Tỷ lệ nghe kém và một số đặc điểm nghe kém ở trẻ từ 2 tuổi đến 5 tuổi ở các trường mẫu giáo công lập nội thành thành phố Hà Nội
Tỷ lệ nghe kém trong nghiên cứu này cao
hơn nhiều so với tỷ lệ nghe kém ở trẻ em dưới 15
tuổi trên toàn thế giới là 1,7% và khu vực Châu
Á Thái Bình Dương (2,0%)(7). Nghiên cứu gần
đây về sàng lọc nghe kém tại Thượng Hải Trung
Quốc ở trẻ lứa tuổi mẫu giáo trước đây đã được
phân loại không bị nghe kém trong các chương
trình sàng lọc nghe kém trẻ sơ sinh cho thấy tỷ lệ
nghe kém ở nhóm trẻ này là 2,08%(6). Sự khác
biệt này có thể giải thích rằng những trẻ sơ sinh
bị nghe kém đã được sàng lọc trước đó và không
tham gia vào trong nghiên cứu này. Trong
nghiên cứu của chúng tôi nhóm trẻ này chưa
được sàng lọc nghe kém trước đó, do đó tỷ lệ
nghe kém có thể cao hơn khi mà số trẻ sơ sinh bị
nghi ngờ nghe ở Việt Nam chiếm tỷ lệ cao tới
3,4%(6). Tỷ lệ này cao hơn tỷ lệ nghe kém ở học
sinh tiểu học tại thành phố Hải Phòng, nơi tỷ lệ
học sinh nghe kém là 1,13%(4). Điều này có thể do
những trẻ nghe kém sẽ dần dần không đi học
cùng với các trẻ không nghe kém hoặc tham gia
các lớp học đặc biệt cho trẻ khiếm thính(2). Đây có
thể là nguyên nhân làm tỷ lệ nghe kém ở nhóm
trẻ mẫu giáo 2 tuổi trong nghiên cứu này là cao
nhất.
Tỷ lệ nghe kém theo giới ở nghiên cứu này
cho kết quả tương tự các nghiên cứu khác trên
thế giới, trong đó nghe kém ở trẻ em nam cao
hơn so với trẻ em nữ(7). Nghe kém cả hai tai là
hình thức nghe kém phổ biến nhất ở trẻ. Nghiên
cứu này cũng cho kết quả tương tự với hơn 70%
các trường hợp nghe kém là nghe kém cả hai tai.
Trong tổng số trẻ nghe kém nhẹ, nghe kém nhẹ
là mức độ phổ biến nhất (45,9%), đán chú ý có
tới 12,4% trẻ nghe kém nặng đến sâu (≥70dB). Do
đó, nghe kém là vấn đề đáng quan tâm vì những
trẻ này cần được can thiệp sớm nhằm giảm thiểu
gánh nặng kinh tế và xã hội cho gia đình và bản
thân trẻ.
Kết quả của nghiên cứu cho thấy nghe kém ở
trẻ em lứa tuổi mẫu giáo đang thực sự là vấn đề
y tế công cộng quan trọng cần được quan tâm
nghiên cứu ở nước ta. Sàng lọc nghe kém sớm sử
dụng các phương pháp hiện đại và chính cũng
như các biện pháp can thiệp sớm cho trẻ là thực
sự cần thiết trong thời gian tới.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 268 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỷ lệ nghe kém và một số đặc điểm nghe kém ở trẻ từ 2 tuổi đến 5 tuổi ở các trường mẫu giáo công lập nội thành thành phố Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Tai Mũi Họng 126
TỶ LỆ NGHE KÉM VÀ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGHE KÉM
Ở TRẺ TỪ 2 TUỔI ĐẾN 5 TUỔI Ở CÁC TRƯỜNG MẪU GIÁO
CÔNG LẬP NỘI THÀNH THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Nguyễn Tuyết Xương *
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ nghe kém và đặc điểm nghe kém ở trẻ mẫu giáo từ 2 tuổi đến 5 tuổi ở các trường
mẫu giáo ở nội thành thành phố Hà Nội.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang, sàng lọc nghe kém trẻ em từ 2 tuổi đến 5 tuổi tại các
trường mẫu giáo bằng phương pháp đo âm ốc tai (OAE) tại các trường mẫu giáo công lập ở nội thành Hà Nội.
Những trẻ được gợi ý nghe kém qua đo OAE sẽ được đo điện thính thân não (ABR) hoặc đơn âm nhằm xác định
tỷ lệ và đặc điểm nghe kém.
Kết quả: Trong số 7.191 trẻ được sàng lọc nghe kém có 4,4% trẻ nghe kém, tỷ lệ nghe kém ở trẻ em nam và
nữ lần lượt là 4,7% và 4,4%. Nghe kém cả hai tai nghe kém thường gặp nhất chiếm 70,1%. Trong tổng số nghe
kém, 45,9% nghe kém mức độ nhẹ, nghe kém mức độ nặng đến sâu chiếm tỷ lệ cao (12,6%).
Kết luận: Tỷ lệ nghe kém ở trẻ mẫu giáo ở nội thành Hà Nội là 4,4%. Nghe kém cả hai tai (70,1%) và nghe
kém nhẹ (45,9%) là hình thức và mức độ nghe kém thường gặp nhất ở nhóm tuổi này
Từ khóa: trẻ mẫu giáo, nghe kém, đặc điểm nghe kém, Hà Nội
SUMMARY
PREVALENCE AND CHARACTERISTICS OF HEARING LOSS AMONG PRESCHOOL CHILDREN
AGED 2 – 5 YEARS OLD IN INNER HANOI
Nguyen Tuyet Xuong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 1 - 2014: 126-130
Aim: To identify the prevalence and characteristics of hearing loss of preschool children aged 2 – 5 years old
in inner Hanoi.
Methods: A cross-sectional study using Otoacoustic Emissions (OAE) for hearing screening was
conducted in pre-primary schools in inner Hanoi. Children were classified as “Refer” will be referred and
tested Anditory Brainstem Response (ABR) to confirm hearing loss and assess its characteristics at
National Hospital of Pediatrics.
Results: 4.4% of hearing loss was found among 7191 preschool children participated in the hearing
screening. The prevalence of hearing loss in boys and girls were 4.7%, and 4.0%, respectively. Bilateral hearing
loss was highest prevalence among hearing loss children. Mild hearing loss was the most common hearing loss
among the prevalent group, accounting for 45.9%.
Conclusion: The prevalence of hearing loss among preschool children aged 2-5 years old in inner of Hanoi
was 4.4%. Bilateral hearing loss and mild hearing loss were the two most popular characteristics of the hearing
loss children, 70.1% and 45.9%, respectively.
Keywords: Preschool children, hearing loss, characteristics of hearing loss, Hanoi
* Bệnh Viện Nhi Trung Ương
Tác giả liên lạc: Bs. Nguyễn Tuyết Xương ĐT: 0985 285 385 Email: nguyenxuongnhp@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tai Mũi Họng 127
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghe kém là hiện tượng giảm một phần hay
toàn bộ khả năng cảm nhận về âm thanh(1,4).
Nghe kém có thể gặp ở mọi lứa tuổi và có thể do
nhiều nguyên nhân gây ra. Người bị nghe kém
gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống cũng
như tạo ra gánh nặng cho gia đình, xã hội và bản
thân người bị nghe kém. Theo ước tính của Tổ
chức Y tế thế giới (TCYTTG), có khoảng 5% dân
số, tương đương với 360 triệu người trên toàn
thế giới bị nghe kém, trong đó có 32 triệu trẻ em
bị vấn đề này. Phần lớn số người này sống ở các
nước có thu nhập thấp và trung bình(5). Việt Nam
là nước thuộc khu vực có tỷ lệ nghe kém cao trên
thế giới(6), ước tính có khoảng 1,6 triệu người bị
nghe kém. Hàng năm có từ 1.200 đến 1.400 trẻ
khiếm thính ra đời. Số người bị suy giảm thính
lực còn tăng lên do chịu ảnh hưởng của nhiều
nguyên nhân khác nhau(2).
