Kết quả nghiên cứu cho thấy mối liên hệ giữa số
lượng noãn thu nhận và kết cục trẻ sinh sống sau điều
trị TTTON. Trên bệnh nhân có dự trữ buồng trứng bình
thường, với cùng độ tuổi nếu thu nhận nhiều noãn hơn
giúp tăng cơ hội có kết cục trẻ sinh sống cộng dồn sau
một năm điều trị trong một chu kỳ thu nhận noãn cho
TTTON. Đồng thời, độ tuổi bệnh nhân lúc thu nhận noãn
cũng tác động đến kết quả điều trị, thể hiện với cùng số
noãn thu nhận nếu bệnh nhân càng lớn tuổi thì cơ hội có
kết cục trẻ sinh sống giảm. Điều này hoàn toàn phù hợp
với thực tế chất lượng noãn suy giảm theo sự gia tăng
của tuổi, được lý giải thông qua sự tăng các bất thường
trong cấu trúc cũng như chức năng bào quan của noãn
như thoi vô sắc, ti thể dẫn đến hình thành phôi lệch bội
hoặc thiếu hụt năng lượng cần thiết hỗ trợ phôi phát triển
qua giai đoạn đầu [6]. Như vậy, mối tương quan về số
lượng noãn thu nhận và kết cục trẻ sinh sống cần được
đặt trong bối cảnh chung về độ tuổi được thu nhận noãn.
Phạm vi của nghiên cứu tập trung ở bệnh nhân có dự
trữ buồng trứng bình thường và tiên lượng đáp ứng tốt
với kích thích buồng trứng, với AMH > 1,38 ng/ml theo
chuẩn tham khảo nghiên cứu trên người Việt Nam [7].
Ở nhóm bệnh nhân này, việc sử dụng loại thuốc và liều
lượng thuốc bổ sung nội tiết tố ngoại sinh có thể được
kiểm soát nhằm huy động số lượng nhất định nang noãn
cho mục tiêu thu nhận số noãn trưởng thành hợp lý. Một
dẫn chứng từ nghiên cứu cộng gộp của tác giả Sterrenburg và cộng sự cho thấy ở bệnh nhân dưới 39 tuổi, đáp
ứng với kích thích buồng trứng bình thường thì việc sử
dụng liều thuốc bổ sung nội tiết tố sinh dục (gonadotropin) > 200 IU/ngày có thể thu nhận được nhiều noãn hơn
và tăng nguy cơ quá kích buồng trứng nhưng lại không
cải thiện tỉ lệ thai so với việc sử dụng liều 100 - 150 IU/
ngày [8]. Tuy nhiên, nghiên cứu hiện tại của chúng tôi
không tập trung phân tích tác động của liều thuốc đối với
số lượng noãn thu nhận để liên hệ đến kết cục điều trị.
Nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc xác nhận mối tương quan
giữa số lượng noãn thu nhận và kết cục trẻ sinh sống. Từ
đó, nghiên cứu xác định 9 noãn là con số tiên lượng kết
cục có trẻ sinh sống cộng dồn sau một chu kỳ thu nhận
noãn. Đây có thể xem là số noãn mục tiêu tối thiểu cần
thu nhận trong điều kiện hiện tại để kiểm soát phác đồ
kích thích buồng trứng ở nhóm bệnh nhân trẻ tuổi với dự
trữ buồng trứng bình thường.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 12 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tương quan giữa số lượng noãn thu nhận và kết quả điều trị thụ tinh trong ống nghiệm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
54
Tương quan giữa số lượng noãn thu nhận và kết quả điều trị thụ tinh trong
ống nghiệm
Nguyễn Thị Phương Dung1,3, Phạm Thiếu Quân3, Nguyễn Khánh Linh1,3, Hồ Mạnh Tường2,3
1 Đơn vị Hỗ trợ sinh sản, Bệnh viện Mỹ Đức Phú Nhuận (IVFMD PN)
2 Đơn vị Hỗ trợ sinh sản, Bệnh viện Mỹ Đức (IVFMD)
3 Trung tâm nghiên cứu HOPE, Bệnh viện Mỹ Đức
Tóm tắt
Mục tiêu: Đánh giá tương quan giữa số lượng noãn thu nhận và kết quả thụ tinh trong ống nghiệm.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu trên 2.209 chu kỳ IVF/ICSI từ 3 trung tâm IVF tại Việt Nam
trong thời gian từ tháng 1/2015 đến tháng 5/2017. Hồi qui đa biến được sử dụng để đánh giá mối liên hệ giữa các
biến khảo sát và kết cục trẻ sinh sống cộng dồn. Đường cong ROC mô tả độ nhạy và độ đặc hiệu của việc tiên lượng
số lượng noãn thu nhận đối với kết cục trẻ sinh sống cộng dồn. Chi - square test được sử dụng để phân tích các tỉ lệ
trẻ sinh sống cộng dồn, quá kích buồng trứng và phôi còn dư sau khi đạt được một trẻ sinh sống ở các nhóm theo số
lượng noãn thu nhận.
