Tỷ giá và các nhân tố tác động đến tỷ giá

Trước những con số ấn tượng từ việc cắt giảm các dòng thuế nhập khẩu nhiều mặt hàng theo lộ trình, hiện tượng nhập khẩu của nước ta đã gia tăng mạnh trong thời gian gần đây cả về quy mô tuyệt đối, cả về tỷ lệ so với GDP. Nếu năm 1995 mới có 8,15 tỷ USD, bằng 39,2% GDP, năm 2000 là 15,63 tỷ USD, bằng 50,1% GDP thì năm 2007 là 62,68 tỷ USD, bằng 88% GDP. Tình hình này đã làm cho cầu ngoại tệ tăng cao, khiến cho tỷ giá tăng lên, đồng Việt Nam trở nên giảm giá Khi Việt Nam gia nhập WTO, các thành viên WTO sẽ phải bãi bỏ hạn ngạch đối với hàng hóa Việt Nam (đây là một yêu cầu của WTO ). Hoa Kỳ hiện đang là một thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam về nhiều mặt hàng thị phần nhưng lại đang áp đặt hạn ngạch với ta. Khi ta gia nhập, thị trường lớn này sẽ buộc phải bãi bỏ hạn ngạch, do đó, ta có nhiều cơ hội đẩy mạnh lượng hàng xuất khẩu sang thị trường này. Thêm vào đó, các thị trường khác như EU sẽ không có cơ hội áp đặt hạn ngạch như đã làm trước đây, từ đó đảm bảo tính ổn định hơn cho thị trường hàng hóa Việt Nam. Nhờ đó cũng tăng được sự ổn định trong tỷ giá ngoại tệ tại VN. Tuy nhiên, việc tăng này cũng có khả năng đi kèm với nguy cơ bị kiện bán phá giá và viện dẫn áp đặt tự vệ.

doc27 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1184 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tỷ giá và các nhân tố tác động đến tỷ giá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời Mở Đầu Tỷ giá là một trong những vấn đề rất được quan tâm trong một nền kinh tế, đặc biệt là trong nền kinh tế của các nước đang phát triển, đang từng bước hoà nhập vào nền kinh tế thế giới và tham gia vào phân công lao động quốc tế như Việt Nam. Bởi hoạt động thương mại quốc tế của nước ta này ngày càng phát triển và đòi hỏi phải có sự tính toán so sánh về giá cả, tiền tệ với các nước đối tác. Chính tỷ giá là một công cụ quan trọng được sử dụng trong tính toán này.Trong nền kinh tế thị trường, giá cả nói chung và tỷ giá nói riêng thường xuyên biến động. Sự biến động tỷ giá ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế của một nước nói chung và các tổ chức tài chính nói riêng,nó có thể đem lại cho các tổ chức tài chính một khoản lợi nhuận khổng lồ, nhưng cũng chính nó có thể đưa các tổ chức tài chính đến bờ vực phá sản.Trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay,việc nghiên cứu tỷ giá lại càng cấp bách để từ đó có thể đề ra các chiến lược kinh doanh phù hợp nhằm kiểm soát và phòng ngừa rủi ro hối đoái .Trong quá trình được học tập ở trường ĐH công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi đã rất hứng thú với tỷ giá và nhận thấy tầm quan trọng của nó nên chúng tôi đã lựa chọn đề tài này. A.CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.Tỷ giá Tỷ giá hối đoái (gọi tắt là tỷ giá) là tỷ lệ trao đổi giữa hai đồng tiền của hai nước; hay nói cách khác là giá của một đồng tiền này tính bằng một đồng tiền (quốc gia) khác. Tỷ giá có thể được xác định bởi thị trường trong chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi, được gọi là tỷ giá thị trường. Tỷ giá cũng có thể được xác định bởi các cơ quan hữu trách trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Ở nhiều nước, trong đó có Việt Nam, cả thị trường lẫn cơ quan hữu trách cùng tham gia quy định tỷ giá. Trong chính sách tỷ giá cố định, sau khi được quy định, tỷ giá không thay đổi trong một thời gian tương đối dài. Nếu tỷ giá thấp, nghĩa là đồng nội tệ được định giá quá cao, ảnh hưởng đến xuất khẩu, có thể dẫn đến tình trạng đất nước bị thâm hụt cán cân thanh toán. Lúc đó Chính phủ có thể phá giá đồng tiền, cố định mức độ tỷ giá hối đoái ở mức thấp hơn làm cho hàng nhập khẩu đắt hơn và hàng xuất khẩu rẻ hơn. Ngược lại, nếu đồng tiền trong nước bị định giá quá thấp, xuất khẩu có lợi sẽ đạt thặng dư cán cân thanh toán, nhà nước có thể tăng giá đồng nội tệ, cố định tỷ giá ở mức mới cao hơn, làm cho nhập khẩu rẻ hơn. Trong chính sách tỷ giá thả nổi, tỷ giá tự do biến động hàng ngày, nó xuống giá hoặc lên giá cùng với những biến động của thị trường, góp phần làm cho cán cân thanh toán liên tục ở trạng thái cân bằng. Tỷ giá hối đoái khi đổi tại ngân hàng thương mại và quầy giao dịch ngoại hối phục vụ khách hàng lẻ thường chênh lệch so với tỷ giá công bố có thể vì một trong hai lý do sau: (1) đã được tính gộp cả phí dịch vụ; (2) có hai tỷ giá đồng thời, một tỷ giá hối đoái chính thức (có thể do cơ quan hữu trách qui định, hoặc do cả thị trường lẫn cơ quan hữu trách quy đinh) và một tỷ giá không chính thức (còn gọi là tỷ giá hối đoái song song hay tỷ giá chợ đen) do thị trường quyết định. Ở Việt Nam, ngay cả tỷ giá hối đoái chính thức cũng có vài loại: tỷ giá bình quân liên ngân hàng, tỷ giá tính thuế xuất nhập khẩu, tỷ giá giao dịch của ngân hàng thương mại, và tỷ giá hạch toán. Tỷ giá mua vào và bán ra ngoại tệ niêm yết tại một số ngân hàng để phục vụ khách đổi tiền là tỷ giá giao dịch của ngân hàng thương mại có tính thêm phí dịch vụ. Còn tỷ giá đổi tiền tại các cửa hàng kinh doanh vàng bạc ngoại tệ của tư nhân hay khi đổi tiền trong nhân dân chính là tỷ giá hối đoái song song. Tỷ giá hối đoái đóng vai trò chính trong thương mại quốc tế. Chính vì vậy, tỷ giá hối đoái được sử dụng để điều tiết chính sách khuyến khích xuất khẩu hay nhập khẩu hàng hóa của một nước. 2.Các loại tỷ giá 2.1.Tỷ giá hối đoái danh nghĩa và Tỷ giá hối đoái thực tế Tỷ giá hối đoái danh nghĩa là tỷ giá hối đoái không xét đến tương quan giá cả hay tương quan lạm phát giữa hai nước. Tỷ giá hối đoái thực tế là tỷ giá hối đoái có xét đến