Trong 2 trường hợp PTBCTC bất thường
được ghi nhận trong nghiên cứu, có 1 trường
hợp ASC‐H (0,09%) và 1 trường hợp LSIL kèm
nhiễm HPV (0,09%). Tương tự tỷ lệ PTBCTC bất
thường nói chung, tỷ lệ LSIL của chúng tôi cũng
thấp hơn kết quả báo cáo của các tác giả khác
trong nước. Đặc biệt, các nghiên cứu khác không
thấy ghi nhận ASC‐H. Trong nghiên cứu của tác
giả Huỳnh Văn Nhàn, tỷ lệ ASCUS, AGUS là
1,6%, LSIL và HSIL chiếm tỷ lệ lần lượt là 0,5%
và 0,2%(4). Phạm Thị Ngọc Xuân ghi nhận tỷ lệ
ASCUS, LSIL và HSIL tại Thủ Thừa, Long An
năm 2006 lần lượt là 1,0%, 0,3% và 0,4%(11). Tác
giả Bùi Thị Hồng Nhu nghiên cứu trên các phụ
nữ quanh tuổi mãn kinh tại thành phố Hồ Chí
Minh năm 2008 ghi nhận tỷ lệ ASCUS, LSIL và
HSIL lần lượt là 1,1%, 0,3% và 0,4%(1). Tỷ lệ này
được Lê Thị Kim Tuyến báo cáo từ nghiên cứu
năm 2009 tại Bình Chánh, thành phố Hồ Chí
Minh là 0,8%, 0,3% và 0,1%(6). Tác giả Phan
Hồng Vân báo cáo nghiên cứu năm 2007 với tỷ
lệ ASCUS và AGUS khá cao (4,53%), tỷ lệ LSIL
(1,24%) cũng cao hơn so với các nghiên cứu
khác(12). Nghiên cứu của chúng tôi chỉ có tổn
thương trong biểu mô mức độ thấp và ASC‐H,
không có tổn thương trong biểu mô mức độ cao
cũng như ung thư tế bào gai hay tế bào tuyến.
Do vậy kết quả này có sự khác biệt với kết quả
của các tác giả trên. Sự khác biệt này có thể do
các tác giả trên tiến hành nghiên cứu ở những
địa phương chưa thực hiện tầm soát ung thư
CTC. Tại huyện Khánh Vĩnh, chương trình tầm
soát ung thư và các tổn thương tiền ung thư
CTC đã có hiệu quả tốt, góp phần làm giảm tỷ lệ
các tổn thương trong biểu mô CTC mức độ cao
cũng như ung thư CTC.
So sánh với các nghiên cứu nước ngoài, sự phân
bố kết quả PTBCTC bất thường trong nghiên
cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của
tác giả Malkawi SR trong gần 4 năm tại Jordan
và được báo cáo năm 2004 với tỷ lệ ASCUS,
AGUS là 0,8% và LSIL là 0,2%, không có HSIL
và ung thư CTC. Đây có thể là kết quả khả quan
của việc tầm soát ung thư CTC tại đây(7). Các
nghiên cứu khác của Thistle PJ và Mohammad
Shoaib Khan lại không ghi nhận ASCUS và
AGUS nhưng có HSIL và ung thư tế bào gai
CTC với tỷ lệ lần lượt là 3,6% và 2,0%(9,13). Riêng
trong nghiên cứu của Thistle(13) ở Zimbabwe
năm 1997, tỷ lệ LSIL rất cao (12%) có thể do
Zimbabwe là một nước nghèo, đời sống kinh tế
xã hội còn ở mức thấp, đây là một yếu tố nguy
cơ của ung thư và các tổn thương tiền ung ở
CTC. Hơn nữa, nghiên cứu này được thực hiện
năm 1997, có thể vào thời điểm cách đây hơn 10
năm, chương trình tầm soát ung thư CTC tại đất
nước này còn hạn chế và chưa được quan tâm
đúng mức.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 25/01/2022 | Lượt xem: 214 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỷ lệ phết tế bào cổ tử cung bất thường và các yếu tố liên quan ở phụ nữ 18‐60 tuổi tại huyện Khánh Vĩnh – tỉnh Khánh Hòa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 1
TỶ LỆ PHẾT TẾ BÀO CỔ TỬ CUNG BẤT THƯỜNG
VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở PHỤ NỮ 18‐60 TUỔI
TẠI HUYỆN KHÁNH VĨNH – TỈNH KHÁNH HÒA
Trần Thị Liên Hương*, Lê Hồng Cẩm**
TÓM TẮT
Mở đầu: Phết tế bào cổ tử cunglà một xét nghiệm thường quy, được sử dụng để phát hiện sớm những biến
đổi bất thường ở cổ tử cung trước khi những tế bào này chuyển thành tế bào ung thư. Mặc dù tầm soát ung thư
cổ tử cung bằng phết tế bào cổ tử cung đã được đưa vào chương trình khám phụ khoa định kỳ tại địa phương
nhưng số phụ nữ tham gia tầm soát ung thư cổ tử cung còn rất thấp.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ phết tế bào cổ tử cung bất thường ở phụ nữ huyện Khánh Vĩnh – tỉnh Khánh Hòa
trong độ tuổi từ 18 đến 60 và khảo sát mối liên quan giữa tuổi, tuổi quan hệ tình dục lần đầu, tình trạng kinh tế
xã hội và tiền căn sản phụ khoa với phết tế bào cổ tử cung bất thường.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành ở những phụ nữ có gia đình từ tháng 3
đến tháng 5/2011 tại huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa. Có 1.176 phụ nữ được khám phụ khoa và làm phết tế
bào cổ tử cung với que Spatula d’Ayre. Tiêu bản phết tế bào cổ tử cung được gửi về khoa Giải phẫu bệnh, bệnh
viện Hùng Vương, nhuộm theo phương pháp Papanicolaou, đọc và phân loại kết quả theo hệ thống Bethesda.