Kết quả: Số noãn trung bình thu nhận đạt 12,23 ± 5,74. Tuổi vợ trung bình là 32,38 ± 4,33. Tỉ lệ trẻ sinh sống cộng dồn
đạt 33,3%. Số lượng noãn thu nhận và tuổi vợ có tương quan với kết cục trẻ sinh sống cộng dồn (lần lượt: OR = 1,05; 95%
CI: 1,04 - 1,07 và OR = 0,94; 95% CI: 0,92 - 0,96). Số lượng noãn thu nhận có giá trị tiên lượng thấp đối với kết cục trẻ sinh
sống cộng dồn (AUC = 0,62; 95% CI: 0,57 - 0,62). Tỉ lệ quá kích buồng trứng tăng có ý nghĩa thống kê khi số noãn thu
nhận vượt quá 12 noãn (1 - 8: 0%; 9 - 12: 0,45%; 13 - 16: 0,67% và 16 - 38: 1,64%; p < 0,001). Đồng thời, tỉ lệ trẻ sinh sống
cộng dồn và tình trạng phôi trữ đông còn dư tăng có ý nghĩa thống kê cho tới khi đạt 16 noãn rồi bão hòa (1 - 8: 22,9%
và 11,0%; 9 - 12: 33,1% và 23,6%; 13 - 16: 40,1% và 33,2%; 16 - 38: 40,3% và 32,7%, p < 0,001).
Kết luận: Số lượng noãn thu nhận có mối tương quan thuận với kết cục trẻ sinh sống cộng dồn. Việc thu nhận nhiều hơn
16 noãn làm tăng đáng kể tỉ lệ quá kích buồng trứng nhưng không cải thiện kết cục trẻ sinh sống cộng dồn. Do đó, 13
đến 16 noãn là số noãn tối ưu nhằm đạt hiệu quả và an toàn trong điều trị.
Từ khóa: IVF/ICSI, số noãn thu nhận, kết quả điều trị
Correlation between the number of retrieved oocytes and IVF/ICSI outcome
Nguyen Thi Phuong Dung1,3, Pham Thieu Quan3, Nguyen Khanh Linh1,3, Ho Manh Tuong2,3
1 IVFMD, My Duc Hospital, Phu Nhuan District, Ho Chi Minh city
2 IVFMD, My Duc Hospital
3 HOPE Research Center, My Duc Hospital
Abstract
Objectives: To assess the correlation between the number of retrieved oocytes and IVF/ICSI outcome.
Materials and Methods: This was a retrospective analysis of 2,209 IVF/ICSI cycles from three IVF centers in Vietnam
from January 2015 to May 2017. Multivariate logistic regression was used to find out variables correlating to cumula-
tive live birth (CLB). Receiver operating characteristic (ROC) curve was constructed to describe the sensitivity and spec-
ificity of the number of retrieved oocytes in the prediction of CLB. Chi-square test was used to separately assess the
association of each oocyte group with the rates of CLB, OHSS and remaining frozen embryo after achieving a live birth.
Results: The mean number of oocytes retrieved was 12.23 ± 5.74. Mean of female age was 32.38 ± 4.33 years. CLB rate
was 33.3%. The number of retrieved oocytes and female age correlated to CLB (OR = 1.05, 95% CI: 1.04 - 1.07 and OR =
0.94, 95% CI: 0.92 - 0.96; respectively). ROC curve showed that the number of retrieved oocytes was a poor predictor of
CLB (AUC = 0.62; 95% CI: 0.57 - 0.62). OHSS rate increased significantly in groups with more than 12 oocytes (1 - 8: 0%;
9 - 12: 0.45%; 13 - 16: 0.67%; 16 - 38: 1.64%; p < 0.001). Moreover, the rates of CLB and extra frozen embryos increased
significantly up to 16 oocytes, then plateaued (1 - 8: 22.9% and 11.0%; 9 - 12: 33.1% and 23.6%; 13 - 16: 40.1% and 33.2%;
doi:10.46755/vjog.2020.1.779
Tác giả liên hệ (Corresponding author): Nguyễn Thị Phương Dung, email: dung.ntp@myduchospital.vn
Nhận bài (received) 05/12/2019 - Chấp nhận đăng (accepted) 20/04/2020
Nguyễn Thị Phương Dung và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(1):54-60. doi: 10.46755/vjog.2020.1.779
NGHIÊN CỨU VÔ SINH
55Nguyễn Thị Phương Dung và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(1):54-60. doi: 10.46755/vjog.2020.1.779
16 - 38: 40.3% and 32.7%, p < 0.001).