tương quan giá cả giữa hai nước hoặc tương quan tỷ lệ lạm phát giữa hai nước. Quan hệ giữa hai loại tỷ giá này được thể hiện qua cách tính sau: Tỷ giá hối đoái thực tế = Tỷ giá hối đoái danh nghĩa x Giá nước ngoài / Giá nội địa = Tỷ giá hối đoái danh nghĩa x Tỷ lệ lạm phát nước ngoài / Tỷ lệ lạm phát trong nước. 2.2.Tỷ giá hối đoái song phương và Tỷ giá hối đoái hiệu lực Tỷ giá hối đoái giữa hai đồng tiền được gọi là tỷ giá hối đoái song phương. Tỷ giá hối đoái hiệu lực là tỷ lệ trao đổi giữa một đồng tiền X với nhiều đồng tiền khác cùng lúc (thông thường là đồng tiền của các bạn hàng thương mại lớn). Tỷ giá này được tính dựa trên giá trị bình quân gia quyền của các tỷ giá song phương giữa đồng tiền X với từng đồng tiền kia. Tỷ giá hối đoái hiệu lực cũng có loại danh nghĩa và loại thực tế. 3.Các nhân tố ảnh hưởng tới tỷ giá. Cho đến nay có rất nhiều lý thuyết tiếp cận giải thích sự hình thành và biến động của tỷ giá.có thế nêu ra 3 lý thuyết cơ bản sau: - Lý thuyết ngang giá sức mua ( The Purchasing Power Parity Theory- PPP): nghiên cứu tương quan lạm phát giữa hai nước tác động đến tỷ giá. - Lý thuyết ngang giá lãi suất ( The Interest Rate Parity- IRP): nghiên cứu tương quan lãi suất của hai đồng tiền tác động đến tỷ giá. - Lý thuyết cán cân thanh toán quốc tế ( BOP): nghiên cứu động thái cán cân thanh toán quốc tế ảnh hưởng đển tỷ giá. Các lý thuyết này đã dựa trên các giả thiết khác nhau để giải thích sự hình thành và biến động của tỷ giá, bao gồm: tỷ giá được hình thành như thế nào, nguyên nhân làm cho tỷ giá biến động , xu hướng biến động của tỷ giá trong dài hạn, trong ngắn hạn và khả năng tăng vọt của tỷ giá. Cũng giống như giá cả của bất kỳ hàng hóa nào, trong chế độ tỷ giá thả nổi, giá cả của đồng tiền tự do chuyển đổi cũng phụ thuộc vào quan hệ cung cầu của đồng tiền đó trên thị trường ngoại hối. Như vậy nếu biết được những nhân tố hình thành và tác động lên tỷ giá. Mà việc ghi chép, thống kê, phân tích những nhân tố đứng đằng sau cung cầu một đồng tiền lại được phản ánh trên các tài khoản của BOP. Do đó chỉ cần tiếp cận phân tích BOP là có thể biết được một cách tương đối toàn diện các yếu tố tác động lên tỷ giá. Tôi sẽ thông qua lý thuyết cán cân thanh toán quốc tế (BOP) để giải thích sự biến động của tỷ giá. 3.1 Lạm phát Tương quan lạm phát giữa hai đồng tiền có nghĩa là mức giá chung của đồng nội tệ sẽ thay đổi tương đối so với mức giá chung của các đồng ngoại tệ khác. Nó tác động tới tỷ giá trong dài hạn,theo lý thuyết ngang giá sức mua, tỷ giá hai đồng tiền phải biến động để phản ánh tương quan lạm phát giữa 2 đồng tiền theo công thức: ∆E là tỷ lệ % thay đổi của tỷ giá sau một năm; ∆P là tỷ lệ lạm phát/năm trong nước; ∆Plà tỷ lệ lạm phát/năm ở nước ngoài; Hay mức tỷ giá sau một thời gian (t) được xác định theo lý thuyết ngang giá sức mua theo công thức: Eo là tỷ giá thời kì cơ sở; E1 là tỷ giá thời kì t; CPIi là chỉ số giá tiêu dùng trong nước; CPIi* là chỉ số giá tiêu dùng nước ngoài; t là thời kì ( t = 1, 2, 3,,t). Vì ∆P và ∆P* là tỷ lệ lạm phát nên thường ít thay đổi trong ngắn hạn, và chỉ thay đổi từ từ trong dài hạn, chính vì vậy, tương quan lạm phát giữa hai đồng tiền quyết định xu hướng vận động của tỷ giá trong dài hạn. Có nghĩa là khi giá hàng Việt tăng (giá hàng ngoại không đổi) thì cầu về hàng Việt giảm xuống. Điều này sẽ làm giảm lượng hàng Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ và giảm số lượng tiền đồng mà các nhà nhập khẩu Mỹ có nhu cầu (lượng USD cung ra để đổi thành tiền Việt giảm) Khi đó xuất khẩu của Mỹ sang Việt Nam có mức giá tính bằng tiền đồng không thay đổi trong khi giá hàng Việt Nam bán ở trong nước tăng lên do lạm phát. Như vậy hàng Mỹ sẽ trở nên hấp dẫn hơn so với hàng Việt Nam (bởi vì chúng trở nên rẻ hơn một cách tương đối) và người Việt Nam sẽ sẵn sàng mua nhiều hàng Mỹ hơn. Dẫn đến cầu USD tăng => tỷ giá tăng => đồng Việt Nam mất giá. Tuy nhiên khi lạm phát giống nhau ở cả 2 nước sẽ không ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái cân bằng. Về lâu dài, một sự tăng lên mức giá của một nước (tương đối so với mức giá nước ngoài) làm cho đồng tiền của nước đó giảm giá, trong khi một sự giảm xuống của mức giá tương đối của một nước làm cho đồng tiền của nước đó tăng giá. 3.2.Thuế quan và hạn ngạch a.Thuế quan và hạn ngạch (QUOTA) trong nước: Nếu một quốc gia tăng mức thuế quan hoặc áp dụng hạn ngạch đối với hàng nhập khẩu, làm cho lượng hàng hóa nhập khẩu vào vào nước đó giảm, giá hàng nhập khẩu tăng. Cho nên cầu về hàng ngoại nhập giảm => cầu ngoại tệ giảm => tỷ giá giảm => đồng nội tệ lên giá. Ngược lại nếu một quốc gia giảm mức thuế quan hoặc dỡ bỏ hạn ngạch đối với hàng nhập khẩu, làm cho lượng hàng hóa nhập khẩu vào nước đó tăng, giá hàng nhập khẩu giảm => cầu hàng ngoại tăng => cầu ngoại tệ tăng => tỷ giá tăng => đồng nội tệ giảm giá. Mặc dù, thuế quan và hạn ngạch tác động tới tỷ giá là cùng chiều nhưng thuế quan tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng; trong khi đó hạn ngạch tạo ra sự phân biệt đối xử, môi trường cạnh tranh không bình đẳng, là nguyên nhân chính tạo ra khe hở trong quản lý và môi trường cho tiêu cực. b.Thuế quan và hạn ngạch (QUOTA) ở nước ngoài: Nếu nước ngoài (Mỹ) tăng mức thuế quan hoặc áp dụng hạn ngạch đối với hàng nhập khẩu vào nước này thì làm tăng giá của hàng hóa đó => nhu cầu về hàng nhập khẩu tại Mỹ giảm => nhu cầu đổi tiền từ đồng ngoại tệ ( USD) sang đồng nội tệ của nước XK giảm làm cho cung ngoại tệ tại nước XK giảm => tỷ giá tại nước này tăng => đồng nội tệ mất giá. Ngược lại nếu một quốc gia giảm mức thuế quan hoặc dỡ bỏ hạn ngạch đối với hàng nhập khẩu thì làm giảm giá của hàng nhập khẩu => nhu cầu đổi tiền từ đồng ngoại tệ ( USD) sang đồng tiền nước xuất khẩu tăng cho nên cung ngoại tệ tại nước XK tăng => tỷ giá tại nước đó tăng => đồng nội tệ lên giá. Giả dụ: Việt Nam áp đặt một loại thuế hoặc hạn ngạch đối với ô tô của Nhật những hàng rào này làm tăng cầu về ô tô Việt Nam, và đồng Việt Nam có xu hướng tăng giá. Thuế quan và hạn ngạch về lâu dài làm cho đồng tiền của một nước tăng giá. 3.3.Thu nhập a.Thu nhập (thực) của người cư trú và người không cư trú: Thu nhập của người cư trú tăng tương đối so với thu nhập của người không cư trú thì kích thích nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào trong nước => nhập khẩu ròng tăng => làm tăng cầu ngoại tệ => tỷ giá tăng => đồng nội tệ mất giá. Ngược lại, thu nhập của người không cư trú tăng tương đối so với thu nhập của người cư trú thì kích thích xuất khẩu hàng hóa trong nước ra nước ngoài => xuất khẩu ròng tăng => làm giảm cầu ngoại tệ =>tỷ giá giảm => đồng nội tệ lên giá. b.Các khoản thu và các khoản chi của người không cư trú: Các khoản thu và chi đối với người không cư trú trong cán cân chuyển giao như từ thiện, biếu tặng, kiều hối Các khoản thu từ người không cư trú được ghi (+) lớn hơn các khoản chi cho người không cư trú ghi (-) => cán cân chuyển giao ròng dương => làm tăng cung ngoại tê => tỷ giá giảm => đồng nội tệ lên giá. Ngược lại, các khoản thu từ người không cư trú được ghi (+) nhỏ hơn các khoản chi cho người không cư trú ghi(-) => cán cân chuyển giao ròng âm => làm tăng cung ngoại tê =>tỷ giá giảm => đồng nội tệ lên giá. c.Thu nhập từ người nước ngoài: Nhân tố quyết định đến thu nhập từ người lao động nước ngoài là số lương, mức lương và tỷ lệ tiết kiệm của họ. Nhân tố quyết định đến thu nhập từ đầu tư nước ngoài đó là giá trị đầu tư ở nước ngoài trước đo và tỷ lệ sinh lời của đâuh tư. Khi thu từ người lao động và đầu tư nước ngoài lớn hơn chi => cán cân thu nhập ròng dương => tăng cung ngoại tệ => tỷ giá giảm => đồng nội tệ lên giá. Ngược lại, khi thu từ người lao động và đầu tư nước ngoài nhỏ hơn chi => cán cân thu nhập ròng âm => tăng cầu ngoại tệ => tỷ giá tăng => đồng nội tệ mất giá. 3.4.Lãi suất Tương quan lãi suất giữa hai đồng tiền tác động ngắn hạn đến tỷ giá. Theo lý thuyết ngang giá lãi suất, tỷ giá giữa hai đồng tiền phải biến động để phản ánh tương quan lãi suất giữa chúng, theo công thức: Trong đó: ∆E: tỷ lệ % thay đổi tỷ giá sau một năm, R : mức lãi suất/năm của nội tệ; R*: mức lãi suất/năm của ngoại tệ. Vì R và R* là mức lãi suất nên tần số thay đổi phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của NHTW. Các luồng tiền sẽ chảy từ nơi có lãi suất thấp đến nơi có lãi suất cao theo nguyên lý nước chảy chỗ trũng. Khi mặt bằng lãi suất của Việt Nam cao hơn so với thị trường quốc tế, nhà đầu tư nước ngoài sẽ chuyển tiền vào Việt Nam để thu được lãi lớn hơn, làm tăng cung ngoại tệ. Điều này đẩy đường cung ngọai tệ dịch chuyển sang phải, kết quả là đồng nội tệ lên giá so với ngoại tệ. Điều này diễn ra ngược lại khi mặt bằng lãi suất Việt Nam thấp hơn thị trường bên ngoài. Trong nền kinh tế tiền tệ, NHTW thường xuyên thay đổi lãi suất để tác động tích cực lên nền kinh tế, tần số thay đổi lãi suất càng nhiều làm tỷ giá biến động càng nhanh, chính vì vậy, tương quan lãi suất giữa hai đồng tiền quyết định xu hướng vận động của tỷ giá trong ngắn hạn. 3.5.Sự vận động của luồng vốn quốc tế Ngày nay, hoạt động vay và cho vay quốc tế diễn ra rất mạnh mẽ (Cụ thể, chỉ trong vòng 4 tháng đầu năm 2008, Việt Nam đã thu hút 7,598 tỷ USD vốn đầu tư FDI). Việc xác định tỷ giá hối đoái trở nên phức tạp hơn nhiều khi chúng ta đưa tác động của luồng vốn vào trong phân tích. Giả sử, khi Việt Nam tăng cường đầu tư vào Mỹ hoặc bất kỳ quốc gia nào khác, cầu về tiền của quốc gia đó sẽ tăng. Nói cách khác, nhu cầu này làm đường cầu ngoại tệ dịch chuyển sang phải, khi đó đồng đô la (ngoại tệ khác) sẽ lên giá so với tiền đồng. Ngược lại, khi Mỹ hoặc các quốc gia khác muốn đầu tư vào Việt Nam, họ sẽ cung ngoại tệ để đổi lấy tiền đồng, làm cung ngoại tệ tăng và đường cung dịch sang phải, đồng đô la (ngoại tệ khác) sẽ giảm giá so với đồng Việt Nam. 3.6. Những dự tính về sự biến động của tỷ giá Công thức sau thể hiện mối quan hệ giữa tỷ giá dự tính tương lai (Ee ) và tỷ giá hiện tại(E0): Từ công thức trên cho thấy, cầu của một loại tài sản phụ thuộc vào mức giá kỳ vọng mà tài sản đó mang lại trong tương lai. Điều này cũng đúng với tiền tệ. Khi người Việt Nam tin tưởng rằng trong tương lai, những ngoại tệ như USD, EUR sẽ tăng giá so với tiền đồng, thì trong hiện tại, họ sẽ muốn giữ những ngoại tệ đó nhiều hơn. Bằng cách đó, khi kỳ vọng của họ xảy ra trong tương lai, họ sẽ thu về một khoảng bằng chênh lệch tỷ giá nhân với số lượng ngoại tệ nắm giữ. Nếu mọi người đều có cùng nhận thức và quyết định như vậy, nhu cầu ngoại tệ trong hiện tại sẽ được đẩy lên cao, làm đường cầu ngoại tệ dịch sang phải. Kết quả là đồng ngoại tệ sẽ tăng giá một cách tương đối so với tiền Việt Nam. Ngược lại, nếu mọi người cho rằng việc giữ tiền đồng có lợi hơn, thì việc sở hữu ngoại tệ trở nên kém hấp dẫn và cầu ngoại tệ đi xuống, khiến cho đồng ngoại tệ sẽ giảm giá so với đồng Việt Nam ngay trong hiện tại. Ngoài ra những yếu tố quyết định về dài hạn của tỷ giá chỉ ra những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá tương lai dự tính: mức giá cả tương đối, thuế quan tương đối và quota, năng suất lao động. 3.7. Giá thế giới của hàng hóa xuất nhập khẩu: Giá thế giới của hàng hoá xuất nhập khẩu tạo ra sự biến động