Thời gian lưu OTT là yếu tố nguy cơ quan
trọng nhất ảnh hưởng đến tỷ lệ NKN liên quan
OTT (14). Khi phân tích tìm các yếu tố nguy cơ
của NKN liên quan OTT ở các nghiên cứu khác
nhau, mỗi nghiên cứu có thể kết luận những yếu
tố nguy cơ khác nhau, tuy nhiên yếu tố thời gian
lưu OTT thì không thay đổi khi phân tích đơn
biến cũng như đa biến. Vì vậy chúng tôi tiến
hành phân tích để tìm mối liên quan giữa thời
gian lưu OTT và NKN liên quan OTT. Kết quả
cho thấy, trung vị của thời gian lưu OTT ở nhóm
có NKN liên quan OTT 4,4 ngày, ở nhóm không
có NKN liên quan OTT là 2,8 ngày, sự khác biệt
này có ý nghĩa thống kê với p = 0,001. Khi phân
tích tìm nguy cơ NKN liên quan OTT tăng lên
mỗi ngày chúng tôi ghi nhận OR = 2,2 trong
phân tích đơn biến, kết quả này là 2,4 trong
phân tích đa biến (OR: nguy cơ cho mỗi ngày
tăng thêm), tức là mỗi ngày nguy cơ
NKNLQOTT là 2,4 lần. Kết quả này không khác
nhiều với y văn và các nghiên cứu trước
đó(5,3,10,15).
Nghiên cứu của Paul A. Tambyah và cs, so
sánh thời gian lưu OTT trung bình ở nhóm có
NKN liên quan OTT là 6,4 ngày và nhóm
không NKN liên quan OTT là 4,4 ngày, kết quả
p < 0,001(15). Nghiên cứu của Karina Billote‐
Domingo và cs thì thời gian lưu OTT trung
bình ở nhóm có NKN liên quan OTT là 6,4
ngày và nhóm không NKN liên quan OTT là
4,2 ngày, p = 0,001(3) Với tác giả Joon Ho Lee, ở
nhóm có NKN liên quan OTT, thời gian lưu
OTT trung bình là 27,7, thời gian này ở nhóm
không có NKN liên quan OTT là 15,8, kết quả
phân tích so sánh thời gian lưu OTT trung
bình ở 2 nhóm trên cho thấy p = 0,004. Như
vậy, các nghiên cứu trên đều ghi nhận thời
gian đặt thông tiểu tăng làm tăng nguy cơ
NKN liên quan OTT và sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê về thời gian lưu OTT trung bình ở 2
nhóm có và không có NKN liên quan OTT,
ngoại trừ nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị
Tuyết Trinh, thời gian lưu OTT trung bình ở
nhóm có NKN liên quan OTT là 6,8 ngày và
nhóm không NKN liên quan OTT là 6,1 ngày
và sự khác biệt này là không có ý nghĩa thống
kê (p= 0,07).
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 147 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỷ lệ nhiễm khuẩn niệu và nhiễm trùng tiểu ở sản phụ tiền sản giật nặng có đặt thông tiểu lưu tại bệnh viện Hùng Vương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 132
TỶ LỆ NHIỄM KHUẨN NIỆU VÀ NHIỄM TRÙNG TIỂU Ở SẢN PHỤ
TIỀN SẢN GIẬT NẶNG CÓ ĐẶT THÔNG TIỂU LƯU
TẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG
Trần Thị Bảo Châu*, Huỳnh Nguyễn Khánh Trang**
TÓM TẮT
Nhiễm trùng tiểu đứng hàng đầu trong các bệnh lý nhiễm trùng liên quan đến chăm sóc y tế, trong đó 80%
bệnh nhân xảy ra khi có đặt ống thông tiểu lưu. Tiền sản giật nặng là bệnh lý xảy ra trong thai kỳ cần được theo
dõi sát, xử trí thích hợp, kịp thời, trong đó việc đặt ống thông tiểu để theo dõi diễn tiến bệnh cũng như theo dõi
điều trị.