Kết quả: Tỷ lệ phết tế bào cổ tử cung bất thường là 0,2% với 1 trường hợp ASC‐H và 1 trường hợp LSIL.
Kết luận: Tỷ lệ phết tế bào cổ tử cung bất thường thấp, không xác định được mối liên quan giữa tuổi, tuổi
quan hệ tình dục lần đầu, tình trạng kinh tế xã hội và tiền căn sản phụ khoa với tỷ lệ phết tế bào cổ tử cung bất
thường vì số lượng mẫu phết bất thường thu được chỉ có 2 trường hợp. Cần nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn.
Từ khóa: phết tế bào cổ tử cung bất thường
ABSTRACT
THE PREVALENCE OF ABNORMAL PAP SMEARS AND ASSOCIATED FACTORS
AMONG WOMEN AGED 18‐60 IN KHANH VINH – KHANH HOA PROVINCE
Tran Thi Lien Huong, Le Hong Cam
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 1 ‐ 7
Background: Pap smear is a cytologic screening test used to detect early precancerous changes of the cervix
so that these conditions can be managed or treated to prevent disease progression due to invasive cancer.
Although cervical cancer screening with cytology smear is implemented in gynecological routine examinations,
the number of women attending this procedure is still low.
Objectives: To determine the prevalence of abnormal pap smears among women aged 18 ‐ 60 in Khanh
Vinh, Khanh Hoa and the relationship between age, age of first sex, socioeconomic status, history of obstetrics and
gynecology and abnormal pap smears.
Methods: Across‐sectional study was conducted among married women from March to May, 2011 in
Khanh Vinh, Khanh Hoa Province. There were1176 participating women who were vaginal examined and taken
papsmear with dʹAyre Spatula. Papsmear templates were sent to the Pathology Department of Hung Vuong
Hospital, stained with Papanicolaou method, read and sorted according to Bethesda system.
* Bệnh viện Từ Dũ ** Bộ môn Phụ Sản Đại học Y Dược TP HCM
Tác giả liên lạc. PGS Lê Hồng Cẩm ĐT: 0913 645517 Email: lehongcam61@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 2
Results: The prevalence of abnormal cervical cytology smears is 0.2%, including 1 case of ASC‐H and 1
case of LSIL.
Conclusions: The prevalence of abnormal Pap test in women aged 18‐60 in Khanh Vinh, Khanh Hoa is low.
No relationship between age, age of first sex, socioeconomic status, history of obstetrics and gynecology and
abnormal cervical cytology smears was found due to small number of abnormal cases.
Key words: abnormal cervical cytology smear
MỞ ĐẦU
Trên thế giới, ung thư cổ tử cung đứng hàng
thứ 2 trong các loại ung thư ở phụ nữ và là
nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trong các
bệnh lý phụ khoa ác tính. Tuy nhiên, ung thư cổ
tử cung có thể phòng ngừa được vì có thời gian
tiền ung thư kéo dài, chương trình tầm soát sẵn
có và các biện pháp điều trị tổn thương tiền ung
thư khá hiệu quả. Có nhiều phương pháp tầm
soát ung thư cổ tử cung, trong số đó có xét
nghiệm phết tế bào cổ tử cung (PTBCTC)(2).
PTBCTC là một xét nghiệm thường quy,
được sử dụng để phát hiện sớm những biến đổi
bất thường ở cổ tử cung trước khi những tế bào
này chuyển thành tế bào ung thư(7). Đây là
phương pháp được lựa chọn trong bước đầu
tầm soát với ưu thế đơn giản, dễ thực hiện, rẻ
tiền, hiệu quả, phù hợp với kinh tế các nước
đang phát triển.