Conclusions: The number of retrieved oocytes has a positive correlation to CLB. Retrieval of more than 16 oocytes
increases dramatically OHSS rate without improving the CLB rate. Therefore, the range of 13-16 oocytes is optimal for
achieving a favorable effectiveness and safety.
Key words: IVF/ICSI, number of retrieved oocytes, outcome
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Kết cục mong đợi sau điều trị thụ tinh trong ống ng-
hiệm (TTTON) là sinh một bé khỏe mạnh và giảm đến
mức tối thiểu các ảnh hưởng bất lợi đến bệnh nhân.
Việc kích thích buồng trứng nhằm thu nhận nhiều noãn
trưởng thành sử dụng cho thụ tinh, giúp tăng số phôi hữu
dụng, tăng cơ hội có thai cho bệnh nhân trong một chu
kỳ điều trị. Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy số
lượng noãn thu nhận là yếu tố tiên lượng cho kết cục trẻ
sinh sống sau điều trị TTTON. Trong đó, số lượng khoảng
6 đến 20 noãn cho thấy là tối ưu để đạt được kết quả
trẻ sinh sống sau TTTON [1-3]. Nếu số noãn thu nhận ít
hơn thì cơ hội có trẻ sinh sống giảm. Ngược lại, thu nhận
nhiều noãn hơn thì cơ hội có thai không cải thiện thậm
chí còn giảm trong khi lại tăng nguy cơ quá kích buồng
trứng [4], kèm theo đó là gánh nặng chi phí điều trị cho
bệnh nhân và tổn thất nguồn lực của xã hội.
Thực tế, số lượng noãn thu nhận phụ thuộc vào dự
trữ buồng trứng và đáp ứng của từng bệnh nhân với phác
đồ kích thích buồng trứng vào thời điểm điều trị. Việc
xác định số noãn mục tiêu cần thu nhận để tối ưu kết
quả điều trị và hạn chế ảnh hưởng bất lợi sẽ định hướng
phác đồ kích thích buồng trứng phù hợp cho từng bệnh
nhân. Kiểm soát số noãn mục tiêu cần thu nhận, đặc
biệt là ở nhóm bệnh nhân có dự trữ buồng trứng bình
thường, nhằm hướng đến hiệu quả và an toàn trong điều
trị TTTON. Hiện tại, dữ liệu tham khảo trên bệnh nhân
Việt Nam về vấn đề này còn hạn chế. Vì vậy, nghiên cứu
này nhằm đánh giá tương quan giữa số lượng noãn thu
nhận và kết cục trẻ sinh sống sau một chu kỳ TTTON có
kích thích buồng trứng trên bệnh nhân có dự trữ buồng
trứng bình thường.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu và quần thể bệnh
Phân tích hồi cứu trên các chu kỳ điều trị TTTON tại
Đơn vị hỗ trợ sinh sản, bệnh viện Mỹ Đức (IVFMD) từ
tháng 1 năm 2015 đến tháng 5 năm 2017. Chu kỳ điều trị
TTTON được đưa vào phân tích thỏa mãn các tiêu chí có
kích thích buồng trứng bằng phác đồ GnRH antagonist,
khởi động trưởng thành noãn bằng hCG, thụ tinh bằng kỹ
thuật tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI), đã có
ít nhất 1 lần chuyển phôi và theo dõi được diễn tiến kết
cục sau điều trị đến thời điểm trẻ được sinh. Trong đó,
các chu kỳ xin cho noãn, trữ lạnh noãn, vợ có bệnh lý bất
thường tử cung, giảm dự trữ buồng trứng, buồng trứng
đa nang hoặc chồng có tinh trùng yếu nặng bị loại khỏi
phân tích.
Kích thích buồng trứng và thu nhận noãn
Với phác đồ kích thích buồng trứng GnRH antagonist,
bệnh nhân được tiêm thuốc bổ sung FSH ngoại sinh với
liều 150 - 300 IU từ ngày 2 của chu kỳ kinh và được tiêm
GnRH antagonist từ ngày 5 của kích thích buồng trứng
cho tới ngày khởi động trưởng thành noãn bằng hCG
6500 IU (Ovitrelle 250µg – Merck) hoặc triptorelin 0,2 mg
(Diphereline, Ipsen Beaufour). Phức hợp noãn - tế bào
hạt được thu nhận vào khoảng 36 giờ sau khi tiêm hCG.