Phương pháp: nghiên cứu cắt ngang trên 127 thai phụ đơn thai, chẩn đoán tiền sản giật nặng được đặt
ống thông tiểu lưu theo dõi diễn tiến bệnh với thông Foley số 16 Fr có vỏ bọc silicone tại bệnh viện Hùng vương
từ 15/08/2012 đến 31/06/2013.
Kết quả: Tỷ lệ nhiễm khuẩn niệu ở sản phụ tiền sản giật nặng có đặt thông tiểu lưu là 17,3% KTC 95%
[11 – 25], trong đó: nhiễm trùng tiểu 0,8% KTC 95% [0,79 – 0,81] và nhiễm khuẩn niệu không triệu chứng
16,5% KTC 95% [16,3 – 16,7]. Tác nhân gây bệnh ghi nhận là Escherichia coli 31,8%, Enterococcus faecalis
22,7%, Proteus spp 18,2%, Klebsiella spp 13,6%, Staphylococcus aureus 9,1%, và Pseudomonas aeruginosa
4,6%. Lưu ống thông tiểu, nguy cơ nhiễm khuẩn niệu cho mỗi ngày tăng thêm là 2,4 lần (p = 0,04). Khi có bạch
cầu trong nước tiểu, nguy cơ NKNLQOTT cao gấp 6,8 lần so với nhóm không có bạch cầu trong nước tiểu
(p=0,009).
Kết luận: Thông tiểu lưu trên thai phụ tiền sản giật nặng có liên quan nhiễm khuẩn niệu không triệu
chứng 16,5%, nhiễm trùng tiểu có với tỷ lệ thấp 0,8%. Tuy nhiên cần có những nghiên cứu rộng và chặt chẽ
hơn trong tương lai.
SUMMARY
PREVALENCE OF CATHETER RELATED BACTERIURIA AND URINARY TRACT INFECTIONS
DURING SEVERE PREECLAMPSIA AT HUNG VUONG HOSPITAL
Tran Thi Bao Chau, Huynh Nguyen Khanh Trang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 132 ‐ 137
Urinary tract infections is one of the most frequent infectious disease relating to medical care, of which 80%
occur when patients are catheter up. Pre‐eclampsia is a particular disease occurring during pregnancy. It should
be monitored closely, as well as managed properly and timely. In pre‐eclampsia patients, the urinary catheter was
placed in order to monitor disease progression and treatment.
Methods: Cross‐sectional study on 127 women with singleton pregnancies, diagnosed pre‐eclampsia and
placed up urinary catheter to monitor disease progression. All participants were inserted with the 16 Fr Foley
catheter with silicone casing at Hung Vuong Hospital from 15/08/2012 to 06/31/2013.
Results: The rate of urinary tract infection in women with pre‐ eclampsia have set up catheterization was
17.3% CI 95% [11‐25], including: urinary tract infection 0.8%; 95% CI [0.79 to 0.81] and asymptomatic
urinary tract infection 95% CI 16.5% [16.3 to 16.7]. Pathogen recognition is 31.8% Escherichia coli,
* Bệnh viện Hùng Vương ** Bộ môn Sản Đại học Y Dược Tp Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: PGS. Huỳnh Nguyễn Khánh Trang. ĐT: 0903882015 E‐mail: pgs.huynhnguyenkhanhtrang@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 133
Enterococcus faecalis 22.7%, 18.2% Proteus spp, Klebsiella spp 13.6%, 9.1%, Staphylococcus aureus, and
Pseudomonas aeruginosa 4.6%. Save catheter, urinary tract infection risk for each day increase of 2.4 times
(p=0.04). When white blood cells in the urine, bacteriuria related catheter having risk 6.8 times higher than the
group without leukocytes in urine (p = 0.009).
Conclusions: Information on the sub‐basins of pregnant women with severe preeclampsia associated
urinary tract infection asymptomatic 16.5%, UTI with low rate of 0.8%. However, there should be extensive
research and more closely in the future.
