BE của các chủng nấm đùi gà mới trên giá thể SD+CH
và SD+SR là từ 47,8 đến 61,4% và chủng giống E11 có hiệu
suất cao nhất đạt 61,4%. Kết quả này phù hợp với công bố
của Atila (2019) [18] khi nuôi trồng 3 chủng nấm đùi gà
K-16, K-20 và M-18 trên 3 loại giá thể tổng hợp gồm mùn
cưa (tỷ lệ 80%) và bột hướng dương, bã thải nho, vỏ quả óc
chó đã xác định BE dao động từ 28,9 đến 68,8%. Kirbag và
Akyuz (2008) [15] nuôi trồng nấm đùi gà (P. eryngii Q:.Fr)
trên 6 loại giá thể tổng hợp được phối trộn từ rơm lúa mì
(W), vỏ đậu tương (S), thân cây ngô (C), thân cây đậu tương
(B), thân cây kê (M), thân cây bông (P) và cám gạo (RB) cho
hiệu suất cao nhất là 82,5% trên giá thể thân lúa mì và thân
cây kê, thấp nhất là 48,0% trên giá thể thân lúa mì. Công bố
của Hassan và cs (2010) [3] cũng chỉ ra rằng, BE khi nuôi
trồng nấm đùi gà trên giá thể mùn cưa, bã mía dao động từ
45,71 đến 65,22%. Chủng giống Pe-1 của Moonmoon và cs
(2010) [10] được tìm thấy hiệu suất BE dao động từ 62,6
đến 73,5% khi nuôi trồng trên hai loại giá thể là mùn cưa và
rơm rạ. 3 chủng nấm đùi gà P. eryngii B112, B012, B045 là các
chủng giống lai tạo từ các monokaryon phân lập từ chủng
ATCC 36047 và Holland 150 của Peng và cs (2001) [7] có
BE từ 59,37 đến 77,87% khi nuôi trồng trên giá thể mùn cưa
có bổ sung 15% cám gạo. Hay công bố của tác giả Nguyễn
Thị Bích Thùy và cs (2016, 2019) [2, 8] về chủng giống đùi
gà ký hiệu E1 và E2 có BE lần lượt là 59,4 và 54,37%.
Chất lượng quả thể các chủng nấm đùi gà P. eryngii
trong nghiên cứu này được đánh giá tương đương với chất
lượng của các chủng nấm P. eryngii khác đã được công bố
và chất lượng quả thể của các chủng giống nấm đùi gà bị
thay đổi bởi giá thể nuôi trồng [2]. Theo Mazzi và cs (2004)
[19], nấm đùi gà có hàm lượng protein dao động từ 1,88 đến
2,65%. Rodrigues và cs (2015) [20] xác định hàm lượng
đường, protein, chất béo trong nấm đùi gà lần lượt là 5,45,
1,36 và 0,29%. Tương tự Reis và cs (2012) [21] cũng công
bố giá trị dinh dưỡng của nấm đùi gà P. eryngii gồm hàm
lượng protein 1,21%, đường 8,95% và lipid là 0,15%.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 6 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tuyển chọn các chủng giống nấm đùi gà Pleurotus eryngii (DC.Fr) mới nhập nội nuôi trồng trên giá thể phụ phẩm nông nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3662(9) 9.2020
Khoa học Nông nghiệp
Đặt vấn đề
Chi nấm Pleurotus được nuôi trồng phổ biến xếp thứ
ba trên thế giới, sau chi nấm mỡ (Agaricus) và nấm hương
(Lentinus). Nấm đùi gà P. eryngii hay còn được gọi là nấm
sò vua (king oyster) là một loại nấm ăn có chất lượng tốt, với
hàm lượng dinh dưỡng cao và thời gian sử dụng dài hơn so
với các loại nấm cùng loài khác [1]. Vào những năm 1970,
nấm đùi gà bắt đầu được nuôi trồng thương mại ở Italy [2].
Sau đó được nuôi trồng rộng khắp thế giới, phát triển nhất ở
các nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc... Giá thể
sử dụng nuôi trồng nấm P. eryngii khá phong phú, có thể là
mùn cưa, bông phế loại, rơm rạ, bã mía, vỏ đậu tương có bổ
sung thêm các chất phụ gia như cám ngô, cám gạo [3, 4]. BE
của nấm P. eryngii phụ thuộc vào từng chủng giống và các
yếu tố tác động trong quá trình nuôi trồng [3]. J´ozsef và cs
(2011) [5] ghi nhận hiệu suất nuôi trồng của các chủng nấm
đùi gà cao nhất đạt 156,18 và thấp nhất là 28,52%.
Ở Việt Nam, chi nấm Pleurotus đã được nuôi trồng từ rất
lâu, tuy nhiên không như các loại nấm sò trắng (P. florida),
nấm sò nâu (P. sajor caju), diện tích nuôi trồng nấm đùi gà
ở Việt Nam còn rất hạn chế do yêu cầu cần có sự kiểm soát
khắt khe về các điều kiện nuôi trồng như nhà xưởng, chất
lượng giống, dinh dưỡng và các yếu tố ngoại cảnh khác. Bên
cạnh đó, các nghiên cứu về nấm đùi gà ở nước ta cũng còn
khiêm tốn. Một số nghiên cứu về chọn tạo giống nấm năng
suất, chất lượng cao cũng mới được khởi động và thực hiện
trong thời gian gần đây [2]. Hiện nay, chỉ duy nhất giống
nấm đùi gà ENH của Trung tâm Nghiên cứu và phát triển
nấm (Viện Di truyền Nông nghiệp) được Bộ Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn công nhận và cho phép đưa vào sản
xuất đại trà cùng một vài chủng nấm đùi gà mới được thu
thập tuyển chọn có năng suất cao như E
2
của tác giả Nguyễn
Thị Bích Thùy và cs (2019) [2].