của cung cầu ngoại tệ. Gọi x là giá thế giới của hàng xuất khẩu, y là giá thế giới của hàng nhập khẩu. Trường hợp 1: x giảm hoặc y tăng thì cung ngoại tệ giảm, cầu ngoại tệ tăng=> tỷ giá hối đoái tăng, đồng nội tệ giảm giá. Sự tăng giá của hàng xuất khẩu: Khi giá của dệt may xuất khẩu tăng lên (trong điều kiện nhiều nước khác cũng có bán sản phẩm tương tự trên thị trường Mỹ) thì người Mỹ sẽ chi ít tiền hơn để mua hàng dệt may Việt Nam. Do đó sẽ có ít đồng USD được cung ứng để chuyển sang tiền đồng Việt Nam. Cho nên cung USD sẽ giảm => tỷ giá tăng => đồng Việt Nam giảm giá. Trường hợp 2: x tăng hoặc y giảm thì cung ngoại tệ tăng, cầu ngoại tệ giảm=> tỷ giá hối đoái giảm, đồng nội tệ lên giá. Sự tăng giá quốc tế của hàng nhập khẩu: Khi giá của hàng điện tử Mỹ tăng lên ( trong điều kiện có nhiều nước khác cũng có sản phẩm tương tự) thì người Việt sẽ cần ít đồng USD hơn so với trước đây để mua hàng điện tử Mỹ. Cho nên cầu USD sẽ giảm => tỷ giá giảm => đồng Việt Nam tăng giá. 3.8. Các nhóm nhân tố khác a.Tâm lý ưa thích hàng ngoại: Tâm lý này kích thích nhập khẩu => cầu ngoại tệ tăng => tỷ giá tăng => đồng nội tệ mất giá. Giả dụ: người Việt Nam thích hàng hóa của Nhật thì cầu về hàng hóa của Nhật tăng lên => cầu Yên Nhật (YJP) tăng => tỷ giá tăng => đồng VN mất giá. Cầu đối với hàng xuất khẩu của một nước tăng về lâu dài làm cho đồng tiền của nước đó tăng giá trong khi cầu về hàng nhập khẩu tăng lên lam cho đồng tiền của nước đó giảm giá. b.Năng suất lao động: Nếu năng suất lao động của một nước tăng cao hơn nước khác thì những nhà kinh doanh trong nước đó có thể hạ giá tương đối hàng nội so với hàng ngoại mà vẫn thu được lãi. => cầu về hàng nội tăng lên => đồng nội tệ tăng giá. Nếu năng suất lao động của nước đó kém hơn nước khác thì hàng hóa nước đó trở thành tương đói đát hơn =>cầu về hàng nội giảm =>đồng nội tệ mất giá. Về lâu dài do năng suất lao động của một nước cao hơn so với nước khác nên đồng tiền của nước đó tăng giá. c.Cú shock chính trị, kinh tế, xã hội: Khi những cú shock này xảy ra tại 1 quốc gia, nó khiến cho tâm lý những người đang nắm giữ tiền của quốc gia đó trở nên bất ổn, không yên tâm về khả năng sinh lời của đồng tiền, thậm chí lo sợ cho sự mất giá của nó. Điều này buộc họ chuyển hướng đầu tư sang những đồng tiền ổn định hơn, làm cho cầu về loại tiền đó tăng lên, từ đó tác động ngay đến tỷ giá. d.Sự can thiệp của Ngân Hàng TW: Mua ngoại tệ làm tăng cầu ngoại tệ, làm tăng tỷ giá; bán ngoại tệ làm tăng cung ngoại tệ, giảm tỷ giá; Thay đổi lãi suất tái chiết khấu, từ đó tác động đến mặt bằng lãi suất thị trường, chuyển hướng các luồng tiền và do đó làm thay đổi tỷ giá; điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, ảnh hưởng đến lượng cung ngoại tệ trên thị trường B.THỰC TIỄN 1.Diễn biến tỷ giá tại Việt Nam Tỷ giá rất được quan tâm đối với các nước đang từng bước hòa nhập vào xu hướng thế giới như Việt Nam. Vậy diễn biến tỷ giá tại Việt Nam thời gian qua như thế nào, và dự đoán xu hướng trong thời gian tới ra sao? Khi mới chuyển đổi, mở cửa, hội nhập, tỷ giá VND/USD khá cao, có thời gian đã lên đến 16.000 VDN/USD (vào cuối năm 1991), năm 1992 đã giảm mạnh và sau đó chỉ tăng, giảm nhẹ. Chỉ trừ năm 1997- 1998, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở khu vực mà tỷ giá tăng cao, còn các năm từ đó cho đến quý 1 2007 chỉ tăng nhẹ. Bước sang năm 2007, tháng 1 giảm 0,12%, tháng 2 giảm 0,21%, tính chung 2 tháng giảm 0,33%. Tháng 2/2007 sản phẩm với tháng 12/2001, giá USD chỉ tăng 6,4%. Trong thời gian tương ứng, giá tiêu dùng tăng 38,5%, còn giá vàng tăng 144%. Nếu so xa hơn, tức là tháng 2/2007 so với tháng 12/1991, trong khi giá tiêu dùng tăng 161,7%, giá vàng tăng 87,3%, thì giá USD cũng chỉ tăng 10%. Điều đó có nghĩa là, dù so gần hay xa, thì giá USD vẫn tăng rất thấp so với giá tiêu dùng và giá vàng. Đặc biệt là giá USD lại đang trong xu thế giảm! Nguyên nhân của diễn biến trên là do: Thứ nhất, kinh tế Việt Nam tăng trưởng liên tục với tốc độ cao hơn là tiền đề quan trọng để đồng tiền lên giá so với các đồng tiền khác (bình quân năm thời kỳ 1996- 2000 tăng 7%, thời kỳ 2001- 2006 tăng trên 7,6%, trong đó 2 năm nay tăng trên 8%). Khi có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn thì đồng tiền lên giá là tất yếu. Thứ hai, cùng với tăng trưởng kinh tế cao và liên tục, với chủ trương chủ động mở cửa, hội nhập, hiện có một lượng ngoại tệ lớn chảy vào nước ta từ nhiều nguồn - Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) năm 2006 đã đạt kỷ lục cả về lượng vốn đăng ký (10,2 tỷ USD, gồm đăng ký mới và bổ sung), cả về lượng vốn thực hiện (4,1 tỷ USD). - Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) năm 2006 cũng đạt kỷ lục về lượng vốn cam kết (4,45 tỷ USD) và là năm thứ hai liên tục thực hiện vượt mức kế hoạch (1,81 tỷ USD). - Nguồn kiều hối (bao gồm của Việt kiều và số tiền do lao động xuất khẩu) gửi về nước đạt mức kỷ lục (khoảng 4,7 tỷ USD). - Chi tiêu của khách quốc tế đến Việt Nam năm nay cũng đạt kỷ lục (ước đạt trên 2,8 tỷ USD). - Kim ngạch xuất khẩu đạt mức kỷ lục (trên 39,6 tỷ USD). - Lượng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào thị trường chứng khoán hiện cũng đạt khoảng 4 tỷ USD, chiếm khoảng 28,6% tổng giá trị vốn hoá thị trường chứng khoán của Việt Nam. Khi có lượng ngoại tệ lớn chảy mạnh vào trong nước, thì đó vừa là kết quả, vừa tạo tiền đề để tỷ giá khó tăng lên. Thứ ba, đồng USD giảm giá so với các đồng tiền chủ chốt trên thế giới, như 1 USD hiện chỉ đổi được dưới 0,76 Eur, 0,51 Bảng Anh; giảm giá so với một số đồng bản tệ của các nước, như 1 USD hiện chỉ đổi được 7,72 CNY (Nhân dân tệ), 9,35 Won Hàn Quốc, 35,6 Baht Thái Lan,... Thứ tư, có một nguyên nhân quan trọng nhưng khá trừu tượng mà không phải ai cũng để ý đến, đó là “cánh kéo tỷ giá” giữa tỷ giá hối đoái và tỷ giá sức mua tương đương. 