Keywords: preterm labor, Prospective longitudinal study, Nifedipine, sublingual.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm trùng tiểu đứng hàng đầu trong các
bệnh lý nhiễm trùng liên quan đến chăm sóc y
tế, trong đó 80% bệnh nhân xảy ra khi có đặt
ống thông tiểu lưu(9,13). Trường hợp thông tiểu
với thời gian ngắn (≤ 14 ngày), tỷ lệ khuẩn niệu
là 11 – 23%, và tình trạng khuẩn niệu giảm đi
nhanh chóng khi rút ống thông tiểu. Nếu thời
gian lưu thông tiểu > 30 ngày, tỷ lệ này là 100%.
Khoảng 75% đến 90% bệnh nhân nhiễm khuẩn
là không triệu chứng. Tỷ lệ mới mắc mỗi ngày là
3 – 10% ở những bệnh nhân đặt thông tiểu.
Khoảng 17 – 25% bệnh nhân với khuẩn niệu
không triệu chứng sẽ tiến triển thành có triệu
chứng và 3% sẽ tiến triển đến nhiễm trùng
huyết. Khoảng thời gian theo dõi khảo sát sau
khi ống thông tiểu (OTT) được rút đi là từ 48
đến 72 giờ(9,13).
Ở các nước đang phát phát triển, tỷ lệ này
cao gấp 2 lần so với các nước phát triển(9). Tỷ lệ
khuẩn niệu tăng mỗi ngày 3 – 7%(6). Nghiên
cứu của Domingo và cs tại Philippine năm
1998 cho thấy tỷ lệ nhiễm khuẩn niệu (NKN)
liên quan OTT là 51,4%(3). Nghiên cứu của
Stamm AM và cs tại Brazil năm 1999 là 11%(14)
và trong nghiên cứu của Tambyah tại Hoa Kỳ
năm 2000 là 14,9%(15). Tại Việt Nam, tác giả
Trần Văn Sáng năm 1991 qua 65 trường hợp
đặt thông tiểu lưu tại bệnh viện Chợ Rẫy cho
thấy sau 7 ngày lưu thông tiểu, tỷ lệ nhiễm
khuẩn niệu (NKN) là 100%(16).
NKN liên quan OTT có thể dẫn đến các biến
chứng như viêm bàng quang, viêm bể thận,
nhiễm trùng huyết. Hậu quả cuối cùng là: thời
gian nằm viện kéo dài, tăng chi phí điều trị và
tăng tỷ lệ tử vong (OR = 2.8, khoảng tin cậy
(KTC) 95%=[1,5 – 5,1])(2). Ở phụ nữ mang thai,
NTT làm tăng nguy cơ trẻ nhẹ cân (OR = 1,4),
tăng nguy cơ sanh non (OR = 1,6), rối loạn tăng
huyết áp trong thai kỳ (OR = 1,4) và mẹ bị thiếu
máu (OR = 1,6), nhiễm trùng ối (OR = 1,4), từ đó
làm tăng tỷ lệ tử vong sơ sinh hoặc để lại những
di chứng lâu dài cho bé(7).
Tiền sản giật nặng là bệnh lý xảy ra trong
thai kỳ cần được theo dõi sát, xử trí thích hợp,
kịp thời, trong đó việc đặt OTT để theo dõi diễn
tiến bệnh cũng như theo dõi điều trị là cần thiết,
điều đó đã được hướng dẫn trong tài liệu về
hướng dẫn chăm sóc sức khỏe sinh sản(4). Như
vậy, khả năng NKN khi đặt OTT là có thể xảy ra.
Tại bệnh viện Hùng Vương, mỗi năm có khoảng
150 ‐ 200 trường hợp tiền sản giật nặng nhập
viện và được đặt OTT theo dõi điều trị. Để trả lời
câu hỏi: có bao nhiêu thai phụ tiền sản giật
(TSG) nặng đặt thông tiểu lưu theo dõi bị NKN
hay NTT chúng tôi tiến hành nghiên cứu với các
mục tiêu sau:
Mục tiêu nghiên cứu
1. Xác định tỷ lệ nhiễm khuẩn niệu và nhiễm
trùng tiểu trên sản phụ TSG nặng có đặt thông
tiểu lưu tại bệnh viện Hùng Vương.