Nhằm hướng tới đa dạng hóa các chủng giống nấm, phát
triển chọn tạo nhiều giống nấm đùi gà mới phù hợp với sản
xuất nấm quy mô công nghiệp theo hướng tự động hóa hoàn
toàn thuộc Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia đến
năm 2020 (sản phẩm nấm ăn và nấm dược liệu), chúng tôi
đã thực hiện các nghiên cứu đánh giá, tuyển chọn các nguồn
gen nấm đùi gà mới nhập nội trên các loại giá thể nông
nghiệp, làm cơ sở lựa chọn ra chủng giống nấm đùi gà mới
có năng suất, chất lượng cao.
Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
Chủng giống nấm
Bốn chủng giống nấm đùi gà P. eryngii (DC.:Fr.) mới
được nhập nội ký hiệu lần lượt là E
3
(Đài Loan, Trung
Quốc), E
7
(Nhật Bản), E
10
(Hàn Quốc) và E
11
(Trung Quốc).
Sử dụng giống nấm đùi gà (E
NH
) làm giống đối chứng.
Các giống nấm hiện được lưu giữ, bảo quản tại Trung tâm
Tuyển chọn các chủng giống nấm đùi gà
Pleurotus eryngii (DC.:Fr.) mới nhập nội
nuôi trồng trên giá thể phụ phẩm nông nghiệp
Nguyễn Duy Trình*, Trần Thu Hà, Lê Thanh Uyên, Phạm Xuân Hội
Viện Di truyền Nông nghiệp
Ngày nhận bài 17/2/2020; ngày chuyển phản biện 20/2/2020; ngày nhận phản biện 23/3/2020; ngày chấp nhận đăng 8/5/2020
Tóm tắt:
Nấm đùi gà Pleurotus eryngii (DC.:Fr) thuộc chi nấm Pleurotus được nuôi trồng phổ biến thứ ba trên thế giới, sau
chi nấm mỡ (Agaricus) và chi nấm hương (Lentinus). Ở Việt Nam, là một trong sáu loại nấm chủ lực, nấm đùi gà
đang nhận được nhiều sự quan tâm trong các chương trình phát triển công nghệ nông nghiệp bền vững. Nhằm mục
đích tuyển chọn được giống nấm năng suất, chất lượng cao, 4 chủng giống nấm đùi gà mới nhập nội đã được đánh
giá về đặc tính và đặc điểm sinh trưởng. Kết quả thu nhận được cho thấy, chủng giống E
11
được nhập nội từ Trung
Quốc thể hiện khả năng sinh trưởng hệ sợi nhanh nhất (4,0-4,44 mm/ngày), tỷ lệ hình thành mầm quả thể nấm từ
97,7 đến 98,2% và hiệu suất sinh học (BE) đạt 61,4%. Trên các loại giá thể, sự sai khác về BE của chủng giống E
11
với các chủng giống khác có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa p<0,05. Chất lượng quả thể của chủng giống E
11
cũng
được đánh giá có sự vượt trội về hình thái, kích thước, hàm lượng protein và glucid tổng số.
Từ khóa: giá thể, nấm đùi gà, Pleurotus eryngii.
Chỉ số phân loại: 4.1
*Tác giả liên hệ: Email: nguyenduytrinh2011@gmail.com
3762(9) 9.2020
Khoa học Nông nghiệp
Nghiên cứu và phát triển nấm, Viện Di truyền Nông nghiệp
ở nhiệt độ 4oC trên môi trường PDA gồm 200 g/l khoai tây,
20 g/l dextrose, 20 g/l agar.
Chuẩn bị giống nấm
Các chủng giống nấm đùi gà được nhân nuôi trên giá thể
gồm 79% mùn cưa, 20% cám gạo và 1% bột nhẹ, nhiệt độ
ươm sợi 25±1oC, độ ẩm 65% và không cần ánh sáng trong
thời gian 30 ngày.
Chuẩn bị giá thể nuôi trồng
Ba loại nguyên liệu là mùn cưa, bông hạt, rơm rạ được
sử dụng để phối trộn tạo nên 2 loại giá thể nuôi trồng
nấm đùi gà. Loại giá thể thứ nhất gồm mùn cưa, bông hạt
(SD+CH=1:1) và bổ sung 15% cám gạo, 1% bột CaCO
3
.
Loại giá thể thứ hai gồm mùn cưa, rơm rạ (SD+SR=1:1) và
bổ sung 15% cám gạo, 1% bột CaCO
3
. Sử dụng máy Exotek
MC-410 để chuẩn ẩm độ giá thể nuôi trồng nấm đùi gà bằng
65%, sau đó giá thể được cho vào lọ nhựa PP (1100 ml) và
hấp khử trùng ở nhiệt độ 121oC trong thời gian 180 phút.
Khi nhiệt độ của giá thể giảm xuống dưới 28oC thì tiến hành
cấy giống, lượng giống nấm đùi gà sử dụng là 15 g/lọ. Các
lọ phôi được nuôi sợi ở nhiệt độ 25±1oC trong điều kiện tối
hoàn toàn để hệ sợi nấm sinh trưởng.
Chăm sóc và thu hái quả thể
Sau khi hoàn thành pha sợi, các bịch phôi được đưa
vào nhà nuôi nấm được kiểm soát về nhiệt độ (19±2oC), độ
ẩm (85-90%), cường độ ánh sáng (250 lux), nồng độ khí
cacbonic (dưới 1000 ppm) [3, 5-7]. Quả thể nấm đùi gà sẽ
được thu hái khi mũ nấm phẳng và có màu sáng.