1 USD tại Việt Nam có sức mua vào khoảng 4,3 USD tại Mỹ. Điều này lý giải tại sao GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2006 tính theo tỷ giá hối đoái chỉ đạt 725,3 USD, nhưng nếu tính theo tỷ giá sức mua tương đương đạt khoảng 3.118 USD. Điều đó cũng giải thích tại sao nước Mỹ nhập siêu lớn từ các nước đang phát triển, trong khi lại đầu tư (cả trực tiếp và gián tiếp) vào các nước này. Tỷ giá VND/USD 6 tháng cuối năm 2007 đã diễn biến như sau: tháng 7 tăng 0,22%, tháng 8 tăng 0,16%, tháng 9 tăng 0,57%, tháng 10 giảm 0,6%, tháng 11 giảm 0,28%, tháng 12 giảm 0,19%. Tính chung 6 tháng cuối năm 2007, tỷ giá VND/USD đã giảm 0,12%. Như vậy trước đây, giá trên thị trường tự do đã “kéo” giá trên thị trường chính thức lên và bây giờ giá trên thị trường tự do lại có tác động “kéo” giá trên thị trường chính thức xuống. Đó là do các yếu tố sau đây: Do sự can thiệp, chấn chỉnh và kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước đối với các đại lý thu đổi ngoại tệ, làm cho các đại lý này mang tính chuyên nghiệp và hoạt động đúng pháp luật. Do cán cân thanh toán tổng thể tiếp tục thặng dư, tính thanh khoản của quốc gia được cải thiện. Nhập siêu đã có xu hướng giảm, khả năng cả năm có thể chỉ ở mức trên dưới 20 tỷ USD, không đến mức 30 tỷ USD như dự đoán của một số tổ chức quốc tế. Lượng ngoại tệ vào nước ta từ các nguồn tiếp tục tăng mạnh. FDI thực hiện 6 tháng ước 5 tỷ USD, tăng 37,5%, khả năng cả năm có thể đạt 11 tỷ USD, tăng 3 tỷ USD so với năm trước. ODA giải ngân 6 tháng ước đạt 1,1 tỷ USD, khả năng cả năm có thể đạt trên 2 tỷ USD, tăng so với năm trước. Chi tiêu của khách quốc tế đến Việt Nam 6 tháng ước đạt 1,95 tỷ USD, tăng 14% so với cùng kỳ, khả năng cả năm có thể đạt trên 4 tỷ USD, tăng gần 1 tỷ USD so với năm trước. Đầu tư gián tiếp năm trước vào mạnh (ước đạt 6,2 tỷ USD), 6 tháng đầu năm bị sút giảm mạnh, nhưng khi thị trường bất động sản bị lạnh, giá giảm mạnh, chính sách tiền tệ bị thắt chặt, nên nhiều nhà đầu tư trong nước buộc phải đẩy mạnh bán ra và giá trên thị trường chứng khoán đã xuống mức quá thấp, nay có dấu hiệu phục hồi, nên đã hấp dẫn các quỹ đầu tư quốc tế đưa mạnh tiền vào. Tỷ giá hối đoái VND/USD và sự biến động của nó không chỉ là mối quan tâm trực tiếp của các doanh nghiệp xuất khẩu hay nhập khẩu, của những người cho vay hay vay ngoại tệ, của các ngân hàng thương mại,... mà còn là mối quan tâm của các nhà hoạch định chính sách vĩ mô.Năm 2008, tỷ giá VND/USD có sự biến động khác với các năm trước. Sự khác nhau thể hiện ở một số điểm sau đây: Biến động nhiều hơn: giảm liên tục trong 3 tháng đầu, tăng liên tục trong 3 tháng sau. Nếu trong 3 tháng đầu, người có USD muốn bán cũng rất khó bán, thì trong 3 tháng sau, đặc biệt là tháng 6, người muốn mua USD cũng rất khó mua vì giá cao. Chênh lệch giữa giá USD trên thị trường tự do và ở các ngân hàng thương mại lúc mang dấu âm, lúc mang dấu dương và chênh lệch khá lớn. Tỷ giá VND/USD tính theo năm thì từ tháng 1 đến tháng 4 bị giảm, tháng 5, tháng 6 tăng, đặc biệt tháng 6 tăng cao. Đó là diễn biến tỷ giá VND/USD thời gian qua. NHNN nhấn mạnh rằng, trong năm 2008, tình hình kinh tế quốc tế có những diễn biến phức tạp. Cuộc khủng khoảng của Mỹ ngày càng trầm trọng và lan rộng khiến cho hệ thống tài chính quốc tế đứng trước nguy cơ khủng hoảng và ảnh hưởng đến triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Ngân hàng Trung ương nhiều quốc gia đã và đang nỗ lực thực hiện các biện pháp nhằm ngăn chặn khủng hoảng. Lãi suất liên tục được điều chỉnh giảm và tỷ giá của USD này trên thị trường quốc tế cũng biến động phức tạp. Tính từ đầu năm đến nay, USD đã tăng giá trên 10% so với Euro, 5,51% so với Bath Thái, 3,11% so với Đô la Singapore, 7,02% so với Ringit Malaysia Bên cạnh đó, với việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới(WTO), nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng và chịu tác động đáng kể từ diễn biến kinh tế quốc tế. Biến động trên thị trường ngoại hối quốc tế và sự gia tăng các luồng vốn đầu tư nước ngoài đã khiến cho thị trường ngoại hối Việt Nam trong năm 2008 diễn biến phức tạp, có những thời điểm cung cầu ngoại tệ mất cân đối, lúc thừa, lúc thiếu ngoại tệ. Trong bối cảnh đó, việc điều hành tỷ giá tương đối linh hoạt sẽ giúp các tổ chức tín dụng và tổ chức kinh tế thích ứng tốt hơn với các biến động trên thị trường quốc tế. Ngoài ra, chỉ số giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán phi mã liên tục đạt kỷ lục và hút một lượng vốn lớn cũng giảm áp lực tăng giá USD. Những nguyên nhân trên cũng lý giải tại sao từ đầu năm, Ngân hàng Nhà nước quyết định mở rộng biên độ giao dịch USD từ 0,25% lên 0,5%, nhưng tỷ giá vẫn không lên mà còn giảm. Nhân đây cũng nên nhắc lại khi cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á nổ ra, có chuyên gia đã kiến nghị Chính phủ phá giá VND lên 17 thậm chí 19 nghìn VND/USD, nhưng mãi cho đến nay, sau 10 năm, tỷ giá chính thức vẫn chưa vượt qua 16 nghìn! Chỉ sau hai tuần biến động nhẹ, tỷ giá hối đoái trên thị trường tự do giao dịch trong ngày cuối tuần bắt đầu có chiều hướng giảm dần, hoạt động mua - bán cũng trầm lắng hẳn. Tỷ giá hối đoái chào mua sáng ngày 31/10 tại TP.HCM chỉ còn 16.860 VND/USD, giảm hơn 140 VND/USD. Người mua rất ít, trong khi người bán có xu hướng đẩy hàng nhiều hơn. Tại các ngân hàng thương mại, như