHỤ Stramenopiles TRONG ĐẤT TRỒNG TIÊU TẠI HUYỆN CƢ M’GAR TỈNH ĐĂK LĂK TỪ DỮ LIỆU TRÌNH TỰ 18S rRNA METAGENOME Identification of Composition of Some Fungal Pathogens of Stramenopiles in Blac Pepper Soils in Cƣ M’gar District of Đă Lă Province Based on 18S rRNA Metagenome Phạm Thị Thúy Hoài 1* , Trần Đình Mấn 2 , Phạm Việt Cƣờng 1 , Tôn Thất Hữu Đạt 1 và Nguyễn Văn Tụng 3 Ngày nhận bài: 12.01.2019 Ngày chấp nhận: 22.02.2019 Abstract Stramenopiles is one of the major line of eukaryotes with more than 25,000 identified species and including fungal genera that cause plant diseases such as Phytophthora and Pythium. In this study, diseased and disease- free pepper soil samples were used to assess the composition of Stramenopiles as well as the two plant pathogenic fungal genera Phytophthora and Pythium based on 18S rRNA HiSeq Illumina metagenome sequence data. The study results showed that there were differences in the composition and abundance of Stramenopiles between diseased and disease-free pepper soils. From the diseased pepper soil sample, we identified 29 species of Stramenopiles, while only 25 species of Stramenopiles were identified from non-diseased soil samples. The species of Stramenopiles in this study belonged to two classes Diatomea and Peronosporomycetes. Twenty species were detected in both diseased and non-diseased pepper soil samples, 9 species were found only in diseased soil samples and 5 species were only found in non-diseased soil samples. This study also showed that the proportion of pathogenic fungal genera in diseased pepper soil sample was higher than that of non- diseased pepper soil sample. Number of sequences of the genus Phytophthora and Pythium in diseased pepper soil sample accounted for 0.9% and 25% of Stramenopiles, respectively whereas the proportion of 1. Viện Nghiên cứu Khoa học Miền Trung – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam 2. Viện Công nghệ sinh học – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam 3. Viện Nghiên cứu hệ gen – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftuong_quan_giua_mat_do_truong_thanh_duc_vao_bay_pheromone_gi.pdf
Tài liệu liên quan