Các chỉ tiêu theo dõi
Tốc độ sinh trưởng hệ sợi: tốc độ sinh trưởng hệ sợi của
nấm đùi gà được đánh giá theo phương pháp của Nguyễn
Thị Bích Thùy và cs (2016) [8]. Đơn vị tính: mm/ngày.
Thời gian hình thành mầm quả thể: là thời gian từ khi
cấy giống đến khi mầm quả thể nấm đùi gà đầu tiên được
hình thành trên giá thể. Đơn vị tính: ngày.
Tỷ lệ hình thành quả thể: là % số lượng lọ phôi cấy
giống nấm đùi gà có khả năng hình thành mầm quả thể nấm.
Đơn vị tính: %.
Thời gian quả thể trưởng thành: là thời gian từ khi mầm
quả thể nấm đùi gà đầu tiên được hình thành đến lần thu hái
quả thể đầu tiền. Đơn vị tính: ngày.
Số lượng mầm quả thể: là số lượng quả thể nấm đùi gà
được hình thành trên 1 lọ giá thể.
Số lượng quả thể hữu hiệu: số lượng quả thể nấm đùi
gà hữu hiệu được xác định theo phương pháp của Won và
cs (2010) [9], là số lượng quả thể nấm đùi gà có khối lượng
>10 g.
Selection of newly imported
king oyster mushroom
Pleurotus eryngii (DC.:Fr.) strains
cultivated on agricultural
byproducts in Viet Nam
Duy Trinh Nguyen*, Thu Ha Tran, Thanh Uyen Le,
Xuan Hoi Pham
Agricultural Genetics Institute
Received 17 February 2020; accepted 8 May 2020
Abstract:
King oyster mushroom Pleurotus eryngii (DC.:Fr.)
belonging to the genus Pleurotus is the third most
cultivated edible mushroom in the world after button
mushroom (Agaricus) and shiitake mushroom (Lentinus).
In Vietnam, as one of the top six edible mushrooms, king
oyster mushroom has been attracting wide attention in
the agricultural technology for sustainable development
program. In an attempt to search for potential strains
with high yield, four newly imported strains were
evaluated cultural and cultivation characteristics. Based
on the obtained results, strain E
11
collected from China
exhibited the highest mycelial growth rate (4.0 to 4.44
mm/day), primordial formation percentage from 97.7 to
98.2%, and biological efficiency at 61.4%. The substrates
have a significant difference at p<0.05 on the biological
efficiency between E
11
strain and other strains. The
quality of the fruiting body of E
11
strain was evaluated
to be absolutely greater than the others in terms of
morphology, size, total protein, and glucid content.
Keywords: king oyster mushroom, Pleurotus eryngii,
substrates.
Classification number: 4.1
3862(9) 9.2020
Khoa học Nông nghiệp
BE(%): hiệu suất sinh học nuôi trồng nấm đùi gà được
tính theo công thức của Moonmoon và cs (2010) [10].
BE = x 100%
Trong đó: M
1
là khối lượng quả thể nấm tươi (gam); M
2
là khối lượng giá thể khô (giá thể đạt độ ẩm 13%) (g).
Đặc điểm phát triển quả thể: đánh giá các chỉ tiêu về
đường kính mũ nấm (cm), đường kính cuống nấm (cm),
chiều dài quả thể (cm) [10]. Tỷ lệ quả thể dị dạng (%) được
đánh giá theo phương pháp của Won và cs (2010) [9], là tỷ
lệ quả thể nấm đùi gà xuất hiện những bất thường về hình
thái như không hình thành mũ nấm; mũ nấm, cuống nấm
biến dạng.
Chất lượng quả thể: trong nghiên cứu này, chúng tôi đánh
giá chất lượng quả thể của các chủng nấm đùi gà mới dựa
trên kết quả phân tích các chỉ tiêu hàm lượng glucid, hàm
lượng protein tổng số và hàm lượng lipid tổng số. Trong đó,
hàm lượng glucid tổng số được phân tích theo phương pháp
KN/QTKT-10.3, hàm lượng protein tổng số được phân tích
theo phương pháp KN/QTKT-10.1, hàm lượng lipid tổng số
được phân tích theo phương pháp KN/QTKT-10.2 của Viện
Thực phẩm chức năng.
Phương pháp xử lý số liệu
Kết quả nghiên cứu được xử lý thống kê bằng phần mềm
excel 2010 và phân tích Anova bằng phần mềm IRRISTAT
5.0 tại mức ý nghĩa p<0,05 cho thí nghiệm một nhân tố. Các
giá trị trung bình mang chữ cái khác nhau là khác nhau có
ý nghĩa thống kê.
Kết quả nghiên cứu
Tốc độ sinh trưởng
Pleurotus được biết đến là chi nấm có khả năng phân giải
tốt nhất các loại vật liệu có chưa cellulose, hemicellulose
hay lignin [11]. Khả năng phân giải và hấp thụ dinh dưỡng
thể hiện tốc độ sinh trưởng và phát triển của một giống nấm
và chịu sự chi phối của yếu tố nội tại (giống nấm), yếu tố
ngoại cảnh (môi trường sống), trong đó cơ chất nền hay
thành phần giá thể nuôi trồng là nhân tố hàng đầu.
Bảng 1. Sinh trưởng của các chủng giống nấm đùi gà P. eryngii
trên các loại giá thể.