Tạo phôi, trữ lạnh – rã đông phôi và chuyển phôi
Noãn được tách khỏi tế bào hạt và tiêm tinh trùng
vào bào tương noãn (ICSI) vào khoảng 39 đến 41 giờ sau
thời điểm tiêm hCG. Noãn sau ICSI được nuôi cấy thường
quy bằng môi trường đơn bước Global®Total®LP (Life-
Global) ở điều kiện 37oC, 5%CO2 và 5%O2 đến thời điểm
phôi ngày 3 hoặc ngày 5. Chất lượng phôi được phân loại
dựa trên hình thái theo đồng thuận Alpha 2011 [5]. Phôi
được trữ lạnh – rã đông bằng phương pháp thủy tinh hóa
(Cryotech – Nhật). Tùy theo chỉ định, bệnh nhân có thể
được chuyển từ 1 đến 2 phôi tươi hoặc phôi trữ lạnh rã
đông ở giai đoạn phôi ngày 3 hoặc phôi ngày 5 theo phác
đồ chuẩn tại IVFMD.
Đo lường kết quả
Chỉ số chính đánh giá kết quả trong nghiên cứu này
là tỉ lệ trẻ sinh sống cộng dồn. Ngoài ra, các chỉ số phụ
đánh giá kết quả cũng được phân tích, bao gồm: tỉ lệ
noãn trưởng thành, tỉ lệ phôi ngày 3 chất lượng tốt, tỉ lệ
thai lâm sàng, tỉ lệ làm tổ, tỉ lệ đa thai, tỉ lệ sẩy thai hoặc
thai lưu, tỉ lệ thai ngoài tử cung, tỉ lệ quá kích buồng
trứng sớm.
Phân tích thống kê
Sử dụng thống kê mô tả để phân tích đặc điểm nền
của quần thể bệnh nhân. Các kết cục là biến nhị phân
như tỉ lệ ßhCG dương tính, thai lâm sàng, tỉ lệ sinh sống
sinh đơn, sinh đôi và khoảng tin cậy 95% được ước tính
cho mỗi nhóm bằng kiểm định Fisher exact cho phân
phối nhị phân. Các kết cục là biến định lượng được ước
tính cho mỗi nhóm bằng T-test cho kiểm định tham số và
Wilcox-test cho kiểm định phi tham số. Phân tích hồi quy
đơn biến và đa biến để xác định các yếu tố nguy cơ tác
động đến kết cục trẻ sinh sống sau điều trị, thể hiện qua
giá trị OR (95% CI) và OR hiệu chỉnh (95% CI). Độ nhạy,
độ đặc hiệu và diện tích dưới đường cong ROC được tính
toán để xác định điểm cắt là số noãn tại đó phân biệt rõ
56
nhất hai trạng thái có và không có trẻ sinh sống. Bệnh
nhân được xem là hoàn tất số liệu nghiên cứu khi tất cả
phôi của chu kỳ điều trị được chuyển hoặc kết thúc thời
điểm 12 tháng sau khi thu nhận noãn, tuỳ điều kiện nào
đến trước.
3. KẾT QUẢ
Từ tháng 1/2015 đến tháng 5/2017, tổng cộng 2.209 chu kỳ thu nhận noãn TTTON thỏa tiêu chuẩn được đưa vào
phân tích.