Vietcombank, Eximbank, ACB, DongA Bank..., tỷ giá niêm yết cũng suy yếu dần, giảm khoảng 50 VND/USD. Tỷ giá hối đoái niêm yết trong ngày 31/10 tại Vietcombank và Eximbank là 16.780 - 16.830 VND/USD. Trước đó, vào những ngày giữa tháng 10, khi tỷ giá hối đoái trên thị trường nhích dần, nhiều người đã tỏ ra lo ngại, nhất là khi lãi suất cơ bản được điều chỉnh giảm từ 14% xuống 13%. Một số nhà đầu tư đã chuyển vốn sang ngoại tệ. Có ý kiến khi đó cho rằng, diễn biến của thị trường hiện tại là cơ hội để giữ USD, vì xuất khẩu gặp phải khó khăn khi giá hàng hóa hạ, nên nhiều khả năng Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sẽ nâng tỷ giá để bù đắp phần nào chi phí cho doanh nghiệp. Vào thời điểm cuối tháng 5 và những ngày đầu tháng 6, trên thị trường ngoại hối (thị trường tự do), tỷ giá tăng hàng ngày, có những ngày tỷ giá lên tới mức 19.400 VND/USD, chênh lệch giữa tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng với tỷ giá thị trường tự do ngày càng lớn, thị trường ngoại hối có dấu hiệu bất ổn. Đối với nhiều ngân hàng, đây là mảng kinh doanh mang lại nguồn thu đáng kể, tuy nhiên sự biến động của thị trường đã có tác động không nhỏ.  2.Sự can thiệp của Ngân hàng nhà nước Để bình ổn thị trường ngoại hối, NHNN đã thực hiện hàng loạt biện pháp, như nới rộng biên độ tỷ giá từ 1% lên mức +/-2%, tạo sự linh hoạt tỷ giá sát với cung cầu thị trường; thực hiện mở rộng đối tượng bán ngoại tệ cho NHTM, việc can thiệp dựa vào trạng thái ngoại tệ của NHTM trong ngày; thực hiện minh bạch thông tin về dự trữ ngoại hối. Các biện pháp này đã đáp ứng được kỳ vọng của thị trường, trên cơ sở đó tạo dựng lòng tin của thị trường với NHNN. Bên cạnh đó, NHNN còn thực hiện giám sát chặt chẽ hoạt động kinh doanh ngoại tệ, cấm tổ chức tín dụng không được mua bán USD thông qua ngoại tệ khác, phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành kiểm tra và xử lý các hoạt động đầu cơ, kinh doanh ngoại tệ trái pháp luật trên thị trường và thiết lập đường dây nóng. Hành động này, đã có tác động nâng cao kỷ luật thị trường, góp phần bình ổn thị trường.  Ngày 30/10, NHNN đã ban hành Công văn hướng dẫn thực hiện Quy chế hoạt động đại lý đổi ngoại tệ. Theo đó, NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố yêu cầu ngân hàng nghiêm túc thực hiện việc thanh lý hợp đồng đổi ngoại tệ đối với các đại lý đổi ngoại tệ không đủ điều kiện và chuyển đổi giấy phép làm đại lý đổi ngoại tệ đối với các đại lý đã đủ điều kiện theo đúng thời hạn quy định tại Điều 13, Chương III của Quy chế này Ngày 6/11/2008, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam quyết định cho phép các tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối ấn định tỷ giá mua bán giao ngay giữa VND và USD trong biên độ ±3% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Như vậy, biên độ tỷ giá đã tăng ±1% so với mức ±2% áp dụng hiện nay. Biên độ tỷ giá mới sẽ được áp dụng từ ngày 7/11/2008. Có thể nói, việc thực hiện đồng bộ các giải pháp bước đầu tạo được sự bình ổn thị trường ngoại tệ, thể hiện ở việc tỷ giá trên thị trường tự do giảm dần, sát với tỷ giá liên ngân hàng và các NHTM giao dịch tỷ giá với khách hàng trong biên độ cho phép. 3.Dự đoán tỷ giá sắp tới Do diễn biến và những biện pháp can thiệp của Chính phủ,tỷ giá hối đoái khó có thể biến động trong thời gian từ nay đến cuối năm và dự báo chỉ xoay quanh mức gần 17.000 VND/USD. 4.Nhân tố tác động đến tỷ giá ở Việt Nam Nhu cầu trong nước tăng mạnh cùng mức thanh khoản cao tạo áp lực ngày càng cao đối với  lạm phát. Tỷ lệ lạm phát trung bình hằng năm từ 3,1% năm 2003 lên tới 7,8% năm 2004 và duy trì mức cao này trong những năm tiếp theo, cao hơn trung bình khu vực. Trong khi đó, vào thời điểm năm 2000, tỷ lệ lạm phát của Việt Nam thấp hơn khu vực, và là thiểu phát. Giá lương thực tăng nhanh hơn so với mức tăng của cả rổ hàng hóa. Việc tăng giá, đặc biệt giá lương thực ảnh hưởng đến người nghèo, những người sử dụng phần lớn thu nhập cho mua hàng hóa thực phẩm mà không phải cho giáo dục hay y tế và không có cơ hội tiếp cận lương thực. Tỷ lệ lạm phát tăng cũng làm suy yếu năng lực cạnh tranh của Việt Nam. Lạm phát của Việt Nam tương đối cao hơn so với lạm phát ở Mỹ, dẫn đến giảm tỷ giá thực. Vào thời điểm tháng 7/ 2008, giá dầu trên thế giới đã đạt mức kỷ lục: 147USD/thùng. Sự tăng giá này đã có những ảnh hưởng tiêu cực đến cung cầu ngoại tệ ở nước ta. Nhu cầu ngoại tệ phục vụ nhập khẩu xăng dầu gia tăng khi giá năng lượng trên thế giới tăng mạnh như vậy, làm cho tỷ giá VNĐ/USD tăng cao. Thu nhập là nhân tố ảnh hưởng rất lớn tới tỷ giá,để có thể dự báo GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái năm 2008, cần điểm lại kết quả thực hiện qua một số năm. GDP năm 2007 tính theo giá thực tế đạt 1.144 nghìn tỉ đồng, dân số trung bình đạt 85.154.900 người, GDP bình quân đầu người tính theo giá thực tế đạt 13.435.000 đồng, với tỷ giá bình quân đạt 16.090 VND/USD, GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái đạt 835 USD và tổng GDP đạt 71,1 tỉ USD. Năm 2008, tốc độ tăng trưởng GDP tính theo giá so sánh nếu đạt được mục tiêu đã được điều chỉnh xuống còn 7%, nếu tốc độ tăng giá cả (bao gồm cả giá sản xuất và giá tiêu dùng) cả năm (tính bình quân năm 2008 so với năm 2007) dự đoán khoảng 20%, thì GDP tính theo giá thực tế sẽ tăng 28,4%. Khi đó GDP năm 2008 tính theo giá thực tế sẽ đạt 1.469 nghìn tỉ đồng. Dân số trung bình năm 2008 nếu tăng 1,21% so với năm 2007 (năm 2007 tăng 1,21%), thì năm 2008 sẽ ở mức 86.185.300 người. Nếu tỷ giá bình quân năm 2008 theo ước tính có thể lên đến 17.500 VND/USD, thì GDP tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái trên sẽ đạt 83,9 tỉ USD, bình quân đầu người sẽ đạt 973,5 USD (tỷ giá tính bình quân trên thị trường, bao gồm cả thị trường chính thức và thị trường tự do). Nếu việc xếp loại được điều chỉnh lại do sự mất giá của USD trên thị trường thế giới thì chưa rõ kết quả; còn nếu theo xếp loại cũ thì Việt Nam sẽ vượt qua mốc của nước có thu nhập thấp trong năm nay. Vấn đề đặt ra là tốc độ tăng trưởng kinh tế, tốc độ tăng dân số và tỷ giá VND/USD đạt được như giả thiết trên thì mới đạt được 973,5 USD/người.  