2. Định danh vi khuẩn gây nhiễm khuẩn niệu.
3. Xác định mối liên quan giữa NKNLQOTT
với: thời gian lưu OTT.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Thiết kế nghiên cứu cắt ngang. Mẫu chọn
theo phương pháp chọn mẫu tuần tự, Sản phụ
TSG nặng có chỉ định đặt thông tiểu lưu tại bệnh
viện Hùng vương trong thời gian từ 15/08/2012
đến 31/06/2013.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 134
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu dẫn
đường trong thời gian 2 tháng trên 33 sản phụ
TSG nặng có đặt thông tiểu lưu, kết quả có 3
sản phụ (9,1%) NKN liên quan OTT. Như vậy
tỷ lệ NKN liên quan OTT là 9,1%.
Cỡ mẫu: n =
2
1
2 Z (1‐P)P / d 2
Với độ tin cậy 95% nên
2
1 Z = 1,96. Chọn P
= 87%. Độ chính xác là: 5% tức d = 0,05.
Với α = 0,05 (độ tin cậy 95%) thì = 1,96,
chọn d = 0,05, tính ra được cỡ mẫu là 126,9.
Nghiên cứu chúng tôi thu nhận 127 đối tượng.
Tiêu chuẩn chọn
Chẩn đoán TSG nặng theo Hiệp hội Sản Phụ
khoa Hoa Kỳ 2002(16): TSG nặng là TSG có thêm
một trong các dấu hiệu sau: HA tâm thu ≥
160mmHg hay HA tâm trương ≥ 110mHg qua
hai lần đo cách nhau ít nhất là 30 phút khi nằm
nghỉ tại giường. Tiểu đạm: protein/nước tiểu ≥
5g/ 24 giờ, hoặc ≥ 3+ (thử que nhúng). Thiểu niệu
(nước tiểu ≤ 500ml/ 24 giờ). Thay đổi tri giác,
nhức đầu, hoa mắt. Phù phổi. Đau thượng vị,
đau hạ sườn phải. Suy chức năng gan. Giảm tiểu
cầu. Thai chậm tăng trưởng trong tử cung.
Tiêu chuẩn loại trừ
Sản phụ đang bị nhiễm trùng tiểu. Sản phụ
đang điều trị kháng sinh. Sản phụ nhiễm HIV.
Chọn mẫu
Chọn tuần tự các bệnh nhân tiền sản giật
nặng có chỉ định đặt thông tiểu lưu tại một trong
các khoa: Cấp cứu, Sản bệnh, Phòng sanh mỗi
ngày theo các tiêu chuẩn chọn mẫu và tiêu
chuẩn loại trừ.
Tất cả các bệnh nhân được khảo sát đều sử
dụng ống thông tiểu Foley cùng một chất liệu
là nhựa tổng hợp có tráng Silicone, kích thước
16 Fr và túi chứa chất liệu là Plastic, sản xuất
tại Malaysia.
Sản phụ được kiểm tra nếu thỏa tiêu chuẩn
chẩn đoán TSG nặng (theo theo Hiệp hội Sản
Phụ khoa Hoa Kỳ 2002 (1)), và không có những
tiêu chuẩn loại trừ sẽ nhận vào mẫu, số liệu
được thu thập theo bảng câu hỏi.
Tiêu chuẩn chẩn đoán NKN liên quan
OTT
Dựa theo tiêu chuẩn của Hiệp hội bệnh lý
nhiễm trùng của Hoa Kỳ 2009 (8).
NKN liên quan OTT
Bệnh nhân đang lưu thông tiểu, kết quả cấy
nước tiểu được lấy qua ống thông tiểu có ≥ 105
khúm vi trùng/ml (không hơn 2 loại vi trùng) và
không có các triệu chứng sốt, ớn lạnh, đau hông
lưng, đau góc sườn sống, tiểu máu cấp hay khó
chịu vùng chậu
Nhiễm trùng tiểu (NTT) liên quan OTT
Xảy ra trong thời gian lưu OTT hoặc trong
vòng 48 giờ sau khi rút ống thông tiểu.