Bảng 1. Đặc điểm nền của các chu kỳ thu nhận noãn
Thông số Giá trị
Số chu kỳ 2.209
Tuổi vợ 32,38 (4,33)
BMI (kg/m2) 20,93 (2,27)
AMH vợ (ng/ml) 4,68 (4,02)
AFC 13,75 (13,10)
Thời gian vô sinh (năm) 4,70 (3,52)
Lần điều trị TTTON, n (%)
1 1.784 (80,8)
2 425 (19,2)
Chỉ định TTTON, n (%)
Do nam 781 (35,4)
Ống dẫn trứng 546 (24,7)
Lạc nội mạc tử cung 102 (4,6)
Chưa rõ nguyên nhân 495 (22,4)
Khác 285 (12,9)
Thời gian kích thích buồng trứng (ngày) 8,97 (6,52)
Liều đầu FSH (IU) 254,81 (60,38)
Tổng liều FSH (IU) 2.373,82 (875,73)
Số noãn thu nhận 12,23 (5,74)
Số noãn ICSI 9,47 (4,73)
Tỷ lệ trưởng thành noãn (%) 78,21 (16,89)
Số noãn thụ tinh 2 PN 6,92 (3,99)
Số phôi phân chia ngày 3 6,17 (3,45)
Số phôi tốt loại 1 + 2 4,14 (2,97)
Số phôi nang 2,97 (2,14)
Tỷ lệ tạo phôi (%) 67,06 (21,02)
Tỷ lệ phôi ngày 3 loại 1 + 2 (%) 45,14 (25,01)
Số liệu được trình bày dưới dạng trung bình (độ lệch chuẩn) hoặc số lượng (%)
Nguyễn Thị Phương Dung và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(1):54-60. doi: 10.46755/vjog.2020.1.779
57
Hình 1. Phân bố của số lượng noãn thu nhận trong nghiên cứu
Sự phân bố số lượng noãn thu nhận trong các chu kỳ nghiên cứu cho thấy phần lớn chu kỳ có số noãn dao động
trong khoảng 8 đến 16 noãn.
Bảng 2. Kết quả thai của lần chuyển phôi đầu tiên
Thông số Giá trị
Số chu kỳ chuyển phôi 2.209
Chuyển phôi tươi, n (%) 1.306 (59,12)
Chuyển phôi trữ, n (%) 903 (40,88)
Số phôi chuyển 2,13 (0,49)
Số phôi loại 1 và loại 2 chuyển 1,72 (0,68)
NMTC ngày chuyển phôi (mm) 11,71 (3,70)
ßhCG dương tính, n (%) 901 (40,79)
Thai lâm sàng, n (%) 812 (36,76)
Tỷ lệ làm tổ (%) 48,52 (34,95)
Đa thai ≥ 2 (%) 245 (11,09)
3 thai, n (%) 11 (0,50)
Sẩy thai trước 12 tuần, n (%) 145 (6,56)
Thai diễn tiến 12 tuần, n (%) 667 (30,19)
Sẩy thai sau 12 tuần 33 (1,49)
Dị tật bẩm sinh, bỏ thai, n (%) 3 (0,14)
Sinh non, thai mất, n (%) 2 (0,09)
Sinh sống, n (%) 629 (28,47)
Số liệu được trình bày dưới dạng trung bình (độ lệch chuẩn) hoặc số lượng (%)
Qua 2.209 chu kỳ thu nhận noãn, có 3.411 chu kỳ chuyển phôi, bao gồm cả chuyển phôi tươi và phôi trữ.
Giá trị thấp nhất: 1
Giá trị cao nhất: 38
Trung vị: 12
Trung bình: 12,32
Tứ phân vị 1st: 8
Tứ phân vị 3rd 16
Nguyễn Thị Phương Dung và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(1):54-60. doi: 10.46755/vjog.2020.1.779
58
Bảng 3. Kết quả điều trị cộng dồn
Thông số Giá trị
Tỷ lệ sinh sống cộng dồn, n (%) 736 (33,3)
Số chu kỳ chuyển phôi, n (%)
Lần 1 2.209 (100)
Lần 2 933 (42,2)
Lần 3 233 (10,5)
Lần 4 36 (1,6)
Kết quả được biểu diễn dưới dạng số lượng (%).
Phần lớn bệnh nhân trong các chu kỳ thu nhận noãn
được nghiên cứu trải qua 1 đến 2 lần chuyển phôi, chỉ
có lần lượt 10,5% và 1,6% trường hợp bệnh nhân chuyển
phôi đến lần 3 và lần 4. Tỉ lệ trẻ sinh sống cộng dồn sau
một năm điều trị trên chu kỳ thu nhận noãn đạt 33,3%.
Bảng 4. Kết quả hồi quy đơn biến và đa biến
Yếu tố
Ước tính đơn biến Ước tính đa biến
OR (95% CI), giá trị p AOR (95% CI), giá trị p
Tuổi vợ 0,93 (0,91 - 0,95) < 0,001 0,94 (0,92 - 0,96) 0,001
Số noãn thu nhận 1,06 (1,04 - 1,08) < 0,001 1,05 (1,04 - 1,07) < 0,001
Kết quả hồi quy đa biến cho thấy tuổi vợ tại thời điểm
thu nhận noãn và số noãn thu nhận là hai yếu tố độc lập
tác động đến kết cục trẻ sinh sống, với OR hiệu chỉnh
lần lượt là 0,94 (95% CI: 0,92 - 0,96) và 1,05 (95% CI:1,04
- 1,07). Như vậy, với cùng độ tuổi nếu thu nhận thêm 1
noãn giúp tăng 5% cơ hội có kết cục trẻ sinh sống cộng
dồn trong một chu kỳ thu nhận noãn cho TTTON. Đồng
thời, với cùng số noãn thu nhận nếu bệnh nhân lớn hơn
1 tuổi thì cơ hội có kết cục trẻ sinh sống cũng giảm 6%.
