Tỷ lệ phết tế bào cổ tử cung bất thường và các yếu tố liên quan ở phụ nữ 18‐60 tuổi tại huyện Khánh Vĩnh – tỉnh Khánh Hòa

Trong 2 trường hợp PTBCTC bất thường được ghi nhận trong nghiên cứu, có 1 trường hợp ASC‐H (0,09%) và 1 trường hợp LSIL kèm nhiễm HPV (0,09%). Tương tự tỷ lệ PTBCTC bất thường nói chung, tỷ lệ LSIL của chúng tôi cũng thấp hơn kết quả báo cáo của các tác giả khác trong nước. Đặc biệt, các nghiên cứu khác không thấy ghi nhận ASC‐H. Trong nghiên cứu của tác giả Huỳnh Văn Nhàn, tỷ lệ ASCUS, AGUS là 1,6%, LSIL và HSIL chiếm tỷ lệ lần lượt là 0,5% và 0,2%(4). Phạm Thị Ngọc Xuân ghi nhận tỷ lệ ASCUS, LSIL và HSIL tại Thủ Thừa, Long An năm 2006 lần lượt là 1,0%, 0,3% và 0,4%(11). Tác giả Bùi Thị Hồng Nhu nghiên cứu trên các phụ nữ quanh tuổi mãn kinh tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2008 ghi nhận tỷ lệ ASCUS, LSIL và HSIL lần lượt là 1,1%, 0,3% và 0,4%(1). Tỷ lệ này được Lê Thị Kim Tuyến báo cáo từ nghiên cứu năm 2009 tại Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh là 0,8%, 0,3% và 0,1%(6). Tác giả Phan Hồng Vân báo cáo nghiên cứu năm 2007 với tỷ lệ ASCUS và AGUS khá cao (4,53%), tỷ lệ LSIL (1,24%) cũng cao hơn so với các nghiên cứu khác(12). Nghiên cứu của chúng tôi chỉ có tổn thương trong biểu mô mức độ thấp và ASC‐H, không có tổn thương trong biểu mô mức độ cao cũng như ung thư tế bào gai hay tế bào tuyến. Do vậy kết quả này có sự khác biệt với kết quả của các tác giả trên. Sự khác biệt này có thể do các tác giả trên tiến hành nghiên cứu ở những địa phương chưa thực hiện tầm soát ung thư CTC. Tại huyện Khánh Vĩnh, chương trình tầm soát ung thư và các tổn thương tiền ung thư CTC đã có hiệu quả tốt, góp phần làm giảm tỷ lệ các tổn thương trong biểu mô CTC mức độ cao cũng như ung thư CTC. So sánh với các nghiên cứu nước ngoài, sự phân bố kết quả PTBCTC bất thường trong nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của tác giả Malkawi SR trong gần 4 năm tại Jordan và được báo cáo năm 2004 với tỷ lệ ASCUS, AGUS là 0,8% và LSIL là 0,2%, không có HSIL và ung thư CTC. Đây có thể là kết quả khả quan của việc tầm soát ung thư CTC tại đây(7). Các nghiên cứu khác của Thistle PJ và Mohammad Shoaib Khan lại không ghi nhận ASCUS và AGUS nhưng có HSIL và ung thư tế bào gai CTC với tỷ lệ lần lượt là 3,6% và 2,0%(9,13). Riêng trong nghiên cứu của Thistle(13) ở Zimbabwe năm 1997, tỷ lệ LSIL rất cao (12%) có thể do Zimbabwe là một nước nghèo, đời sống kinh tế xã hội còn ở mức thấp, đây là một yếu tố nguy cơ của ung thư và các tổn thương tiền ung ở CTC. Hơn nữa, nghiên cứu này được thực hiện năm 1997, có thể vào thời điểm cách đây hơn 10 năm, chương trình tầm soát ung thư CTC tại đất nước này còn hạn chế và chưa được quan tâm đúng mức.