BN đang lưu OTT có các triệu chúng: sốt, ớn
lạnh, rối loạn tri giác, hôn mê nhưng không có
nguyên nhân gây bệnh nào khác, hoặc đau hông
lưng, đau góc sườn sống, tiểu máu cấp hay khó
chịu vùng chậu và kết quả cấy nước tiểu được
lấy qua ống thông tiểu có ≥ 10³ khúm vi
trùng/ml nước tiểu (không hơn 2 loại vi trùng).
Trong vòng 48 giờ sau khi rút OTT bệnh
nhân có các triệu chứng: tiểu khó, tiểu gấp, tiểu
nhiều lần, căng tức hay đau trên xương mu và
cấy nước tiểu giữa dòng có ≥ 10³ khúm vi
trùng/ml nước tiểu (không hơn 2 loại vi trùng).
Các trường hợp có kết quả NTT sẽ được
điều trị theo phác đồ của bệnh viện.
Kết quả xử lý với phần mềm thống kê SPSS.
KẾT QUẢ
Bảng 1. Đặc điểm dân số nghiên cứu (N=127)
Yếu tố Tần số (%)
Tuổi
≤ 25 26 (20,5)
26 – 35 54 (42,5)
>35 47 (37,0)
Nơi ở
Thành phố Hồ Chí Minh 68 (53,5)
Tỉnh 59 (46,5)
Nghề
Công nhân viên 71 (55,9)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 135
Yếu tố Tần số (%)
Nội trợ 26 (20,5)
Buôn bán 13 (10,2)
Khác 17 (13,4)
Con so
Con rạ
74 (58,3)
53 (41,7)
Tuổi thai
< 28 tuần 8 (6,3)
28 – < 34 tuần 75 (59,1)
≥ 34 tuần 44 (34,6)
Bảng 2. Nhiễm khuẩn niệu và nhiễm trùng tiểu liên
quan ống thông tiểu lưu trong nghiên cứu
Liên quan ống thông tiểu Số ca % KTC 95%
Nhiễm khuẩn niệu 21 16,5 16,3-16,7
Nhiễm trùng tiểu 1 0,8 0,79-0,81
Nhận xét: Trong 22 trường hợp nhiễm khuẩn
niệu liên quan OTT, có 1 trường hợp có triệu
chứng sốt mà không có nguyên nhân gây bệnh nào
khác. Như vậy, tỷ lệ NTT liên quan OTT là 0,8%
(1/127) và khuẩn niệu không triệu chứng liên quan
OTT là 16,5% (21/127).
Bảng 3. Định danh và tỷ lệ vi khuẩn gây nhiễm khuẩn
Tác nhân Tần số %
Escherichia coli 7 31,8
Proteus spp 4 18,2
Klebsiella spp 3 13,6
Enterococus faecalis 5 22,7
Staphylococcus aureus 2 9,1
Pseudomonas aeruginosa 1 4,6
Bảng 4. So sánh phân tích đơn biến và đa biến
Biến số Đơn biến Hồi quy đa biến
OR (KTC 95%) p OR* (KTC 95%) p
Dùng KS 0,32 (0,1 – 0,8) 0,03 0,24 (0.03 – 2,0) 0,19
Thời gian lưu OTT 2,08 (1,4 – 3,3) 0,001 2,4 (1,0 – 5,6) 0,04
Nitrite trong NT 11,7 (3,7– 36,4) 0,00 6,38 (0,8 – 48,0) 0,07
Bạch cầu trong NT 8,0 (2,9 – 21,9) 0,00 6,8 (1,6 – 28,7) 0,009
Tuổi thai (tuần)
< 28 2,0 (0,18–22,0) 0,57 1,05 (0,08 – 4,7) 0,97
28 đến < 34 4,5 (1,2 -16,2) 0,02 11,1 (0,6 – 20,8) 0,07
≥ 34 1
BÀN LUẬN
Theo y văn, tỷ lệ NKNLQOTT là 9 – 23%.