Hình 2. Biểu đồ ROC cho số noãn thu nhận và tỉ lệ sinh sống
Đ
ộ
nh
ạy
(%
)
Độ đặc hiệu (%)
Đường cong ROC với số noãn thu nhận có thể dùng
để tiên lượng kết cục trẻ sinh sống với giá trị AUC = 0,624
(95% CI: 0,599 - 0,647). Điểm cắt số noãn dùng để phân
biệt trạng thái không có và có kết cục trẻ sinh sống là
8,5 với độ nhạy 82,12% và độ đặc hiệu 33,9%. Giá trị tiên
lượng dương và tiên lượng âm ứng với điểm cắt này lần
lượt là 46,15% và 73,3%.
Nguyễn Thị Phương Dung và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(1):54-60. doi: 10.46755/vjog.2020.1.779
59
Bảng 5. Kết quả điều trị theo các nhóm tứ phân vị của số noãn thu nhận.
Số noãn thu nhận 1 - 8 9 - 12 13 - 16 16 - 38 p
Số bệnh nhân 608 661 426 486
Sinh sống cộng dồn, n(%) 139 (22,9) 219 (33,1) 181 (40,1) 197 (40,3) < 0,001
Quá kích buồng trứng sớm, n(%) 0 (0,0) 3 (0,45) 3 (0,67) 8 (1,64) < 0,001
Số ca còn phôi trữ 102 (16,8) 240 (36,3) 230 (51,0) 303 (62,0) < 0,001
Còn phôi trữ sau khi có trẻ sinh
sống, n(%) 67 (11,0) 156 (23,6) 150 (33,3) 160 (32,7) < 0,001
Số liệu được trình bày dưới dạng trung bình (độ lệch chuẩn) hoặc số lượng (%)
Phân tích kết cục điều trị ở từng nhóm noãn dựa theo
phân bố tứ phân vị số lượng noãn thu nhận cho thấy tỉ lệ
trẻ sinh sống cộng dồn và nguy cơ quá kích buồng trứng
đều gia tăng có ý nghĩa theo số lượng noãn thu nhận (p
< 0,001). So với nhóm thu nhận 13 đến 16 noãn, nhóm
bệnh nhân có nhiều hơn 16 noãn đạt kết cục trẻ sinh
sống cộng dồn cao hơn nhưng cũng gánh chịu nguy cơ
quá kích buồng trứng nhiều hơn đáng kể (> 1,6%). Đồng
thời, số bệnh nhân còn phôi lưu trữ và số phôi còn lưu trữ
sau khi đã có kết cục trẻ sinh sống cũng gia tăng theo
số noãn thu nhận nhưng mức độ chênh lệch thu hẹp dần
ở nhóm 13 - 16 noãn so với nhóm 16 - 38 noãn. Qua đó
cho thấy khoảng 13 - 16 noãn là số noãn hợp lý để đạt
được kết cục trẻ sinh sống cao (40,1%) trong khi giảm
thiểu nguy quá kích buồng trứng (0,67%) và giảm tương
đối tình trạng phôi còn dư khi đã đạt được kết cục trẻ
sinh sống (33,3%).
4. BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy mối liên hệ giữa số
lượng noãn thu nhận và kết cục trẻ sinh sống sau điều
trị TTTON. Trên bệnh nhân có dự trữ buồng trứng bình
thường, với cùng độ tuổi nếu thu nhận nhiều noãn hơn
giúp tăng cơ hội có kết cục trẻ sinh sống cộng dồn sau
một năm điều trị trong một chu kỳ thu nhận noãn cho
TTTON. Đồng thời, độ tuổi bệnh nhân lúc thu nhận noãn
cũng tác động đến kết quả điều trị, thể hiện với cùng số
noãn thu nhận nếu bệnh nhân càng lớn tuổi thì cơ hội có
kết cục trẻ sinh sống giảm. Điều này hoàn toàn phù hợp
với thực tế chất lượng noãn suy giảm theo sự gia tăng
của tuổi, được lý giải thông qua sự tăng các bất thường
trong cấu trúc cũng như chức năng bào quan của noãn
như thoi vô sắc, ti thể dẫn đến hình thành phôi lệch bội
hoặc thiếu hụt năng lượng cần thiết hỗ trợ phôi phát triển
qua giai đoạn đầu [6]. Như vậy, mối tương quan về số
lượng noãn thu nhận và kết cục trẻ sinh sống cần được
đặt trong bối cảnh chung về độ tuổi được thu nhận noãn.