Theo số liệu thống kê, hiện tại, cộng đồng lao động Việt Nam tại Hàn Quốc đã lên tới gần 55.000 người. Trong 7 tháng đầu năm nay đã có 8.000 lao động được nhập cảnh mới vào Hàn Quốc và nếu tính từ thời điểm tháng 8-2004 đến ngày 30-6-2008 đã có tổng cộng 31.511 người được nhập cảnh mới và 2.894 người được tái tuyển dụng. Lao động Việt Nam sang Hàn Quốc chủ yếu làm việc trong các lĩnh vực sản xuất, chế tạo, xây dựng và một bộ phận nhỏ làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản. Số liệu thống kê cho biết năm 2007, tổng số tiền người lao động Việt Nam ở nước ngoài gửi về nước là 1,7 tỷ USD, trong đó từ lao động ở Hàn Quốc gửi về chiếm tới 500 triệu USD. Tính đến nay, Việt Nam hiện có 317 dự án đầu tư ra nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 2,5 tỷ USD, vốn thực hiện đạt khoảng 1 tỷ USD. Quy mô vốn đầu tư bình quân đạt 7,8 triệu USD/dự án. Các doanh nghiệp Việt Nam đã có mặt tại 41 quốc gia và vùng lãnh thổ ở cả 5 châu lục. Nhưng phần lớn vốn đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam tập trung tại khu vực châu Á, trong đó đứng đầu là thị trường Lào với 123 dự án, chiếm gần 39% về số dự án và hơn 50% về vốn đầu tư. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng có mặt tại một số nước có tiềm năng về dầu mỏ như Angiêri có 1 dự án 243 triệu USD, Madagascar có 1 dự án 117,36 triệu USD, hoặc tại một số nước có quan hệ hợp tác truyền thống như LB Nga có 14 dự án tổng vốn đầu tư là 198,3 triệu USD Cục Đầu tư Nước ngoài dự báo, trong năm 2008, vốn đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ đạt trên 500 triệu USD, tăng 20% so với năm 2007. Đây cũng sẽ là mức bình quân đầu tư ra nước ngoài hàng năm của doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn từ 2008 đến 2010./. Hiện tại, Việt Nam đã thực hiện các chương trình cắt giảm thuế theo yêu cầu của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), thực hiện tự do hóa thương mại và đầu tư vào APEC đến năm 2020. Ngay sau khi chính thức gia nhập WTO, nước ta đã chủ động cắt giảm các dòng thuế theo đúng cam kết. Từ ngày 11/1/2007 nước ta đã chủ động thực hiện các cam kết ràng buộc toàn bộ Biểu thuế nhập khẩu gồm 10.689 dòng thuế, mức giảm bình quân từ 17,4% xuống còn 13,4% với lộ trình thực hiện sau 5 đến 7 năm và công bố cắt giảm 1.812 dòng thuế nhập khẩu với mức thuế suất giảm bình quân là 14,5%. Từ 1/1/2008, theo cam kết với WTO, sẽ có khoảng 1.700 dòng thuế được cắt giảm, với mức giảm phổ biến từ 1- 6%, mức giảm này không chênh lệch quá lớn so với sắc thuế hiện hành. Từ năm 2009 sẽ tiếp tục giảm khoảng 2.000 dòng thuế của hơn 20 nhóm hàng với mức tối đa khoảng 2%. Trong những năm tới, thực hiện các cam kết với WTO Việt Nam tiếp tục cắt giảm thuế suất nhiều hơn đối với hàng nghìn dòng thuế, không chỉ có thế mà thực hiện cắt giảm thuế quan và hàng rào phi thuế quan theo nhưng cam kết song phương và khu vực. Trước những con số ấn tượng từ việc cắt giảm các dòng thuế nhập khẩu nhiều mặt hàng theo lộ trình, hiện tượng nhập khẩu của nước ta đã gia tăng mạnh trong thời gian gần đây cả về quy mô tuyệt đối, cả về tỷ lệ so với GDP. Nếu năm 1995 mới có 8,15 tỷ USD, bằng 39,2% GDP, năm 2000 là 15,63 tỷ USD, bằng 50,1% GDP thì năm 2007 là 62,68 tỷ USD, bằng 88% GDP. Tình hình này đã làm cho cầu ngoại tệ tăng cao, khiến cho tỷ giá tăng lên, đồng Việt Nam trở nên giảm giá Khi Việt Nam gia nhập WTO, các thành viên WTO sẽ phải bãi bỏ hạn ngạch đối với hàng hóa Việt Nam (đây là một yêu cầu của WTO ). Hoa Kỳ hiện đang là một thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam về nhiều mặt hàng thị phần nhưng lại đang áp đặt hạn ngạch với ta. Khi ta gia nhập, thị trường lớn này sẽ buộc phải bãi bỏ hạn ngạch, do đó, ta có nhiều cơ hội đẩy mạnh lượng hàng xuất khẩu sang thị trường này. Thêm vào đó, các thị trường khác như EU sẽ không có cơ hội áp đặt hạn ngạch như đã làm trước đây, từ đó đảm bảo tính ổn định hơn cho thị trường hàng hóa Việt Nam. Nhờ đó cũng tăng được sự ổn định trong tỷ giá ngoại tệ tại VN. Tuy nhiên, việc tăng này cũng có khả năng đi kèm với nguy cơ bị kiện bán phá giá và viện dẫn áp đặt tự vệ. Về năng suất lao động Năng suất lao động của Việt Nam đang từng bước được nâng cao, tuy nhiên hiện thời chỉ đạt xấp xỉ 1.700USD/lao động/năm. Chỉ số nói trên của Việt Nam mới bằng khoảng 50% của những nước thuộc tốp trung bình trong khu vực như Indonesia, Philippin. So với Thái Lan, năng suất lao động của Việt Nam chỉ bằng khoảng 30%. Trong khi năng suất lao động của Việt Nam chưa vượt qua con số 2.000 USD/lao động/năm, chỉ số này của Brunei hơn 60.000USD, Singapo hơn 50.000USD, Malaysia hơn 14.000USD. Về lý thuyết (cách tính năng suất lao động) các nước trong khu vực cũng như trên thế giới có chung công thức: Tổng GDP chia cho tổng số lao động đang làm việc. Chỉ số năng suất lao động trên đây tự nó chứng tỏ khoảng cách không nhỏ giữa các nước trong khu vực và chỉ ra Việt Nam đang đứng ở tốp cuối, thua xa nhiều nước trong khu vực. Như vậy mức giá cả hàng hoá của nước ta còn cao hơn so