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 25/01/2022 | Lượt xem: 202 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỷ lệ phết tế bào cổ tử cung bất thường và các yếu tố liên quan ở phụ nữ 18‐60 tuổi tại huyện Khánh Vĩnh – tỉnh Khánh Hòa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 1 TỶ LỆ PHẾT TẾ BÀO CỔ TỬ CUNG BẤT THƯỜNG   VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở PHỤ NỮ 18‐60 TUỔI   TẠI HUYỆN KHÁNH VĨNH – TỈNH KHÁNH HÒA  Trần Thị Liên Hương*, Lê Hồng Cẩm**  TÓM TẮT  Mở đầu: Phết tế bào cổ tử cunglà một xét nghiệm thường quy, được sử dụng để phát hiện sớm những biến  đổi bất thường ở cổ tử cung trước khi những tế bào này chuyển thành tế bào ung thư. Mặc dù tầm soát ung thư  cổ tử cung bằng phết tế bào cổ tử cung đã được đưa vào chương trình khám phụ khoa định kỳ tại địa phương  nhưng số phụ nữ tham gia tầm soát ung thư cổ tử cung còn rất thấp.  Mục tiêu: Xác định tỷ lệ phết tế bào cổ tử cung bất thường ở phụ nữ huyện Khánh Vĩnh – tỉnh Khánh Hòa  trong độ tuổi từ 18 đến 60 và khảo sát mối liên quan giữa tuổi, tuổi quan hệ tình dục lần đầu, tình trạng kinh tế  xã hội và tiền căn sản phụ khoa với phết tế bào cổ tử cung bất thường.  Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành ở những phụ nữ có gia đình từ tháng 3  đến tháng 5/2011 tại huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa. Có 1.176 phụ nữ được khám phụ khoa và làm phết tế  bào cổ tử cung với que Spatula d’Ayre. Tiêu bản phết tế bào cổ tử cung được gửi về khoa Giải phẫu bệnh, bệnh  viện Hùng Vương, nhuộm theo phương pháp Papanicolaou, đọc và phân loại kết quả theo hệ thống Bethesda.  Kết quả: Tỷ lệ phết tế bào cổ tử cung bất thường là 0,2% với 1 trường hợp ASC‐H và 1 trường hợp LSIL.  Kết luận: Tỷ lệ phết tế bào cổ tử cung bất thường thấp, không xác định được mối liên quan giữa tuổi, tuổi  quan hệ tình dục lần đầu, tình trạng kinh tế xã hội và tiền căn sản phụ khoa với tỷ lệ phết tế bào cổ tử cung bất  thường vì số lượng mẫu phết bất thường thu được chỉ có 2 trường hợp. Cần nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn.  Từ khóa: phết tế bào cổ tử cung bất thường  ABSTRACT  THE PREVALENCE OF ABNORMAL PAP SMEARS AND ASSOCIATED FACTORS   AMONG WOMEN AGED 18‐60 IN KHANH VINH – KHANH HOA PROVINCE  Tran Thi Lien Huong, Le Hong Cam  * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 1 ‐ 7  Background: Pap smear is a cytologic screening test used to detect early precancerous changes of the cervix  so  that  these  conditions  can  be managed  or  treated  to  prevent  disease  progression  due  to  invasive  cancer.  Although cervical cancer screening with cytology smear is implemented in gynecological routine examinations,  the number of women attending this procedure is still low.  Objectives: To determine  the prevalence of abnormal pap smears among women aged 18  ‐ 60  in Khanh  Vinh, Khanh Hoa and the relationship between age, age of first sex, socioeconomic status, history of obstetrics and  gynecology and abnormal pap smears.  