Phạm vi của nghiên cứu tập trung ở bệnh nhân có dự
trữ buồng trứng bình thường và tiên lượng đáp ứng tốt
với kích thích buồng trứng, với AMH > 1,38 ng/ml theo
chuẩn tham khảo nghiên cứu trên người Việt Nam [7].
Ở nhóm bệnh nhân này, việc sử dụng loại thuốc và liều
lượng thuốc bổ sung nội tiết tố ngoại sinh có thể được
kiểm soát nhằm huy động số lượng nhất định nang noãn
cho mục tiêu thu nhận số noãn trưởng thành hợp lý. Một
dẫn chứng từ nghiên cứu cộng gộp của tác giả Sterren-
burg và cộng sự cho thấy ở bệnh nhân dưới 39 tuổi, đáp
ứng với kích thích buồng trứng bình thường thì việc sử
dụng liều thuốc bổ sung nội tiết tố sinh dục (gonadotro-
pin) > 200 IU/ngày có thể thu nhận được nhiều noãn hơn
và tăng nguy cơ quá kích buồng trứng nhưng lại không
cải thiện tỉ lệ thai so với việc sử dụng liều 100 - 150 IU/
ngày [8]. Tuy nhiên, nghiên cứu hiện tại của chúng tôi
không tập trung phân tích tác động của liều thuốc đối với
số lượng noãn thu nhận để liên hệ đến kết cục điều trị.
Nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc xác nhận mối tương quan
giữa số lượng noãn thu nhận và kết cục trẻ sinh sống. Từ
đó, nghiên cứu xác định 9 noãn là con số tiên lượng kết
cục có trẻ sinh sống cộng dồn sau một chu kỳ thu nhận
noãn. Đây có thể xem là số noãn mục tiêu tối thiểu cần
thu nhận trong điều kiện hiện tại để kiểm soát phác đồ
kích thích buồng trứng ở nhóm bệnh nhân trẻ tuổi với dự
trữ buồng trứng bình thường.
Hiệu quả của chương trình TTTON cần được nhìn
nhận trong mối liên hệ cân bằng giữa kết cục điều trị
mong muốn là trẻ sinh sống với sự an toàn, trải nghiệm
của bệnh nhân cũng như toàn bộ chi phí trực tiếp, gián
tiếp liên quan đến điều trị. Các biến chứng và kết cục
không mong đợi như quá kích buồng trứng, đa thai, thai
ngưng tiến triển, sẩy thai, sinh non có thể ảnh hưởng đến
chất lượng cuộc sống của bệnh nhân cũng như làm gia
tăng chi phí điều trị TTTON. Trong khi đó, việc kích thích
buồng trứng nhằm thu nhận số lượng noãn cần thiết cho
TTTON là bước khởi đầu, tác động đến toàn bộ tiến trình
điều trị. Nghiên cứu này cho thấy việc thu nhận nhiều hơn
16 noãn có thể gia tăng nguy cơ quá kích buồng trứng
trong khi mức cải thiện cơ hội có trẻ sinh sống không
nhiều. Đồng thời, số phôi lưu trữ còn lại sau khi đạt được
kết cục trẻ sinh sống có thể không được sử dụng cũng
là vấn đề cần quan tâm nhằm hạn chế gánh nặng chi phí
cũng như lãng phí trong điều trị. Nghiên cứu này bước
đầu ghi nhận có gia tăng đáng kể phôi dư có khả năng
không sử dụng sau khi đã đạt được kết cục có trẻ sinh
sống ở bệnh nhân thu nhận nhiều noãn. Điều này một lần
Nguyễn Thị Phương Dung và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(1):54-60. doi: 10.46755/vjog.2020.1.779
60
nữa cho thấy vai trò kiểm soát số noãn thu nhận phù hợp
nhằm tối ưu hiệu quả điều trị.
Kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp với một số y
văn trên thế giới khi đánh giá tương quan giữa số noãn
thu nhận và kết cục điều trị TTTON. Cụ thể, nghiên cứu
trên 39.387 bệnh nhân điều trị TTTON tại Thụy Điển
trong thời gian từ năm 2007 đến năm 2014 cho thấy mối
tương quan giữa số noãn thu nhận và kết cục trẻ sinh
sống cộng dồn với OR = 1,064 (95% CI: 1,061 - 1,067) và
số noãn thu nhận tối ưu là 20 noãn [3]. Một phân tích hồi
cứu khác thực hiện trên chu kỳ TTTON từ năm 2002 đến
năm 2011 tại Đan Mạch cũng cho thấy tỉ lệ trẻ sinh sống
gia tăng đến khi đạt 15 noãn [2]. Sự khác nhau về số
noãn tối ưu để đạt kết cục trẻ sinh sống có thể do khung
thời gian thu nhận mẫu trong các nghiên cứu khác nhau
và có đóng góp từ hiệu quả của chương trình TTTON và
đông lạnh phôi trong điều kiện hoạt động cụ thể.
Hạn chế của nghiên cứu hiện tại là chưa đánh giá
được liên hệ giữa số lượng noãn thu nhận và các biến
chứng cũng như chi phí phát sinh trong quá trình điều
trị. Ngoài ra, hiệu suất sử dụng noãn cũng là một chỉ số
cần quan tâm nhưng chưa được đề cập đến trong nghiên
cứu này. Đồng thời, khung thời gian phân tích của nghiên
cứu chỉ trong vòng 1 năm sau khi thu nhận noãn nên
có thể chưa đánh giá hết khả năng tích lũy kết quả của
một chu kỳ thu nhận noãn có nhiều phôi lưu trữ. Vì vậy,
nghiên cứu này có thể mở ra các hướng tiếp cận sâu hơn
để đánh giá hiệu quả của các phương án thu nhận noãn
cho TTTON.
5. KẾT LUẬN
Trên bệnh nhân có dự trữ buồng trứng bình thường,
số lượng noãn thu nhận có mối tương quan thuận với
kết cục điều trị TTTON. Với mục tiêu hiệu quả và an toàn
trong điều trị, kích thích buồng trứng có thể được kiểm
soát nhằm thu nhận ít nhất 9 noãn để tiên lượng có được
kết cục trẻ sinh sống. Và khoảng 13 đến 16 noãn được
xem là khoảng tham khảo về số noãn thu nhận để đảm
bảo điều trị hiệu quả và an toàn trong điều kiện hiện tại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cai Q, Wan F, Huang K, Zhang H. Does the number of
oocytes retrieved influence pregnancy after fresh em-
bryo transfer? PLoS One. 2013;8(2).
2. Malchau SS, Henningsen AA, Loft A, Forman J, Ander-
sen AN, Pinborg A. Impact of the number of retrieved
oocytes on cumulative live birthrates after repeated cy-
cles of assisted reproductive technology: A Danish na-
tional cohort study. Hum Reprod. 2017;32(Supplement
1):57–8.
3. Magnusson Å, Källen K, Thurin-Kjellberg A, Ber-
gh C. The number of oocytes retrieved during IVF: a
balance between efficacy and safety. Hum Reprod.
2018;33(1):58–64.
4. Steward RG, Lan L, Shah AA, Yeh JS, Price TM, Gold-
farb JM, et al. Oocyte number as a predictor for ovar-
ian hyperstimulation syndrome and live birth: an anal-
ysis of 256,381 in vitro fertilization cycles. Fertil Steril.
2014;101(4):967–73.
5. Embryology ESIG. Istanbul consensus workshop on
embryo assessment: proceedings of an expert meeting.
Reprod Biomed Online. 2011;22(6):632–46.
6. Tilly JL, Sinclair DA. Germline energetics, aging, and
female infertility. Cell Metab. 2013;17(6):838–50.
7. Lan VTN, Linh NK, Tuong HM, Wong PC, Howles CM.
Anti-Müllerian hormone versus antral follicle count for
defining the starting dose of FSH. Reprod Biomed Online.
2013;27(4):390–9.
8. Sterrenburg MD, Veltman-Verhulst SM, Eijkemans
MJC, Hughes EG, Macklon NS, Broekmans FJ, et al. Clin-
ical outcomes in relation to the daily dose of recombi-
nant follicle-stimulating hormone for ovarian stimulation
in in vitro fertilization in presumed normal responders
younger than 39 years: a meta-analysis. Hum Reprod Up-
date. 2011;17(2):184–96.
Nguyễn Thị Phương Dung và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(1):54-60. doi: 10.46755/vjog.2020.1.779
Các file đính kèm theo tài liệu này:
tuong_quan_giua_so_luong_noan_thu_nhan_va_ket_qua_dieu_tri_t.pdf