Huyện Khánh Vĩnh thuộc tỉnh Khánh Hòa
là một huyện vùng sâu vùng xa với đa số đồng
bào là người dân tộc thiểu số (74,6%). Chương
trình tầm soát ung thư cổ tử cung bằng
PTBCTC đã được triển khai tại địa phương
cách nay 4 năm, nhưng chỉ tập trung tại một số
xã. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác
định tỷ lệ PTBCTC bất thường ở phụ nữ tại địa
phương này.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện từ
tháng 3 đến tháng 5 năm 2011 tại huyện Khánh
Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa.
Có 1176 phụ nữ được chọn vào nghiên cứu
theo phương pháp chọn mẫu cụm xác suất tỉ lệ
theo cỡ (PPS). Đã loại khỏi nghiên cứu những
phụ nữ đang mang thai, có quan hệ tình dục,
thụt rửa âm đạo, đặt thuốc âm đạo trong vòng
24 giờ trước đó, đang ra huyết âm đạo, viêm
nhiễm đường sinh dục cấp, có bệnh lý cấp cứu
sản phụ khoa hoặc đã mổ cắt tử cung hoàn toàn,
không đồng ý tham gia nghiên cứu. Sau khi ký
vào bảng đồng thuận tham gia nghiên cứu, đối
tượng nghiên cứu được phỏng vấn và khám
phụ khoa, lấy mẫu PTBCTC theo phương pháp
cổ điển. Bệnh phẩm được cố định ngay và gửi
về khoa Giải phẫu bệnh, bệnh viện Hùng Vương
để được nhuộm theo phương pháp
Papanicolaou, đọc và phân loại kết quả theo hệ
thống Bethesda. Những trường hợp kết quả
phết tế bào tử cung bất thường sẽ được báo lại
cho địa phương và mời đối tượng đến bệnh viện
tỉnh để khám và điều trị tiếp.
Phân phối tần suất của các biến số định danh và
biến số thứ tự, các biến số định lượng sẽ được
trình bày bằng trung bình và độ lệch chuẩn
trong kết quả mô tả đặc điểm dân số nghiên cứu
và kết quả PTBCTC bất thường. Sử dụng
phương pháp phân tích đơn biến để phát hiện
mối liên quan giữa các biến độc lập với PTBCTC
bất thường. Kiểm định bằng phép kiểm Chi bình
phương (2) và Fisher nếu n < 5.
KẾT QUẢ
Nghiên cứu được thực hiện trong thời gian
từ tháng 3/2011 đến tháng 5/2011 tại 14 trạm y tế
xã, thị trấn của huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh
Hòa. 1176 đối tượng thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu
được chọn vào nghiên cứu.
Tuổi trung bình của đối tượng tham gia
nghiên cứu là 33,8 ± 9,9. Nhóm tuổi từ 26 đến 35
chiếm tỷ lệ cao nhất (37,9%).
Số lượng phụ nữ người dân tộc thiểu số
chiếm ưu thế với tỷ lệ 66,4%, trong đó, tỷ lệ
người Raglay cao nhất (44,7%).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 3
Nhóm phụ nữ làm ruộng chiếm đa số trong
mẫu nghiên cứu với tỷ lệ 74,9%.
Có 0,9% phụ nữ có tiền căn gia đình mắc
ung thư cổ tử cung.
Bảng 1. Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%)
Nhóm tuổi (n = 1176)
18 – 25 285 24,2
26 – 35 446 37,9
36 – 45 270 23,0
46 – 60 175 14,9
Dân tộc (n = 1176)
Kinh 395 33,6
Thiểu số 781 66,4
Raglay 526 44,7
Ê đê 99 8,4
T’rin 51 4,3
Nùng 49 4,2
Tày 48 4,1
Khác 8 0,7
Nghề nghiệp
(n = 1176)
Trí thức 111 9,4
Công nhân 37 3,2
Buôn bán 45 3,8
Nội trợ 102 8,7
Làm ruộng 881 74,9
Học vấn (n = 1176)
Mù chữ 275 23,4
Cấp 1 331 28,1
Cấp 2 349 29,7
Cấp 3 143 12,2
Cao đẳng, đại
học, sau đại học 78 6,6
Hút thuốc (n = 1176) Có 164 13,9
Không 1012 86,1
Tiền căn gia đình mắc
ung thư cổ tử cung
(n=1176)
Có 11 0,9
Không 1165 99,1
Tuổi quan hệ tình dục lần đầu trong mẫu
nghiên cứu thấp nhất là 14 và cao nhất là 39, giá
trị trung bình là 20,2 ± 3,8.