Như vậy kết quả nghiên cứu của chúng tôi
không khác biệt nhiều so với y văn.
Cùng tiêu chuẩn chẩn đoán là cấy nước tiểu
có ≥ 105 khúm vi trùng/ml (không hơn 2 loại vi
trùng) nhưng kết quả của chúng tôi khác so với
kết quả của Nguyễn Thị Tuyết Trinh (2009)(12)
với tỷ lệ NKN liên quan OTT là 36,7%. Trong
nghiên cứu của Nguyễn Thị Tuyết Trinh, đối
tượng nghiên cứu là những bệnh nhân hôn mê,
có những bệnh lý nặng như: xuất huyết não,
nhồi máu não, máu tụ trong não, chấn thương
sọ não, suy thận mãn, bệnh cơ tim thiếu máu cục
bộ, hôn mê nhiễm ceton, xuất huyết nội do vỡ
gan. Nghiên cứu của Paul A. Tambyah (2000)(15)
và Karina Billote Domingo (1998)(3), tuy các tác
giả cùng sử dụng một tiêu chuẩn chẩn đoán là
cấy nước tiểu có ≥ 103 khúm vi trùng/ml (không
hơn 2 loại vi trùng) nhưng kết quả cho thấy tỷ lệ
NKN liên quan OTT cũng khác nhau nhiều
(14,9% và 51,4%). Tỷ lệ NKN liên quan OTT ở
các nước đang phát triển cao gấp 2 lần so với các
nước phát triển(9), có thể đây là một lý do giải
thích cho sự khác biệt trên.
Một nghiên cứu khác tại Nepal vào năm
2007, để xác định tỷ lệ NKN liên quan OTT tại
thời điểm rút OTT ở sản phụ sau mổ sanh và
những phụ nữ sau mổ phụ khoa, với tiêu chuẩn
chẩn đoán là cấy nước tiểu ≥ 102 khúm vi
trùng/ml (không hơn 2 loại vi trùng), tác giả
Neebha Ojha kết luận tỷ lệ này là 46% (11). Như
vậy, qua các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ NKN liên
quan OTT dao động với biên độ khá rộng với
những tiêu chuẩn chẩn đoán khác nhau. Vì vậy
việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán cụ thể cho
NKN liên quan OTT là rất cần thiết.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 136
Kết quả cấy định danh vi khuẩn cho thấy các
tác nhân gây NKN liên quan OTT là Escherichia
coli, Proteus spp, Staphylococcus aureus,
Enterococcus faecalis, Klebsiella spp, Pseudomonas
aeruginosa. Tuy tỷ lệ tác nhân trong nghiên cứu
của chúng tôi có khác hơn các nghiên cứu khác
nhưng vẫn là các tác nhân thường gặp trong
NKN liên quan OTT, trong đó Escherichia coli có
tỷ lệ cao nhất, đứng thứ 2 là Enterococus faecalis.
Staphylococcus aureus và Pseudomonas aeruginosa
được biết đến như là 2 tác nhân thường gây
nhiễm trùng bệnh viện.
Thời gian lưu OTT là yếu tố nguy cơ quan
trọng nhất ảnh hưởng đến tỷ lệ NKN liên quan
OTT (14). Khi phân tích tìm các yếu tố nguy cơ
của NKN liên quan OTT ở các nghiên cứu khác
nhau, mỗi nghiên cứu có thể kết luận những yếu
tố nguy cơ khác nhau, tuy nhiên yếu tố thời gian
lưu OTT thì không thay đổi khi phân tích đơn
biến cũng như đa biến. Vì vậy chúng tôi tiến
hành phân tích để tìm mối liên quan giữa thời
gian lưu OTT và NKN liên quan OTT. Kết quả
cho thấy, trung vị của thời gian lưu OTT ở nhóm
có NKN liên quan OTT 4,4 ngày, ở nhóm không
có NKN liên quan OTT là 2,8 ngày, sự khác biệt
này có ý nghĩa thống kê với p = 0,001. Khi phân
tích tìm nguy cơ NKN liên quan OTT tăng lên
mỗi ngày chúng tôi ghi nhận OR = 2,2 trong
phân tích đơn biến, kết quả này là 2,4 trong
phân tích đa biến (OR: nguy cơ cho mỗi ngày
tăng thêm), tức là mỗi ngày nguy cơ
NKNLQOTT là 2,4 lần. Kết quả này không khác
nhiều với y văn và các nghiên cứu trước
đó(5,3,10,15).