Trẻ em lứa tuổi mẫu giáo từ 2 tuổi đến 5 tuổi
là lứa tuổi đang phát triển tri thức và hình thành
các thói quen, do đó thính giác đóng vai trò hết
sức quan trọng giúp trẻ nhận biết và hiểu thế
giới xung quanh, từ đó hình thành kiến thức và
kỹ năng cần thiết. Nghiên cứu tỷ lệ mắc và các
đặc điểm nghe kém ở lứa tuổi này có vai trò
quan trọng trong việc cung cấp các bằng chứng
khoa học cho các chiến lược dự phòng và can
thiệp nghe kém cho nhóm trẻ này(5). Tuy nhiên,
cho đến nay ở Việt Nam chưa có nghiên cứu nào
trả lời các câu hỏi trên. Do đó, nghiên cứu này
được thực hiện với mục tiêu xác định tỷ lệ nghe
kém và các đặc điểm nghe kém ở trẻ mẫu giáo từ
2 tuổi đến 5 tuổi ở các trường mẫu giáo nội
thành thành phố Hà Nội.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Trẻ em từ 2 tuổi đến 5 tuổi tại các trường
mẫu giáo công lập nội thành Hà Nội và đồng ý
tham gia vào nghiên cứu.
Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 6/2011 đến hết tháng 02/2012.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Cỡ mẫu
Sử dụng công thức tính cỡ mẫu xác định tỷ lệ
như sau:
Trong đó:
N: cỡ mẫu tối thiểu
: độ tin cậy ở ngưỡng 95%, α = 0,05,
p: tỷ lệ nghe kém ước tính ở lứa tuổi nhà trẻ mẫu giáo, ước
tính p = 0,015,
d: độ sai lệnh ước tính, d = 0,003.
Thay số vào ta có:
(làm tròn: n = 7.000 trẻ)
Phương pháp thu thập số liệu
Điều tra viên sẽ tiến hành sàng lọc nghe kém
ở trẻ em sử dụng phương pháp đo âm ốc tai
(OAE) các trẻ tại các trường mẫu giáo đã chọn.
Những trẻ được phân loại nghe kém qua đo
âm Ốc tai (Refer) sẽ được đo điện thính thân não
(ABR) hoặc đo đơn âm tại Trung tâm Thính học
của Bệnh viện Nhi Trung ương để xác định trẻ
nghe kém và các đặc điểm nghe kém.
Tiêu chuẩn phân loại mức độ nghe kém
Phân loại mức độ nghe kém như sau:
Bảng 1: Phân loại mức độ nghe kém
Tần số (dB) Phân loại
0-20 dB Mức nghe bình thường
21-40 dB Nghe kém nhẹ
41-70 dB Nghe kém trung bình
>70 dB Nghe kém nặng
Quản lý và phân tích số liệu
Số liệu được nhập và xử lý bằng phần mềm
SPSS 18.0.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Tai Mũi Họng 128
Đạo đức trong nghiên cứu
Đề cương nghiên cứu được Hội đồng đạo
đức trong nghiên cứu của Viện Vệ sinh dịch tễ
Trung ương thông qua. Gia đình trẻ hoàn toàn
đồng ý cho trẻ tham gia vào nghiên cứu trên
tinh thần tự nguyện. Việc đo âm ốc tai không
đau, không lây bệnh và không gây khó chịu
cho trẻ.
KẾT QUẢ
Thông tin về đối tượng nghiên cứu
Bảng 2: Phân bố địa dư, tuổi, giới của đối tượng
nghiên cứu
Biến số
Số lượng
Nam Nữ Chung
Quận
Ba Đình 795 729 1.524
Tây Hồ 761 781 1.542
Hoàng Mai 628 543 1.171
Đống Đa 818 684 1.452
Thanh Xuân 763 689 1.502
Tuổi
2 tuổi 379 321 700
3 tuổi 872 809 1.681
4 tuổi 1.249 1.138 2.387
5 tuổi 1.265 1.158 2.423
Tổng 3.765 3.426 7.191
Tổng số 7191 trẻ từ 2 tuổi đến 5 tuổi (3.765
nam và 3.426 nữ) thuộc 5 quận nội thành đã
được sàng lọc bằng đo âm ốc tai.
Tỷ lệ nghe kém ở trẻ mẫu giáo từ 2 tuổi đến
5 tuổi
Tỷ lệ nghe kém ở trẻ theo giới
7,9
5,4
3,1
0
5
10
2 tuổi 3 tuổi 4 tuổi
Biểu đồ 1. Tỷ lệ nghe kém ở trẻ mẫu giáo từ 2 tuổi
đến 5 tuổi theo giới
Biểu đồ 1 cho thấy tỷ lệ nghe kém ở trẻ mẫu
giáo từ 2 tháng đến 5 tuổi ở nội thành Hà Nội là
4,4%, trong đó tỷ lệ nghe kém ở trẻ em nam cao
hơn ở trẻ em nữ, 4,7% và 4,0%.