87 phụ nữ có tiền căn ra huyết âm đạo sau
giao hợp, chiếm tỷ lệ 7,4%.
Số lần sanh trung bình: 2,6 ± 1,7. Người sanh
nhiều nhất là 12 lần. 468 phụ nữ sanh trên 2 lần,
chiếm tỷ lệ 39,8%.
Số bạn tình của đối tượng nghiên cứu nhiều
nhất là 5 người. 8,3% phụ nữ trong mẫu nghiên
cứu có từ 2 bạn tình trở lên.
79,9% số phụ nữ trong mẫu nghiên cứu đã
từng khám phụ khoa. 434 phụ nữ khám phụ
khoa định kỳ 6‐12 tháng/lần, chiếm tỷ lệ
36,9%. 20,1% phụ nữ chưa từng khám phụ
khoa lần nào.
Bảng 2. Đặc điểm về tiền căn sản phụ khoa của đối
tượng nghiên cứu
Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%)
Tình trạng hôn
nhân (n=1176)
Sống cùng chồng 1111 94,5
Góa, ly thân, ly dị 65 5,5
Tuổi quan hệ tình
dục lần đầu
(n=1176)
< 18 193 16,4
≥ 18 983 83,6
Ngừa thai (n=1176) Có 666 56,6
Không 510 43,4
Tiền căn ra huyết
âm đạo sau giao
hợp (n=1176)
Có 87 7,4
Không 1089 92,6
Tuổi mang thai lần
đầu(n=1155)
< 18 114 9,9
≥ 18 1041 90,1
Tuổi sanh lần đầu
(n=1147)
< 18 99 8,6
≥ 18 1048 91,4
Số lần sanh
(n=1176)
0 – 2 708 60,2
> 2 468 39,8
Số bạn tình của đối
tượng nghiên cứu
(n=1176)
1 1078 91,7
> 1 98 8,3
Số bạn tình của
chồng đối tượng
nghiên cứu
(n=1176)
1 444 37,7
> 1 208 17,7
Không biết 495 42,1
Không có ý kiến 29 2,5
Từng khám phụ
khoa (n=1176)
Có 940 79,9
6 – 12 tháng/lần 434 36,9
≥ 2 năm/lần hoặc
có vấn đề 506 43,0
Không 236 20,1
Địa điểm khám phụ
khoa (n=940)
Trạm y tế xã 767 81,6
Bệnh viện huyện 48 5,1
Bệnh viện tuyến
trên 89 9,5
Phòng khám tư 36 3,8
Từng được làm
PTBCTC (n=1176)
Có 390 33,1
PTBCTC gần nhất
≤ 1 năm 125 10,6
PTBCTC gần nhất
> 1 năm 265 22,5
Không 786 66,9
Kết quả PTBCTC
từng làm (n=390)
Bình thường 390 100
Bất thường 0 0
Có 390 phụ nữ từng được làm PTBCTC,
chiếm tỷ lệ 33,1% và tất cả đều có kết quả bình
thường. Trong số này, đa số phụ nữ có lần làm
PTBCTC cuối cùng cách đây hơn 1 năm (22,5%).
66,9% chưa từng được làm PTBCTC.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 4
Bảng 3. Đặc điểm lâm sàng cổ tử cung
Đặc điểm lâm sàng cổ tử cung Tần số
(n=1176)
Tỷ lệ (%)
Bình thường (trơn láng) 758 64,5
Có tổn thương 418 35,5
Lộ tuyến CTC 401 34,1
Polype CTC 6 0,5
Khác (CTC sùi, loét, chảy máu) 11 0,9
Tỷ lệ phụ nữ có cổ tử cung trơn láng trong
nghiên cứu (64,5%) cao hơn tỷ lệ phụ nữ có cổ tử
cung có tổn thương (35,5%).
Bảng 4. Kết quả PTBCTC
Kết quả PTBCTC Tần số
(n=1176)
Tỷ lệ (%)
Âm tính đối với tổn thương tân sinh
trong biểu mô CTC và tổn thương
ác tính
1174 99,8
Bình thường 189 16,1
Biến đổi tế bào do viêm 954 81,1
Teo đét 11 2,6
Bất thường tế bào biểu mô CTC 2 0,2
ASC-H 1 0,1
LSIL 1 0,1
Tỷ lệ PTBCTC bất thường là 0,2%. Có 1
trường hợp ASC‐H và 1 trường hợp LSIL, mỗi
trường hợp chiếm tỷ lệ 0,1%.
BÀN LUẬN
Nghiên cứu được thực hiện trên 1176 phụ
nữ. Kết quả có 2 trường hợp PTBCTC bất
thường, chiếm tỷ lệ 0,2%, trong đó có 1 trường
hợp ASC‐H và 1 trường hợp LSIL. Số lượng quá
nhỏ nên không thể thực hiện thống kê phân tích
và đưa ra kết luận về mối liên quan giữa một số
yếu tố và tỷ lệ PTBCTC bất thường.