Giá thể 1: mùn cưa, bông hạt Giá thể 2: mùn cưa, rơm rạ
E
NH
E3 E7 E10 E11 ENH E3 E7 E10 E11
TĐHS 3,52±0,15c 3,6±0,04c 4,22±0,14ab 4,0±0,04b 4,44±0,02a 3,67±0,03b 3,72±0,05b 3,96±0,06a 3,92±0,14a 4,0±0,11a
THTQT 41±1,0b 40±0,0b 40±1,0b 48±1,0a 38±1,0c 42±0,0b 42±1,0b 43±1,0b 47±1,0a 39±1,0c
TLHTQT 95,6±1,9b 98,2±0,4a 97,8±0,3a 90,4±1,1c 97,7±1,1a 94,6±1,1b 97,4±1,6a 97,2±0,6a 89,6±0,9c 98,2±0,9a
TQTTT 7±0,0bc 6±0,0c 6±1,0c 10±1,0a 8±1,0b 6±0,0c 6±1,0c 6±1,0c 12±1,0a 8±0,0b
Ghi chú: TĐHS: tốc độ sinh trưởng hệ sợi (mm/ngày); THTQT: thời gian hình thành mầm
quả thể (ngày); TLHTQT: tỷ lệ hình thành quả thể (%); TQTTT: thời gian quả thể trưởng
thành (ngày); các chữ a, b, c, d ứng với mỗi giá trị sai khác giữa các giá trị trung bình tại
mức ý nghĩa p<0,05.
Bảng 1 cho thấy, trên giá thể mùn cưa, bông hạt, tốc độ
sinh trưởng hệ sợi của chủng E
7
và E
11
cao nhất, lần lượt là
4,22 và 4,44 mm/ngày, tiếp đến là chủng E
10
, chậm nhất là
hai chủng E
NH
(3,52 mm/ngày) và E
3
(3,60 mm/ngày). Trên
giá thể mùn cưa, rơm rạ ba chủng E
7
, E
10
, E
11
có tốc độ sinh
trưởng hệ sợi tương tự nhau và khác biệt ở mức có ý nghĩa
p<0,05.
Thời gian hình thành mầm quả thể nấm của các chủng
nấm đùi gà cũng có sự sai khác. Chủng E
11
có thời gian hình
thành quả thể sớm nhất, trung bình 38-39 ngày, giống E
NH
,
E
3
, E
7
có thời gian hình thành quả thể dao động từ 40 đến
43 ngày ở cả hai loại giá thể. Chủng E
10
thời gian ra quả thể
muộn nhất (47-48 ngày sau khi cấy giống).
Tỷ lệ hình thành quả thể của các chủng nấm đùi gà mới
cũng được xác định với khả năng hình thành mầm quả thể
đạt tỷ lệ cao nhất ở giống E
3
, E
7
và E
11
(đều cao hơn 97% ở
cả hai loại giá thể sử dụng). Chủng E
NH
có tỷ lệ hình thành
quả thể đứng thứ hai (94,6-95,6%). Chủng E
10
có tỷ lệ hình
thành quả thể thấp nhất, trung bình có 89,6-90,4% lọ giá thể
có khả năng hình thành mầm quả thể.
Thời gian quả thể trưởng thành của chủng E
10
dài nhất
(10-12 ngày), chủng E
3
, E
7
có thời gian quả thể nấm trưởng
thành ngắn nhất (6 ngày từ khi mầm quả thể hình thành).
Thời gian trưởng thành của chủng E
11
là 8 ngày, sai khác
có ý nghĩa ở mức p<0,05 ở cả 2 giá thể nghiên cứu. Sinh
trưởng hệ sợi của các chủng giống nấm đùi gà mới trên hai
loại giá thể nuôi trồng không có khác biệt có ý nghĩa thống
kê.
BE
Hình 1. BE các chủng giống nấm đùi gà P. eryngii trên SD+CH
và SD+SR. Các chữ cái a, b, c ứng với mỗi giá trị sai khác giữa các giá trị trung bình
khác nhau ở p<0,05. *: là sự sai khác có ý nghĩa thống kê; ns: là sự sai khác không có ý
nghĩa thống kê.
3962(9) 9.2020
Khoa học Nông nghiệp
Hình 1 thể hiện BE của các chủng P. eryngii trên hai
loại giá thể SD+CH và SD+SR. Trên giá thể SD+CH, BE
cao nhất được ghi nhận ở chủng E
11
(61,4%), BE của E
3
, E
7
tương đương với giống E
NH
lần lượt là 55,7, 56,4 và 54,8%.
BE của chủng E
10
thấp đáng kể so với chủng E
11
và chủng
đối chứng E
NH
(50,8%). Trên giá thể SD+SR, BE cao nhất
được tìm thấy ở chủng giống E
11
(61,4%), tiếp theo là chủng
E
3
(56,0%) và E
7
(55,8%), thấp nhất là chủng E
10
(47,8%).
Kết quả này có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa p<0,05.
Đặc điểm phát triển quả thể
Bảng 2. Đặc điểm quả thể của các chủng nấm đùi gà P. eryngii
trên các loại giá thể.
Giá thể 1: mùn cưa, bông hạt Giá thể 2: mùn cưa, rơm rạ
E
NH
E3 E7 E10 E11 ENH E3 E7 E10 E11
CDQT 14,2±0,5b 14,9±0,3b 15,9±2,3ab 9,6±0,7c 17,8±1,2a 14,5±0,8a 14,6±0,6a 16,2±1,2a 10,2±1,6b 14,2±0,3a
DKC 4,05±0,08b 4,25±0,22ab 4,65±0,2a 2,34±0,33c 4,15±0,0b 3,93±0,06 4,1±0,1b 4,04±0,08b 2,56±0,22c 4,45±0,12a
DKM 4,12±0,12b 4,01±0,12c 4,34±0,22a 2,46±0,12e 3,87±0,2d 3,92±0,15c 4,22±0,11ab 3,95±0,08bc 2,66±0,21d 4,23±0,22a
SLQTHH 2,6±0,4ab 2,8±0,2b 2,2±0,0b 1,6±0,1c 3,0±0,3a 2,5±0,3bc 2,7±0,2ab 2,4±0,1c 1,4±0,1d 2,9±0,1a
TLDD 7,2±0,2b 6,4±0,3cd 7±0,4bc 10,2±0,4a 5,6±0,4d 7,1±0,1b 6±0,0d 6,7±0,2c 9,8±0,1a 5,3±0,2e
Ghi chú: CDQT: chiều dài quả thể (cm); DKC: đường kính cuống nấm (cm); DKM: đường
kính mũ nấm (cm); SLQTHH: số lượng quả thể hữu hiệu (>10 g); TLDD: tỷ lệ dị dạng
(%). Các chữ a, b, c, d, e ứng với mỗi giá trị sai khác giữa các giá trị trung bình tại mức
ý nghĩa p<0,05.