Tỷ lệ nghe kém theo tuổi
7,9
5,4
3,1 3,9
0
5
10
2 tuổi 3 tuổi 4 tuổi 5 tuổi
Tỷ lệ %
Biểu đồ 2. Tỷ lệ nghe kém ở trẻ mẫu giáo theo tuổi
Biểu đồ 2 cho thấy trẻ 2 tuổi có tỷ lệ nghe
kém cao nhất là 7,9%, trẻ 4 tuổi có tỷ lệ nghe kém
thấp nhất chiếm 3,1%.
Đặc điểm nghe kém ở trẻ mẫu giáo từ 2 tuổi
đến 5 tuổi ở nội thành Hà Nội
Đặc điểm nghe kém theo tai
Bảng 3. Đặc điểm nghe kém từng bên tai
Đặc điểm Nam n (%) Nữ n (%)
Chung
n (%)
Chỉ nghe kém tai phải 22 (12,5) 19 (13,77) 41 (13,0)
Chỉ nghe kém tai trái 32 (18,18) 21 (15,22) 53 (16,9)
Nghe kém cả 2 tai 122 (69,32) 98 (71,01) 220 (70,1)
Bảng 3 cho thấy nghe kém cả hai tai là nghe
kém phổ biến nhất ở trẻ mẫu giáo tại nội thành
Hà Nội, chiếm 70,1%, tiếp đến là nghe kém tai
trái (16,9%). Chỉ nghe kém tai phải là nghe kém
thấp nhất, chỉ 13,0%.
Mức độ nghe kém ở trẻ
Bảng 4. Phân loại mức độ nghe kém của trẻ
Mức độ nghe kém Số lượng Tỷ lệ (%)
Nghe kém nhẹ (từ 21 - ≤40 dB) 144 45,9
Nghe kém vừa (từ 41- ≤70 dB) 131 41,7
Nghe kém nặng đến sâu (≥70dB) 39 12,4
Bảng 4 cho thấy nghe kém nhẹ là mức độ
nghe kém phổ biến nhất, chiếm gần 46,0% trong
tổng số nghe kém, nghe kém nặng đến sâu có tỷ
lệ thấp nhất, chỉ 12,4%.
BÀN LUẬN
Đây là nghiên cứu đầu tiên về nghe kém ở
lứa tuổi mẫu giáo từ 2 tuổi đến 5 tuổi ở Hà Nội.
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ trẻ nghe kém
qua đo đơn âm và đo ABR là 4,4%, trong đó trẻ 2
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tai Mũi Họng 129
tuổi có tỷ lệ nghe kém cao nhất (7,9%). Trong
nghiên cứu này để xác định nghe kém, trẻ được
đo hai bước, bước 1 trẻ được sàng lọc nghe kém
qua đo âm ốc tai tại cộng đồng, những trẻ được
phân loại nghe kém qua đo âm ốc tai OAE được
tiếp tục đo thính lực bởi các bác sỹ chuyên khoa
tại phòng cách âm tuyệt đối của Trung tâm thính
lực, Bệnh viện Nhi trung ương, do đó kết quả
của nghiên cứu cho kết quả tin cậy.
Tỷ lệ nghe kém trong nghiên cứu này cao
hơn nhiều so với tỷ lệ nghe kém ở trẻ em dưới 15
tuổi trên toàn thế giới là 1,7% và khu vực Châu
Á Thái Bình Dương (2,0%)(7). Nghiên cứu gần
đây về sàng lọc nghe kém tại Thượng Hải Trung
Quốc ở trẻ lứa tuổi mẫu giáo trước đây đã được
phân loại không bị nghe kém trong các chương
trình sàng lọc nghe kém trẻ sơ sinh cho thấy tỷ lệ
nghe kém ở nhóm trẻ này là 2,08%(6). Sự khác
biệt này có thể giải thích rằng những trẻ sơ sinh
bị nghe kém đã được sàng lọc trước đó và không
tham gia vào trong nghiên cứu này. Trong
nghiên cứu của chúng tôi nhóm trẻ này chưa
được sàng lọc nghe kém trước đó, do đó tỷ lệ
nghe kém có thể cao hơn khi mà số trẻ sơ sinh bị
nghi ngờ nghe ở Việt Nam chiếm tỷ lệ cao tới
3,4%(6). Tỷ lệ này cao hơn tỷ lệ nghe kém ở học
sinh tiểu học tại thành phố Hải Phòng, nơi tỷ lệ
học sinh nghe kém là 1,13%(4). Điều này có thể do
những trẻ nghe kém sẽ dần dần không đi học
cùng với các trẻ không nghe kém hoặc tham gia
các lớp học đặc biệt cho trẻ khiếm thính(2). Đây có
thể là nguyên nhân làm tỷ lệ nghe kém ở nhóm
trẻ mẫu giáo 2 tuổi trong nghiên cứu này là cao
nhất.