với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới, có ảnh hưởng làm đồng VNĐ giảm giá. Tập đoàn truyền thông hàng đầu thế giới Grey Group vừa công bố kết quả điều tra cho thấy người Việt mình “sính ngoại nhất châu Á” (so với 16 nước châu Á) Với những nhà sản xuất kinh doanh Việt Nam, kết quả nghiên cứu của Grey Group chắn chắn làm cho họ nghĩ sâu thêm về những khó khăn chồng chất trước mặt. Lạm phát trên 20%, vay vốn ngân hàng khó chưa từng thấy, nguyên liệu đầu vào tăng, phí vận chuyển và mọi khoản phí khác tăng, lương công nhân tăng mà sức mua giảm và dãy hàng được chọn mua trong lực lượng người tiêu dùng trung lưu bị thu hẹp đáng kể. Điều này có thể thấy rõ ở thị trường ôtô hiện nay. Ngành sản xuất ôtô Việt Nam đang có những bước tiến rõ rệt, mẫu mã phong phú và giá rẻ hơn so với ôtô nhập ngoại rất nhiều. Nhưng với tâm lý ưa hàng ngoại, lượng ôtô nhập khẩu nguyên chiếc năm 2007 đã lên đến 28000 chiếc, với trị giá 523triệu USD, và chỉ trong 5 tháng đầu năm 2008 đã có 35000 chiếc được nhập, kim ngạch nhập khẩu là 625 triệu USD. Tiền do người Việt gửi từ nước ngoài về Việt Nam là một trong những nguồn thu ngoại tệ quan trọng. Vụ Quản Lý Ngoại Hối thuộc Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam vừa đưa ra một ước đoán, theo đó, năm nay, khoản tiền do người Việt từ hải ngoại gửi về Việt Nam có thể đạt 8 tỷ USD, tăng khoảng 60% so với năm ngoái. Trong 6 tháng đầu năm nay, lượng kiều hối do người Việt Nam định cư và làm việc ở nước ngoài gửi về nước đạt khoảng 3.5 tỷ USD và con số này được dự đoán sẽ còn tăng mạnh từ giờ đến hết năm 2008. Theo Vụ Quản Lý Ngoại Hối, lượng kiều hồi tăng mạnh là “nhờ nhà nước có chính sách thông thoáng hơn về quản lý cũng như những ưu đãi dành cho Việt kiều như khuyến khích thành phần này về nước đầu tư và được phép mua nhà, đất”. Theo Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam, phần lớn ngoại tệ gửi về Việt Nam là do người Việt sinh sống ở Mỹ, Úc, một số quốc gia Âu Châu. Các chuyên gia, du học sinh, người lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc, học tập cũng dành dụm tiền gởi về gia đình. Các khoản kiều hối có khi lên tới hàng trăm ngàn USD nhằm đầu tư, kinh doanh hoặc gởi tiết kiệm. Lượng kiều hối chuyển về VN tăng dẫn đến cung ngoại hối tăng cũng góp phần làm cho tỷ giá giảm và đồng tiền của Việt Nam tăng giá. Việt Nam cũng như các quốc gia đang phát triển hiện đang gặp phải tình thế tiến thoái lưỡng nan trong việc lựa chọn các mục tiêu cơ bản của chính sách kinh tế vĩ mô. Có ba mục tiêu chính sách kinh tế vĩ mô mà chúng ta theo đuổi và hướng đến là Tự do hóa các giao dịch vốn Thực thi một chính sách tiền tệ độc lập Ổn định tỷ giá. Tuy nhiên, do tính loại trừ lẫn nhau nên sẽ không có bất kỳ một quốc gia nào thỏa mãn được cùng lúc 3 mục tiêu. Các quốc gia chỉ có thể đạt được 2 trong số 3 mục tiêu mà thôi. Để thực hiện 2 trong số 3 các mục tiêu lựa chọn, có 1 trong 3 công cụ để thực thi là Lựa chọn cơ chế tỷ giá có quản lý Lựa chọn cơ chế tỷ giá thả nổi hoàn toàn Kiểm soát vốn. Mỗi công cụ chỉ có thể đồng thời đạt được một cặp mục tiêu mà thôi. 2 trong số 3 mục tiêu mà chúng ta lựa chọn trong thời gian qua là Hội nhập tài chính hoàn toàn Ổn định tỷ giá. Công cụ để thực hiện 2 mục tiêu này là thực thi chính sách tỷ giá có quản lý. Việc thực thi chính sách cố gắng ổn định tỷ giá khiến cho việc điều chỉnh tỷ giá theo sự thay đổi của lãi suất của đồng ngoại tệ và đồng nội tệ gây ra nhiều tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Đơn cử là từ Q1. 1999 - Q3.2000, trong khoảng thời gian này do nền kinh tế Mỹ phát triển rất nóng nên FED đã liên tục tăng lãi suất, mức cao nhất là 7,5%. Trong khi đó, thời gian này lãi suất VND là khá thấp, khoảng 6%, cộng với tỷ giá VND/USD hầu như không dao động cho nên đã khuyến khích dòng vốn (ngắn hạn) chảy từ trong nước ra nước ngoài. Điều này đã tạo ra sức ép NHNN gia tăng lãi suất VND. Những gia tăng liên tục trong lãi suất VND từ đó cho đến nay đã làm cho kinh doanh chênh lệch xuất hiện theo chiều ngược lại so với trước đây. Kết quả là chi phí giao dịch từ cuối năm 2000 cho đến 2004 ngày càng có xu hướng hẹp dần, dao động nhẹ với mức bình quân khoảng 0,1% (nhưng luôn cao hơn so với biên độ dao động của chi phí giao dịch trên thị trường chuẩn).  Trong thời gian qua FED liên tiếp cắt giảm lãi suất là nhằm để chống đỡ cho thị trường nhà đất ở Mỹ khỏi bị sụp đổ. Khi FED cắt giảm lãi suất, lợi ích của việc giữ tiền USD sẽ giảm do vậy các nhà đầu tư sẽ chuyển sang giữ các tài sản khác ví dụ đồng Euro hay vàng. Một phần tiền USD sẽ bị bán ra khiến giá trị đồng USD giảm. Khi FED cắt giảm lãi suất, các ngân hàng VN sẽ có nhu cầu cắt giảm lãi suất theo, tuy nhiên việc điều chỉnh này cũng mất khá nhiều thời gian, và độ lệch pha về thời gian sẽ khiến giá trị VNĐ tăng so với USD. Ngoài ra hiện nay ở VN đang thừa khá nhiều ngoại tệ không được các ngân hàng mua vào, do chính sách của ngân hàng nhà nước là tạm ngưng mua USD để chống lạm phát, nên giá trị VNĐ vẫn sẽ tăng liên tục so với USD, và còn tăng mạnh hơn trong thời gian tới với việc ngân hàng nhà nước vừa mở rộng biên độ giao dịch hàng ngày của đồng VN từ 0,5 % lên 0,75%. Danh mục tài liệu tham khảo: 1.Tài chính quốc tế_ PGS.TS.Nguyễn Văn Tiến 2.Kinh doanh ngoại hối và xác định tỷ giá_PGS.TS.Lê Văn Tề 3.Quản trị tài chánh quốc tế trong thị trường toàn cầu_PGS.TS.Dương Hữu Hạnh 4.Tài chính quốc tế_PGS.TS.Đinh Trọng Thịnh 5.Thị trường hối đoái_GS.TS.Lê Văn Tư www.vi.wikipedia.org www.saga.vn vneconomy.vn www.vnn.vn Mục Lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5952.doc
Tài liệu liên quan