Về đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Trong mẫu nghiên cứu, phụ nữ có độ tuổi
thấp nhất là 18, cao nhất là 60. Tuổi trung bình là
33,8 ± 9,9, nhỏ hơn so với tuổi trung bình trong
nghiên cứu của Lê Thị Kim Tuyến tại huyện
Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh là 38,7 (p >
0,05)(6). Nhóm tuổi 26‐35 chiếm tỷ lệ 37,9%, phù
hợp với nghiên cứu của Phạm Thị Ngọc Xuân
(35,8%)(11). Tuy nhiên, trong nghiên cứu của tác
giả này, nhóm tuổi 35 – 45 chiếm tỷ lệ cao nhất
(40,2%) trong khi nhóm tuổi này trong nghiên
cứu của chúng tôi chỉ chiếm 23,0%. Lê Thị Kim
Tuyến cũng ghi nhận phụ nữ trong nhóm tuổi
36‐45 tham gia nghiên cứu đông nhất (32,2%).
Tỷ lệ phụ nữ trên 45 tuổi được chúng tôi ghi
nhận (14,9%) phù hợp với Phạm Thị Ngọc Xuân
(14,6%) nhưng thấp hơn so với Lê Thị Kim
Tuyến (27,7%). Có lẽ vì thế kết quả phết tế bào
bất thường của chúng tôi thấp hơn các tác giả
trên do ung thư cổ tử cung thường gặp ở phụ nữ
lớn tuổi.
Về thành phần dân tộc, trong nghiên cứu
này, phụ nữ dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ 66,4%,
cao hơn dân tộc Kinh (33,6%). Trong đó, phụ nữ
dân tộc Raglay chiếm đa số (44,7%). Các thành
phần dân tộc thiểu số khác chỉ chiếm tỷ lệ dưới
10%. Phân bố thành phần dân tộc trong mẫu
nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với
phân bố dân tộc chung của huyện Khánh Vĩnh
với 74,6% là đồng bào dân tộc thiểu số.
Về nghề nghiệp, tỷ lệ phụ nữ làm ruộng là
cao nhất trong mẫu nghiên cứu (74,9%), phù
hợp với phân bố thành phần nghề nghiệp tại
huyện Khánh Vĩnh với đa số là làm ruộng, tỷ lệ
phụ nữ nội trợ thấp (8,7%), tỷ lệ trí thức là 9,4%.
Nghiên cứu của chúng tôi cũng có điểm tương
đồng về thành phần nghề nghiệp với nghiên
cứu của Phạm Thị Ngọc Xuân tại các xã vùng
sâu huyện Thủ Thừa, Long An, có lẽ do 2 địa
điểm nghiên cứu có cùng đặc điểm địa lý, đều là
vùng sâu vùng xa, nơi điều kiện kinh tế còn thấp
và nông lâm nghiệp vẫn là nền tảng. Trong
nghiên cứu này, tỷ lệ phụ nữ làm ruộng là
88,5%, nội trợ chiếm 10,4% và chỉ có 1,1% là
công nhân viên(11). So với nghiên cứu của Lê Thị
Kim Tuyến(6) tại huyện Bình Chánh thành phố
Hồ Chí Minh với tỷ lệ nông dân là 14,5% trong
khi phụ nữ nội trợ chiếm tỷ lệ khá cao (45,2%),
thành phần phụ nữ làm ruộng trong nghiên cứu
của chúng tôi thấp hơn. Có lẽ do Bình Chánh
tuy trước đây là vùng đất nông nghiệp nhưng
trong thời gian trở lại đây, quá trình đô thị hóa
đã tiến nhanh làm diện tích đất nông nghiệp
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 5
giảm dần và phụ nữ tại đây không còn gắn bó
nhiều với công việc đồng áng. Trong khi đó
Khánh Vĩnh vẫn là một huyện miền núi thuần
nông, biểu hiện đô thị hóa tại đây vẫn còn ít và
hạn hẹp nên số lượng phụ nữ làm nông nghiệp
tại đây chiếm đa số cũng là điều dễ hiểu.