Tỷ lệ nghe kém theo giới ở nghiên cứu này
cho kết quả tương tự các nghiên cứu khác trên
thế giới, trong đó nghe kém ở trẻ em nam cao
hơn so với trẻ em nữ(7). Nghe kém cả hai tai là
hình thức nghe kém phổ biến nhất ở trẻ. Nghiên
cứu này cũng cho kết quả tương tự với hơn 70%
các trường hợp nghe kém là nghe kém cả hai tai.
Trong tổng số trẻ nghe kém nhẹ, nghe kém nhẹ
là mức độ phổ biến nhất (45,9%), đán chú ý có
tới 12,4% trẻ nghe kém nặng đến sâu (≥70dB). Do
đó, nghe kém là vấn đề đáng quan tâm vì những
trẻ này cần được can thiệp sớm nhằm giảm thiểu
gánh nặng kinh tế và xã hội cho gia đình và bản
thân trẻ.
Kết quả của nghiên cứu cho thấy nghe kém ở
trẻ em lứa tuổi mẫu giáo đang thực sự là vấn đề
y tế công cộng quan trọng cần được quan tâm
nghiên cứu ở nước ta. Sàng lọc nghe kém sớm sử
dụng các phương pháp hiện đại và chính cũng
như các biện pháp can thiệp sớm cho trẻ là thực
sự cần thiết trong thời gian tới.
KẾT LUẬN
Tỷ lệ nghe kém ở trẻ mẫu giáo từ 2-5 tuổi ở
nội thành Hà Nội là khá cao, chiếm 4,4%, trong
đó tỷ lệ nghe kém ở nam cao hơn nữ, 4,7% và
4,0%. Trẻ 2 tuổi có tỷ lệ nghe kém cao nhất 7,9%,
thấp nhất là trẻ 4 tuổi (3,1%).
Nghe kém cả 2 tai chiếm tỷ lệ cao nhất
(70,1%) và nghe kém nhẹ là mức độ nghe kém
phổ biến nhất ở nhóm tuổi này chiếm 45,9%.
Đáng chú ý nghe kém mức độ nặng đến sâu
chiếm tới 12,4% trong tổng số nghe kém.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lu J. và các cộng sự. (2011), "Screening for delayed-onset
hearing loss in preschool children who previously passed the
newborn hearing screening", Int J Pediatr Otorhinolaryngol,
75(8), tr. 1045-9.
2. Lưỡng Sỹ Cẩn (1995), Điếc và nghễnh ngãng, một số điểm lịch
sử về chuyên môn kỹ thuật, Nội san Tai Mũi Họng Hà Nội.
Trang 75
3. Ngô Ngọc Liễn (2001), Thính học ứng dụng, Nhà xuất bản Y
học, Hà Nội. Trang 63
4. Phạm Kim (1984), Vấn đề phục hồi chức năng cho người điếc
Nhà xuất bản Y học, Hà Nội. Trang 98
5. Trần Thị Thiệp (2005), Kinh nghiệm triển khai công tác can
thiệp sớm cho trẻ khiếm thính, Kỷ yếu kinh nghiệm công tác
phát hiện sớm và can thiệp sơm cho trẻ khuyết tật tại Việt
Nam, tr. 83-91.
6. WHO (2013), Deafness and hearing loss, WHO Media centre,
Geneva, truy cập ngày 31-7-2011, tại trang web
7. WHO (2012), WHO Global Estimate on Prevalence of Hearing
Loss: Mortality and Burden of Diseases and Prevention of
Blindness and Deafness, WHO press, Geneve.
Ngày nhận bài báo: 22/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 16/12/2013
Ngày bài báo được đăng: 10/01/2014
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Tai Mũi Họng 130
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ty_le_nghe_kem_va_mot_so_dac_diem_nghe_kem_o_tre_tu_2_tuoi_d.pdf