Nghiên cứu của Paul A. Tambyah và cs, so
sánh thời gian lưu OTT trung bình ở nhóm có
NKN liên quan OTT là 6,4 ngày và nhóm
không NKN liên quan OTT là 4,4 ngày, kết quả
p < 0,001(15). Nghiên cứu của Karina Billote‐
Domingo và cs thì thời gian lưu OTT trung
bình ở nhóm có NKN liên quan OTT là 6,4
ngày và nhóm không NKN liên quan OTT là
4,2 ngày, p = 0,001(3) Với tác giả Joon Ho Lee, ở
nhóm có NKN liên quan OTT, thời gian lưu
OTT trung bình là 27,7, thời gian này ở nhóm
không có NKN liên quan OTT là 15,8, kết quả
phân tích so sánh thời gian lưu OTT trung
bình ở 2 nhóm trên cho thấy p = 0,004. Như
vậy, các nghiên cứu trên đều ghi nhận thời
gian đặt thông tiểu tăng làm tăng nguy cơ
NKN liên quan OTT và sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê về thời gian lưu OTT trung bình ở 2
nhóm có và không có NKN liên quan OTT,
ngoại trừ nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị
Tuyết Trinh, thời gian lưu OTT trung bình ở
nhóm có NKN liên quan OTT là 6,8 ngày và
nhóm không NKN liên quan OTT là 6,1 ngày
và sự khác biệt này là không có ý nghĩa thống
kê (p= 0,07).
Hạn chế
Nghiên cứu được thiết kế theo loại hình
nghiên cứu quan sát nên kết quả thu được có
giới hạn trên phương diện bằng chứng y khoa.
Hạn chế trong nghiên cứu là việc xác định tỷ lệ
NKN liên quan OTT chỉ dừng lại tại thời điểm
kết thúc việc lưu ống thông tiểu. Theo tiêu
chuẩn chẩn đoán của Hiệp hội bệnh lý nhiễm
trùng của Hoa Kỳ 2009(8) thì NKN liên quan OTT
bao gồm khuẩn niệu không triệu chứng liên
quan OTT (xảy ra trong thời gian lưu OTT) và
NTT liên quan OTT (xảy ra trong thời gian lưu
ống thông tiểu hoặc trong vòng 48 giờ sau khi
rút ống thông tiểu), như vậy cần thiết theo dõi
thêm 48 giờ sau khi rút ống thông tiểu xem có
các triệu chứng của nhiễm trùng tiểu và sẽ cấy
nước tiểu để xác định tình trạng nhiễm trùng khi
có biểu hiện lâm sàng (căng tức trên xương mu,
tiểu khó, tiểu nhiều lần).
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu chúng tôi rút ra được kết
luận như sau:
1. Tỷ lệ nhiễm khuẩn niệu ở sản phụ tiền sản
giật nặng có đặt thông tiểu lưu là 17,3% KTC
95% [11 – 25], trong đó: nhiễm trùng tiểu 0,8%
KTC 95% [0,79 – 0,81] và nhiễm khuẩn niệu
không triệu chứng 16,5% KTC 95% [16,3 – 16,7].
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 137
2. Tác nhân gây bệnh ghi nhận là Escherichia
coli 31,8%, Enterococcus faecalis 22,7%, Proteus spp
18,2%, Klebsiella spp 13,6%, Staphylococcus aureus
9,1%, và Pseudomonas aeruginosa 4,6%.