Bảng 2 miêu tả chất lượng quả thể của giống nấm đùi gà
nuôi trồng trên 2 loại cơ chất tổng hợp mùn cưa, bông hạt và
mùn cưa, rơm rạ. Nhận thấy trên giá thể SD+CH, E
7
và E
11
là 2 chủng giống có chiều dài quả thể lớn nhất và có sự khác
biệt đối với các chủng nấm khác ở mức ý nghĩa p<0,05;
đường kính cuống của chủng giống E
7
lớn nhất. Chủng nấm
E
10
có chiều dài quả thể và đường kính cuống nhỏ nhất ở cả
hai loại giá thể SD+CH và SD+SR.
Đường kính mũ nấm của các chủng giống đùi gà có sự
thay đổi đáng kể (bảng 2, hình 2), chủng E
7
có đường kính
mũ nấm lớn nhất ở giá thể SD+CH và có sự sai khác ở mức
ý nghĩa p<0,05 đối với các chủng giống khác. Trên giá thể
SD+SR, E
11
là chủng giống có đường kính mũ nấm lớn nhất
(4,23 cm). Ở cả hai loại giá thể, số lượng quả thể hữu hiệu
lớn nhất thuộc về chủng E
11
(2,9 đến 3,0 quả/lọ giá thể),
nhỏ nhất là ở chủng giống E
10
(1,4 và 1,6%). Tỷ lệ quả thể
dị dạng của các giống nấm đùi gà từ 5,3 đến 10,2%, trong
đó chủng giống E
11
có tỷ lệ quả thể dị dạng thấp nhất ở cả
SD+CH và SD+SR và thấp hơn có ý nghĩa đối với các giống
nấm khác. Chủng giống E
10
có tỷ lệ quả thể dị dạng lớn nhất,
trung bình 10%.
7
Hình 2. Hình thái quả thể của các chủng giống nấm đùi gà (P. eryngii) nuôi trồng trên
giá thể S .
Chất lượng quả thể
Ngoài các tiêu chí đánh giá về hình thái, kích thước quả thể nấm, trong nghiên cứu
này chúng tôi còn đi sâu so sánh chất lượng quả thể của các chủng nấm đùi gà mới
thông qua phân tích hàm lượng protein, lipid và glucid tổng số, kết quả được thể hiện
ở bảng 3.
Bảng 3. àm lượng dinh dưỡng của quả thể các chủng giống nấm đùi gà P. eryngii trên
các giá thể.
Giá thể 1: mùn cưa bông hạt Giá thể 2: mùn cưa + rơm rạ
Protein
tổng số (%)
Lipid tổng số
(%)
Glucid
(%)
Protein
tổng số (%)
Lipid tổng số
(%)
Glucid
(%)
E
NH
1,8±0,10a 0,02±0,00c 4,17±0,17b 2,0±0,00c 0,02±0,01b 1,68±0,11d
E3 1,8±0,20
a 0,10±0,05b 5,1±0,11a 2,2±0,10b 0,10±0,03a 5,9±0,45a
E
7
1,8±0,20a 0,03±0,01c 3,27±0,10c 2,4±0,10a 0,04±0,00b 4,16±0,14c
E10 1,4±0,00
b 0,15±0,02a 2,12±0,01d 1,2±0,00d 0,11±0,02a 2,07±0,05d
E
11
2,0±0,10a 0,02±0,00c 5,18±0,14a 2,0±0,00c 0,10±0,01a 5,5±0,16b
Ghi chú: các chữ a, b, c, d ứng với mỗi giá trị sai khác giữa các giá trị trung bình tại mức ý
nghĩa p<0,05.
Kết quả bảng 3 cho thấy có sự sai khác về hàm lượng glucid, protein, lipid giữa
các chủng giống nấm đùi gà mới. Trên giá thể SD+CH ghi nhận, chủng giống E11, E3,
E7
có hàm lượng protein cao nhất và tương đương với đối chứng ENH. Hàm lượng
glucid tổng số của chủng E11 và E3 sai khác có ý nghĩa p<0,05 so với các chủng nấm
còn lại, lần lượt là 5,18 và 5,1%. E10 là chủng nấm có hàm lượng protein và glucid
thấp nhất. Ngược lại, chủng E10 lại có hàm lượng lipid tổng số cao nhất (0,15%) và
khác biệt có ý nghĩa với các chủng khác. Các chủng E7 và E11 có hàm lượng lipid
tương đương với đối chứng ENH. Trên giá thể SD+SR, hàm lượng protein cao nhất
cũng được xác định ở chủng E7. Chủng E11 có hàm lượng protein tương đương với
chủng ENH (2,0%) và có hàm lượng glucide tổng số bằng 5,5% xếp thứ hai sau chủng
E3. Hàm lượng lipid tổng số có sự thay đổi so với trên giá thể SD+CH, chủng E3, E10,
ENH E3 E7 E10 E11
Hình 2. Hình thái quả thể của các chủng giống nấm đùi gà (P.
eryngii) nuôi trồng trên giá thể SD+CH.