Nhóm phụ nữ có trình độ học vấn cấp 1, 2
trong nghiên cứu chiếm tỷ lệ 67,8%. Nhóm phụ
nữ có trình độ cao đẳng, đại học, sau đại học chỉ
chiếm 6,6%. Đặc biệt, tỷ lệ phụ nữ mù chữ trong
nghiên cứu khá cao (23,4%). So với nghiên cứu
của tác giả Huỳnh Văn Nhàn(4) tại Bù Đăng, Bình
Phước với 14,6% phụ nữ mù chữ thì tỷ lệ của
chúng tôi cao hơn nhưng không có ý nghĩa
thống kê (p > 0,05). Với nghiên cứu của Phạm
Thị Ngọc Xuân(11) (15% phụ nữ mù chữ) thì sự
khác biệt so với nghiên cứu của chúng tôi cũng
không có ý nghĩa (p > 0,05). Tỷ lệ mù chữ và cấp
1 được chúng tôi ghi nhận là 51,5%, tương đồng
với kết quả của Lê Thị Kim Tuyến (45,7%)(6). Học
vấn thấp, nghề nghiệp sẽ ảnh hưởng đến thu
nhập kinh tế, từ đó người phụ nữ sẽ ít có hội
được chăm sóc y tế.
Về kết quả PTBCTC bất thường
Hai trường hợp PTBCTC bất thường là ở 2
phụ nữ 37 và 38 tuổi, dân tộc Raglay và Tày,
trình độ học vấn cấp 1 và 2, đều làm ruộng, từng
khám phụ khoa nhưng chưa được làm PTBCTC.
Như vậy nếu chỉ khám phụ khoa đơn thuần
không được làm PTBCTC sẽ bỏ sót những
trường hợp tiền ung thư vì trong giai đoạn này
bệnh chưa có triệu chứng lâm sàng. Vì vậy thực
hiện PTBCTC trong khám phụ khoa là hết sức
cần thiết.
So sánh kết quả PTBCTC trong nghiên cứu
của chúng tôi và các nghiên cứu khác trong
nước cho thấy tỷ lệ PTBCTC bất thường chúng
tôi ghi nhận tại huyện Khánh Vĩnh đều thấp
hơn so với các tác giả khác. Cụ thể, tỷ lệ
PTBCTC bất thường trong nghiên cứu này
thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so với
tỷ lệ của tác giả Huỳnh Văn Nhàn (2,2%) khi
nghiên cứu tại huyện Bù Đăng, tỉnh Bình
Phước năm 2002 trên 625 phụ nữ(4), tác giả
Phạm Thị Ngọc Xuân (1,4%) ghi nhận trên 625
phụ nữ tại huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An
năm 2005(11), tác giả Phan Hồng Vân (6,0%)
nghiên cứu năm 2007 trên 1126 phụ nữ tại
huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh(12), tác giả
Bùi Thị Hồng Nhu (1,9%) khảo sát trên 1615
phụ nữ quanh mãn kinh tại thành phố Hồ Chí
Minh năm 2008(1) và tác giả Lê Thị Kim Tuyến
(1,5%) nghiên cứu tại huyện Bình Chánh,
thành phố Hồ Chí Minh năm 2009 trên 1244
phụ nữ(6).
Các nghiên cứu khác tiến hành tại bệnh viện
hoặc phòng khám cũng cho thấy tỉ lệ PTBCTC
bất thường cao hơn so với kết quả nghiên cứu
của chúng tôi. Nghiên cứu năm 1998 của tác giả
Vũ Thị Nhung tại Phòng khám Phụ khoa bệnh
viện Hùng Vương ghi nhận tỷ lệ PTBCTC bất
thường là 1,2%(15). Tác giả Vũ Bá Quyết nghiên
cứu tại Viện Bảo vệ bà mẹ trẻ em năm 1993 trên
10.000 phụ nữ báo cáo tỷ lệ bất thường là
1,4%(14). Tỷ lệ PTBCTC bất thường trong nghiên
cứu của chúng tôi thấp hơn các nghiên cứu này
có thể do các tác giả trên chọn vào mẫu những
phụ nữ trong khoảng tuổi rộng hơn, từ 18 đến
84 tuổi. Bên cạnh đó, phụ nữ đến khám phụ
khoa tại bệnh viện thường vì những triệu chứng
bệnh lý hơn là vì lý do đến khám phụ khoa định
kỳ. Do vậy, tỷ lệ bất thường của các phết tế bào
có thể cao hơn nghiên cứu trong cộng đồng của
chúng tôi. Mặt khác, theo thời gian, các chương
trình tầm soát ung thư CTC đã được triển khai
rộng hơn và có hiệu quả hơn dẫn đến tỷ lệ bất
thường ở các nghiên cứu trong thời gian gần
đây có thể thấp hơn so với các nghiên cứu trước.