3. Thời gian lưu ống thông tiểu: khi lưu ống
thông tiểu, nguy cơ nhiễm khuẩn niệu cho mỗi
ngày tăng thêm là 2,4 lần (p = 0,04). Khi có bạch
cầu trong nước tiểu, nguy cơ NKN liên quan
OTT cao gấp 6,8 lần so với nhóm không có bạch
cầu trong nước tiểu (p = 0,009).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ACOG practice bulletin (2002). “Diagnosis and management
of preeclampsia and eclampsia”. Obstet Gynecol. Jan; 99(1):
pp 159‐67
2. Anne GP (2000). “Indwelling and strait”. Basic skills and
procedures. (Fouth edition). Mosby publishing, Sydney
Toronto, pp. 288 – 298.
3. Billote‐Domingo K, Mendoza MT, Torres TT, (1999).
“Catheter‐related Urinary Tract Infections: Incidence, Risk
Factors and Microbiologic Profile”. Phil J Microbiol Infect Dis;
28(4): pp 133 – 138
4. Bộ Y Tế (2009). Hương dẫn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc
sức khỏe sinh sản. Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr 118 – 120.
5. Clec’h C, Schwebel C, Franc¸ais A, Toledano D, (2007). “Does
Catheter‐Associated Urinary Tract Infection increase
Mortality in Critically Ill Patients”? Infection control and
hospital epidemiology; vol. 28, no. 12
6. Colgan R, Nicolle LE, Mcglone A, Hooton TM (2006).
“Asymptomatic Bacteriuria in Adults”. Am Fam Physician;
74: pp 985 – 90.
7. Delzell JE, Lefevre ML (2000). “Urinary Tract Infections
During Pregnancy”. Am Fam Physician.; 61(3): pp 713 – 720
8. Hooton TM, Bradley SF, et al (2010). “Diagnosis, Prevention,
and Treatment of Catheter‐ Associated Urinary Tract
Infection in Adults: 2009 International Clinical Practice
Guidelines from the Infectious Diseases Society of America”.
Clinical Infectious Diseases; 50: pp 625 – 63.
9. Klevens RM, Edward JR, et al (2007). “Estimating health care‐
associated infections and deaths in U.S. hospitals, 2002”.
Public Health Reports; 122: pp 160 – 166
10. Maki DG, Knasinski V, Tambyah PA (2000). “Risk factors for
catheterassociated urinary tract infection: a prospective study
showing the minimal effects of catheter care violations on the
risk of CAUTI” [abstract]. Infect Control Hosp Epidemiol; 21:
pp 165.
11. Neebha O (2008). “Bacteriuria following Foley catheterization
after gynecological and obstetrical surgery”. NJOG 3(1): pp 35
– 8
12. Nguyễn Thị Tuyết Trinh (2009). Liên quan giữa thời gian lưu
ống thông tiểu với nhiễm khuẩn đường tiết niệu. Luận văn
thạc sĩ y học, trường Đại học Y dược TpHCM, tr 48 – 72.
13. Sibai BM (1990). “The HELLP Syndrom: much ado about
nothing”. Am J Obstet Gynecol 162: pp 1000 – 6
14. Stamm AM, Coutinho MS (1999). “Urinary tract infection
associated with indwelling bladder catheter: incidence and
risk factors”. Rev Assoc Med Bras; 45: pp 27 – 33
15. Tambyah PA, Maki DG, (2000). “Catheter‐Associated Urinary
Tract Infection Is rarely symptomatic”. Arch Intern Med; 160:
pp 678 – 82
16. Trần Văn Sáng, Đoàn Thị Kim Loan (1991). “Nhiễm trùng
tiểu do đặt thông để lưu trong niệu đạo”. Tập san ngoại khoa
2, 19, tr. 17‐21
Ngày nhận bài báo: 30/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 02/12/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2004
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ty_le_nhiem_khuan_nieu_va_nhiem_trung_tieu_o_san_phu_tien_sa.pdf