Chất lượng quả thể
Ngoài các tiêu chí đánh giá ề hình thái, kích thước quả
thể nấm, trong nghiên cứu này chúng tôi còn đi sâu so sánh
hất lượng quả thể của các chủng nấm đùi gà mới thông qua
phân tích hàm lượng protein, lipid và glucid tổng số, kết quả
được thể hiện ở bảng 3.
Bảng 3. Hàm lượng dinh dưỡng của quả thể các chủng giống
nấm đùi gà P. eryngii trên các giá thể.
Giá thể 1: mùn cưa + bông hạt Giá thể 2: mùn cưa + rơm rạ
Protein
tổng số
(%)
Lipid tổng
số (%)
Glucid
(%)
Protein
tổng số
(%)
Lipid tổng
số (%)
Glucid
(%)
E
NH
1,8±0,10a 0,02±0,00c 4,17±0,17b 2,0±0,00c 0,02±0,01b 1,68±0,11d
E
3
1,8±0,20a 0,10±0,05b 5,1±0,11a 2,2±0,10b 0,10±0,03a 5,9±0,45a
E
7
1,8±0,20a 0,03±0,01c 3,27±0,10c 2,4±0,10a 0,04±0,00b 4,16±0,14c
E
10
1,4±0,00b 0,15±0,02a 2,12±0,01d 1,2±0,00d 0,11±0,02a 2,07±0,05d
E
11
2,0±0,10a 0,02±0,00c 5,18±0,14a 2,0±0,00c 0,10±0,01a 5,5±0,16b
Ghi chú: các chữ a, b, c, d ứng với mỗi giá trị sai khác giữa các giá trị trung bình tại mức
ý nghĩa p<0,05.
Kết quả bảng 3 cho thấy có sự sai khác về hàm lượng
glucid, protein, lipid giữa các chủng giống nấm đùi gà mới.
Trên giá thể SD+CH ghi nhận, chủng giống E
11
, E
3
, E
7
có
hàm lượng protein cao nhất và tương đương với đối chứng
E
NH
. Hàm lượng glucid tổng số của chủng E
11
và E
3
sai khác
có ý nghĩa p<0,05 so với các chủng nấm còn lại, lần lượt
là 5,18 và 5,1%. E
10
là chủng nấm có hàm lượng protein
và glucid thấp nhất. Ngược lại, chủng E
10
lại có hàm lượng
lipid tổng số cao nhất (0,15%) và khác biệt có ý nghĩa với
các chủng khác. Các chủng E
7
và E
11
có hàm lượng lipid
tương đương với đối chứng E
NH
. Trên giá thể SD+SR, hàm
lượng protein cao nhất cũng được xác định ở chủng E
7
.
Chủng E
11
có hàm lượng protein tương đương với chủng
E
NH
(2,0%) và có hàm lượng glucide tổng số bằng 5,5%, xếp
thứ hai sau chủng E
3
. Hàm lượng lipid tổng số có sự thay đổi
so với trên giá thể SD+CH, chủng E
3
, E
10
, E
11
đều có hàm
lượng lipid cao hơn có ý nghĩa so với giống đối chứng E
NH
.
4062(9) 9.2020
Khoa học Nông nghiệp
Kết quả tại bảng 3 cũng cho thấy không có sự sai khác đáng
kể về hàm lượng dinh dưỡng của quả thể nấm đùi gà khi
nuôi trồng trên các loại giá thể khác nhau.
Thảo luận
Mùn cưa, bông hạt, rơm rạ là những loại phụ phẩm nông
nghiệp được sử dụng khá phổ biến trong nuôi trồng nấm ở
Việt Nam. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng 2 loại
giá thể tổng hợp để nuôi trồng 4 chủng giống nấm đùi gà
khác nhau. Chủng giống E
11
được ghi nhận là chủng giống
có tốc độ sinh trưởng hệ sợi cao hơn so với ba chủng nấm
còn lại. Tốc độ mọc sợi của chủng E
11
dao động từ 4,0 đến
4,44 mm/ngày. Đồng thời, tốc độ sinh trưởng hệ sợi của 4
chủng giống thí nghiệm khi nuôi trồng trên giá thể mùn cưa,
bông hạt vượt trội hơn trên giá thể rơm rạ, bông hạt. Kết
quả nghiên cứu này hoàn toàn phù hợp với nghiên cứu của
Philippousis và cs (2002) [12] khi cho rằng thời gian sinh
trưởng của các chủng nấm khác nhau tùy thuộc vào kiểu gen
và giá thể nuôi trồng.
Thời gian hình thành mầm quả thể của các chủng giống
đùi gà mới cũng có sự sai khác có ý nghĩa. E
11
vẫn được ghi
nhận là chủng giống có thời gian hình thành mầm quả thể
nhanh nhất, trung bình 38-39 ngày. Ngược lại chủng nấm
E
10
mặc dù có tốc độ sinh trưởng hệ sợi nhanh nhưng thời
gian hình thành quả thể lại chậm nhất. Một kết quả tương tự
cũng đã được Iqbal và cs (2018) [13] trình bày trong công
bố của mình. Nhóm tác giả này so sánh hai chủng nấm đùi
gà (ký hiệu là P
9
và P
10
)
ở 5 loại giá thể khác nhau. Kết quả
cho thấy, P
10
có tốc độ mọc sợi nhanh nhất ở giá thể 100%
bông hạt, tuy nhiên thời gian hình thành mầm quả thể của
P
10
ở giá thể 100% bông hạt lại chậm hơn so với giá thể 75%
bông hạt và 25% rơm. Kết quả này lần nữa khẳng định khả
năng sinh trưởng và hình thành quả thể của các chủng giống
nấm nói chung và giống nấm đùi gà nói riêng chịu sự chi
phối mạnh mẽ từ yếu tố kiểu gen [14].