So với các nghiên cứu nước ngoài, tỷ lệ
PTBCTC bất thường trong nghiên cứu của
chúng tôi cũng thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p
< 0,05). Năm 2003, Jamal tiến hành một nghiên
cứu với mẫu khá lớn gồm 22.089 phụ nữ tại
vùng Tây Ả Rập Saudi thu được tỷ lệ PTBCTC
bất thường là 1,6%(5). Nghiên cứu của Fadwa
J.Altaf năm 2006 cũng tại Ả Rập Saudi trên 5132
phụ nữ cho thấy tỷ lệ PTBCTC khá cao là 4,7%(3).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 6
Trong 2 trường hợp PTBCTC bất thường
được ghi nhận trong nghiên cứu, có 1 trường
hợp ASC‐H (0,09%) và 1 trường hợp LSIL kèm
nhiễm HPV (0,09%). Tương tự tỷ lệ PTBCTC bất
thường nói chung, tỷ lệ LSIL của chúng tôi cũng
thấp hơn kết quả báo cáo của các tác giả khác
trong nước. Đặc biệt, các nghiên cứu khác không
thấy ghi nhận ASC‐H. Trong nghiên cứu của tác
giả Huỳnh Văn Nhàn, tỷ lệ ASCUS, AGUS là
1,6%, LSIL và HSIL chiếm tỷ lệ lần lượt là 0,5%
và 0,2%(4). Phạm Thị Ngọc Xuân ghi nhận tỷ lệ
ASCUS, LSIL và HSIL tại Thủ Thừa, Long An
năm 2006 lần lượt là 1,0%, 0,3% và 0,4%(11). Tác
giả Bùi Thị Hồng Nhu nghiên cứu trên các phụ
nữ quanh tuổi mãn kinh tại thành phố Hồ Chí
Minh năm 2008 ghi nhận tỷ lệ ASCUS, LSIL và
HSIL lần lượt là 1,1%, 0,3% và 0,4%(1). Tỷ lệ này
được Lê Thị Kim Tuyến báo cáo từ nghiên cứu
năm 2009 tại Bình Chánh, thành phố Hồ Chí
Minh là 0,8%, 0,3% và 0,1%(6). Tác giả Phan
Hồng Vân báo cáo nghiên cứu năm 2007 với tỷ
lệ ASCUS và AGUS khá cao (4,53%), tỷ lệ LSIL
(1,24%) cũng cao hơn so với các nghiên cứu
khác(12). Nghiên cứu của chúng tôi chỉ có tổn
thương trong biểu mô mức độ thấp và ASC‐H,
không có tổn thương trong biểu mô mức độ cao
cũng như ung thư tế bào gai hay tế bào tuyến.
Do vậy kết quả này có sự khác biệt với kết quả
của các tác giả trên. Sự khác biệt này có thể do
các tác giả trên tiến hành nghiên cứu ở những
địa phương chưa thực hiện tầm soát ung thư
CTC. Tại huyện Khánh Vĩnh, chương trình tầm
soát ung thư và các tổn thương tiền ung thư
CTC đã có hiệu quả tốt, góp phần làm giảm tỷ lệ
các tổn thương trong biểu mô CTC mức độ cao
cũng như ung thư CTC.
So sánh với các nghiên cứu nước ngoài, sự phân
bố kết quả PTBCTC bất thường trong nghiên
cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của
tác giả Malkawi SR trong gần 4 năm tại Jordan
và được báo cáo năm 2004 với tỷ lệ ASCUS,
AGUS là 0,8% và LSIL là 0,2%, không có HSIL
và ung thư CTC. Đây có thể là kết quả khả quan
của việc tầm soát ung thư CTC tại đây(7). Các
nghiên cứu khác của Thistle PJ và Mohammad
Shoaib Khan lại không ghi nhận ASCUS và
AGUS nhưng có HSIL và ung thư tế bào gai
CTC với tỷ lệ lần lượt là 3,6% và 2,0%(9,13). Riêng
trong nghiên cứu của Thistle(13) ở Zimbabwe
năm 1997, tỷ lệ LSIL rất cao (12%) có thể do
Zimbabwe là một nước nghèo, đời sống kinh tế
xã hội còn ở mức thấp, đây là một yếu tố nguy
cơ của ung thư và các tổn thương tiền ung ở
CTC. Hơn nữa, nghiên cứu này được thực hiện
năm 1997, có thể vào thời điểm cách đây hơn 10
năm, chương trình tầm soát ung thư CTC tại đất
nước này còn hạn chế và chưa được quan tâm
đúng mức.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu cắt ngang trên 1176 phụ nữ
từ 18 đến 60 tuổi tại huyện Khánh Vĩnh, tỉnh
Khánh Hòa, chúng tôi đã thu được những kết
quả sau:
‐ Tỷ lệ PTBCTC bất thường là 0,2%.