Thời gian quả thể trưởng thành của chủng nấm đùi gà
được Kirbag và Akyuz (2008) [15] nghiên cứu với khoảng
dao động từ 34,7 đến 54,8 ngày kể từ khi cấy giống và phụ
thuộc vào thành phần cơ chất. Kết quả của nghiên cứu này
cũng tương tự khi xác định thời gian trưởng thành quả thể
của các chủng giống nấm đùi mới từ khi cấy giống đến khi
thu hoạch trong khoảng 47-59 ngày. Trong đó, E
10
có thời
gian quả thể trưởng thành dài nhất, giữa các chủng E
NH,
E
3
,
E
7
, E
11
không có sự sai khác có ý nghĩa khi thay đổi thành
phần giá thể nuôi trồng ở p<0,05. Kết quả này phù hợp với
nghiên cứu của Moonmoon và cs (2010) [10] khi nuôi trồng
các chủng nấm đùi gà mới trên giá thể mùn cưa và rơm rạ tại
Banglades, khi đó thời gian quả thể trưởng thành của chủng
giống nấm đùi gà Pe-3 là 47 ngày sau khi cấy giống.
Số lượng mầm quả thể hữu hiệu được xác định từ 1,4
đến 3,0 và không có sự sai khác ý nghĩa thống kê giữa
chủng giống E
11
và đối chứng E
NH
. Nuôi trồng các chủng
giống nấm đùi gà trên hai loại giá thể cũng không mang
đến sự sai khác có ý nghĩa thống kê về số lượng mầm quả
thể ở mức ý nghĩa p<0,05. Nghiên cứu của Amin và cs
(2007) [16], Jawad và cs (2013) [17] cũng không tìm thấy
sự thay đổi đáng kể nào về số lượng quả thể nấm đùi gà nuôi
trồng trên hai loại giá thể mùn cưa và rơm rạ. Trong khi đó,
Moonmoon và cs (2010) [10] lại cho rằng, số lượng quả thể
nấm đùi gà nuôi trồng trên giá thể mùn cưa cao hơn đáng
kể khi nuôi trồng trên giá thể rơm rạ và sự sai khác này có ý
nghĩa ở độ tin cậy p<0,05.
BE của các chủng nấm đùi gà mới trên giá thể SD+CH
và SD+SR là từ 47,8 đến 61,4% và chủng giống E
11
có hiệu
suất cao nhất đạt 61,4%. Kết quả này phù hợp với công bố
của Atila (2019) [18] khi nuôi trồng 3 chủng nấm đùi gà
K-16, K-20 và M-18 trên 3 loại giá thể tổng hợp gồm mùn
cưa (tỷ lệ 80%) và bột hướng dương, bã thải nho, vỏ quả óc
chó đã xác định BE dao động từ 28,9 đến 68,8%. Kirbag và
Akyuz (2008) [15] nuôi trồng nấm đùi gà (P. eryngii Q:.Fr)
trên 6 loại giá thể tổng hợp được phối trộn từ rơm lúa mì
(W), vỏ đậu tương (S), thân cây ngô (C), thân cây đậu tương
(B), thân cây kê (M), thân cây bông (P) và cám gạo (RB) cho
hiệu suất cao nhất là 82,5% trên giá thể thân lúa mì và thân
cây kê, thấp nhất là 48,0% trên giá thể thân lúa mì. Công bố
của Hassan và cs (2010) [3] cũng chỉ ra rằng, BE khi nuôi
trồng nấm đùi gà trên giá thể mùn cưa, bã mía dao động từ
45,71 đến 65,22%. Chủng giống Pe-1 của Moonmoon và cs
(2010) [10] được tìm thấy hiệu suất BE dao động từ 62,6
đến 73,5% khi nuôi trồng trên hai loại giá thể là mùn cưa và
rơm rạ. 3 chủng nấm đùi gà P. eryngii B
112
, B
012
, B
045
là các
chủng giống lai tạo từ các monokaryon phân lập từ chủng
ATCC 36047 và Holland 150 của Peng và cs (2001) [7] có
BE từ 59,37 đến 77,87% khi nuôi trồng trên giá thể mùn cưa
có bổ sung 15% cám gạo. Hay công bố của tác giả Nguyễn
Thị Bích Thùy và cs (2016, 2019) [2, 8] về chủng giống đùi
gà ký hiệu E
1
và E
2
có BE lần lượt là 59,4 và 54,37%.
Chất lượng quả thể các chủng nấm đùi gà P. eryngii
trong nghiên cứu này được đánh giá tương đương với chất
lượng của các chủng nấm P. eryngii khác đã được công bố
và chất lượng quả thể của các chủng giống nấm đùi gà bị
thay đổi bởi giá thể nuôi trồng [2]. Theo Mazzi và cs (2004)
[19], nấm đùi gà có hàm lượng protein dao động từ 1,88 đến
2,65%. Rodrigues và cs (2015) [20] xác định hàm lượng
đường, protein, chất béo trong nấm đùi gà lần lượt là 5,45,
1,36 và 0,29%. Tương tự Reis và cs (2012) [21] cũng công
bố giá trị dinh dưỡng của nấm đùi gà P. eryngii gồm hàm
lượng protein 1,21%, đường 8,95% và lipid là 0,15%.
4162(9) 9.2020
Khoa học Nông nghiệp
Kết luận
Sự khác nhau về khả năng sinh trưởng, năng suất và chất
lượng của các chủng nấm đùi gà P. eryngii được quy định
bởi đặc tính sinh học của mỗi chủng nấm (kiểu gen). Chủng
giống E
11
cho thấy nhiều đặc điểm sinh trưởng, phát triển
vượt trội. Với đặc điểm sinh trưởng hệ sợi khỏe, thời gian
hình thành mầm quả thể ngắn (38-39 ngày), số lượng quả
thể hữu hiệu đạt 2,9-3,0 quả/lọ và BE 60,0-61,4%, chủng
giống nấm đùi gà E
11
(có nguồn gốc từ Trung Quốc) được
nhận định là chủng giống nấm triển vọng, đáp ứng đầy đủ
các tiêu chí của một giống nấm thương mại có năng suất và
chất lượng cao và phù hợp với điều kiện nuôi trồng ở Việt
Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] D. Lewinsohn, et al. (2002), “The Pleurotus eryngii species
complex in Israel: distribution and morphological description of a
new takson”, Mycotaxon, 81, pp.51-67.
[2] Nguyễn Thị Bích Thùy, Ngô Xuân
Nghiễn, Lê Văn Vẻ, Nguyễn Thị Luyện,
Nguyễn Thị Huyền Trang, Phan Thu Huy (2019), “Sinh trưởng hệ
sợi và hình thành quả thể của nấm sò vua Pleurotus eryngii (DC.: Fr.)
chủng E
2
”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 61(7), tr.39-44.
[3] F.R.H. Hassan, et al. (2010), “Cultivation of the king oyster
Mushroom (Plerrotus eryngii) in Egypt”, Australian Journal of Basic
and Applied Sciences, 4(1), pp.99-105.
[4] A. Li, et al. (2014), “Antioxidant activity of polysaccharide
extracted from Pleurotus eryngii using response surface methodology”,
Int. J. Biol. Macromol., 65, pp.28-32.
[5] S. J´ozsef, et al. (2011), “Comparative studies on the cultivation
and phylogenetics of king oyster Mushroom (Pleurotus eryngii (DC.:
Fr.) Qu´el.) strains”, Acta Universitatis Sapientiae Agriculture and
Environment, 3, pp.18-34.
[6] J.S. Ryu, et al. (2007), “The growth characteristics of Pleurotus
eryngii”, The Korean Journal of Mycology, 1(35), pp.47-53.
[7] J.T. Peng, et al. (2001), "Selection and breeding of king oyster
mushroom", Journal of Agricultural Research of China, 50(4), pp.43-58.
[8] Nguyễn Thị Bích Thùy, Ngô Xuân Nghiễn, Nguyễn Thế
Thắng, Trần Đông Anh, Nguyễn Xuân Cảnh, Nguyễn Văn Giang,
Trần Thị Đào (2016), “Đánh giá sinh trưởng và năng suất của nấm sò
vua (Pleurotus eryngii) (DC.:Fr.) Quel) trên nguyên liệu nuôi trồng
khác nhau”, Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, 14, tr.816-823.
[9] S.Y. Won, et al. (2010), “Optimum CO
2
concentration for
Fruit-body formation and yield of Pleurotus ferulae mushroom in the
growing facilitiy for bottle cultivation”, Journal of Bio-Environment
Control, 19(2), pp.77-81.
[10] M. Moonmoon, et al. (2010), “Cultivation of different strains
of king oyster mushroom (Pleurotus eryngii) on saw dust and rice
straw in Bangladesh”, Saudi Journal of Biological Sciences, 17,
pp.341-345.
[11] E. Baysal, et al. (2003), “Cultivation of oyster mushroom on
waster paper with some added supplementary materials”, Technology,
89, pp.95-97.
[12] A. Philippoussis, et al. (2002), Monitoring of mycelium
growth and fructification of lentinula edodes on several lignocellulosic
residues, Mushroom Biology and Mushroom Products UAEM
Cuernavaca Mexico.
[13] W. Iqbal, et al. (2018), “Optimization of King oyster
mushroom (Pleurotus eryngii) production against cotton waste and
fenugreek straw”. Pak. J. Phytopathol., 31(2), pp.149-154.
[14] S.M. Ayodele, E.O. Akpaja (2007), “Yield evaluation of
Lentinus squarosulus (Mont) sing on selected sawdust of economic
tree species supplemented with 20% oil palm fruit fibers”, Asian J.
Plant Sci., 6(7), pp.1098-1102.
[15] S. Kirbag, M. Akyuz (2008), “Effect of various agro-residues
ongrowing periods, yield and biological efficiency of Pleurotus
eryngii”, J. Food Agric. Environ., 6, pp.402-405.
[16] S.M. Amin, et al. (2007), “Effect of different substrates on the
growth and yield of five selected oyster mushrooms”, Bangladesh J.
Mushroom, 1, pp.21-25.
[17] A. Jawad, et al. (2013), “Effect of different substrate
supplements on oyster mushroom (Pleurotus spp.) production”, Food
Science and Technology, 1(3), pp.44-51.
[18] F. Atila (2019), “Yield and fruit body properties of Pleurotus
eryngii isolates grown on poplar sawdust supplemented with different
additive materials”, The Journal of Fungus, 10, pp.106-113.
[19] P. Manzi, et al. (2004), “Commercial mushrooms: nutritional
quality and effect of cooking”, Food Chem., 84(2), pp.201-206.
[20] D.M.F. Rodrigues, et al. (2015), “Chemical composition
and nutritive value of Pleurotus citrinopileatus var cornucopiae, P.
eryngii, P. salmoneo stramineus, Pholiota nameko and Hericium
erinaceus”, J. Food Sci. Technol., 52, pp.6927-6939.
[21] F.S. Reis, et al. (2012), “Chemical composition and nutritional
value of the most widely appreciated cultivated mushrooms: An
inter-species comparative study”. Food and Chemical Toxicology,
50(2),pp.191-197.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
tuyen_chon_cac_chung_giong_nam_dui_ga_pleurotus_eryngii_dc_f.pdf