‐ Có 2 trường hợp PTBCTC bất thường,
trong đó có 1 trường hợp ASC‐H và 1 trường
hợp LSIL
‐ Nghiên cứu không xác định được mối liên
quan giữa tuổi, tuổi quan hệ tình dục lần đầu,
tình trạng kinh tế xã hội và tiền căn sản phụ
khoa với tỷ lệ PTBCTC bất thường vì số lượng
mẫu PTBCTC bất thường thu được chỉ có 2
trường hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Thị Hồng Nhu (2008), Tầm soát ung thư cổ tử cung ở phụ nữ
quanh tuổi mãn kinh tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2003, Luận
văn Thạc sĩ y học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế, Trường
Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, tr. 1‐53.
2. Charles R.B.B., Frank W.L., Barbara M.B, William N.P.H,
Douglas W.L., Roger P.S., (2010), “Cervical Neoplasia and
Carcinoma”, Obstetrics and Gynecology, 6th Edition, Published
in collaboration with ACOG, Lippincott William & Wilkins,
pp375‐387.
3. Fadwa J.A., FRCPC, FIAC (2006), “Cervical cancer screening
with pattern of Pap smear ‐ Review of multicenter”, Saudi
Med J 2006, Vol 10, pp.1498‐1502.
4. Huỳnh Văn Nhàn (2002), Tầm soát ung thư cổ tử cung trong
cộng đồng dân cư huyện Bù Đăng tỉnh Bình Phước, Luận văn tốt
nghiệp Chuyên khoa cấp II, Bộ Giáo dục Đào tạo, Bộ Y tế,
Trường Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, tr. 1‐50.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 7
5. Jamal, A.A., Al‐Maghrabi, J.A., (2003), “Profile of Pap smear
Cytology in the Western region of Saudi Arabia”, Saudi Med J
2003; 24, p. 1225‐1229.
6. Lê Thị Kim Tuyến (2008), Tỷ lệ phết tế bào cổ tử cung bất thường
và các yếu tố liên quan ở phụ nữ 18‐60 tuổi tại huyện Bình Chánh
năm 2008, Luận văn Thạc sĩ y học, Bộ Giáo dục Đào tạo, Bộ Y
tế, Trường Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, tr. 1‐54.
7. Malkawi, S.R., Abu Hazeem,R.M., Hajjat, B.M., et al, (2004),
“Evaluation of cervical smear at King Hussein Medical
Center, Jordan, over three and a half years”, La revue de sant
de la Mediterrane orientale, Vol 10, No. 4/5.
8. Manos M. M., Kinney W. K., Hurley L. B. et al, “Identifying
women with cervical neoplasia using HPV DNA testing for
equivocal Pap results”, JAMA 1999, 281(17), pp.1605‐1610.
9. Mohammad,S.K., et al, (2005), “Pap smear Screening for Pre‐
cancerous Conditions of the Cervical Cancerʺ, Pak J Med Res,
Vol 44, No.3.
10. Ostor, A.G., (1993), “Cervical Dysplasia and Invasive Cervical
Cancer”, Int J Gyne Path 1993 (12), pp.186‐192.
11. Phạm Thị Ngọc Xuân (2006), Tầm soát ung thư cổ tử cung ở phụ
nữ các xã vùng sâu huyện Thủ Thừa, Luận văn Thạc sĩ y học, Bộ
Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế, Trường Đại học Y Dược thành
phố Hồ Chí Minh, tr. 1‐49.
12. Phan Hồng Vân (2007), Tỷ lệ tổn thương tiền ung thư – ung thư
cổ tử cung ở phụ nữ 25‐65 tuổi tại huyện Hòa Thành tỉnh Tây
Ninh, Luận văn Thạc sĩ Y học, Bộ Giáo dục Đào tạo, Bộ Y tế,
Trường Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, tr. 1‐50.
13. Thistle, P.J., Chirenje, Z.M, (1997), “Cervical cancer screening
in a rural population of Zimbabwe”, Cent Afr Med, 43 (9), pp.
246‐251.
14. Vũ Bá Quyết (1993), Kết quả phát hiện ung thư cổ tử cung
bằng tế bào học ‐ soi cổ tử cung ‐ giải phẫu bệnh lý, Luận văn
tốt nghiệp bác sĩ chuyên khoa cấp II, Bộ Giáo dục và Đào tạo,
Trường Đại học Y khoa Hà Nội.
15. Vũ Thị Nhung, Trần Thị Vân Anh, Trương Công Việt,
Nguyễn Trọng Hậu (1998), “Phát hiện sớm tổn thương tiền
ung thư tại phòng khám phụ khoa bệnh viện Hùng Vương”,
Số đặc biệt chuyên đề ung bướu học, Y học thành phố Hồ Chí
Minh, Trường Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, Phụ
bản 3, tập 2, tr.228‐234.
Ngày nhận bài báo : 30/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo : 02/12/2013
Ngày bài báo được đăng : 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ty_le_phet_te_bao_co_tu_cung_bat_thuong_va_cac_yeu_to_lien_q.pdf