Methods:  Across‐sectional  study was  conducted  among married women  from March  to May,  2011  in  Khanh Vinh, Khanh Hoa Province. There were1176 participating women who were vaginal examined and taken  papsmear with dʹAyre Spatula. Papsmear  templates were  sent  to  the Pathology Department of Hung Vuong  Hospital, stained with Papanicolaou method, read and sorted according to Bethesda system.  * Bệnh viện Từ Dũ    ** Bộ môn Phụ Sản Đại học Y Dược TP HCM  Tác giả liên lạc. PGS Lê Hồng Cẩm  ĐT: 0913 645517 Email: lehongcam61@yahoo.com   Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 2 Results: The prevalence of abnormal cervical cytology smears  is 0.2%,  including 1 case of ASC‐H and 1  case of LSIL.  Conclusions: The prevalence of abnormal Pap test in women aged 18‐60 in Khanh Vinh, Khanh Hoa is low.  No  relationship  between  age,  age  of  first  sex,  socioeconomic  status,  history  of  obstetrics  and  gynecology  and  abnormal cervical cytology smears was found due to small number of abnormal cases.  Key words: abnormal cervical cytology smear  MỞ ĐẦU  Trên thế giới, ung thư cổ tử cung đứng hàng  thứ  2  trong  các  loại  ung  thư  ở  phụ  nữ  và  là  nguyên nhân gây  tử vong hàng  đầu  trong  các  bệnh lý phụ khoa ác tính. Tuy nhiên, ung thư cổ  tử cung có thể phòng ngừa được vì có thời gian  tiền ung thư kéo dài, chương trình tầm soát sẵn  có và các biện pháp điều trị tổn thương tiền ung  thư khá hiệu quả. Có nhiều phương pháp  tầm  soát  ung  thư  cổ  tử  cung,  trong  số  đó  có  xét  nghiệm phết tế bào cổ tử cung (PTBCTC)(2).   PTBCTC  là  một  xét  nghiệm  thường  quy,  được sử dụng để phát hiện sớm những biến đổi  bất thường ở cổ tử cung trước khi những tế bào  này  chuyển  thành  tế  bào  ung  thư(7).  Đây  là  phương  pháp  được  lựa  chọn  trong  bước  đầu  tầm soát với ưu  thế đơn giản, dễ  thực hiện,  rẻ  tiền,  hiệu  quả,  phù  hợp  với  kinh  tế  các  nước  đang phát triển.   Huyện Khánh Vĩnh thuộc tỉnh Khánh Hòa  là một huyện vùng sâu vùng xa với đa số đồng  bào là người dân tộc thiểu số (74,6%). Chương  trình  tầm  soát  ung  thư  cổ  tử  cung  bằng  PTBCTC  đã  được  triển  khai  tại  địa  phương  cách nay 4 năm, nhưng chỉ tập trung tại một số  xã. Nghiên cứu này được  thực hiện nhằm xác  định tỷ lệ PTBCTC bất thường ở phụ nữ tại địa  phương này.  ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Nghiên  cứu  cắt  ngang  được  thực  hiện  từ  tháng 3 đến tháng 5 năm 2011 tại huyện Khánh  Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa.  Có 1176 phụ nữ được chọn vào nghiên cứu  theo phương pháp chọn mẫu cụm xác suất tỉ lệ  theo  cỡ  (PPS).  Đã  loại khỏi nghiên  cứu những  phụ nữ  đang mang  thai,  có quan hệ  tình dục,  thụt rửa âm đạo, đặt  thuốc âm đạo  trong vòng  24  giờ  trước  đó,  đang  ra  huyết  âm  đạo,  viêm  nhiễm đường sinh dục cấp, có bệnh  lý cấp cứu  sản phụ khoa hoặc đã mổ cắt tử cung hoàn toàn,  không đồng ý tham gia nghiên cứu. Sau khi ký  vào bảng đồng thuận tham gia nghiên cứu, đối  tượng  nghiên  cứu  được  phỏng  vấn  và  khám  phụ khoa, lấy mẫu PTBCTC theo phương pháp  cổ điển. Bệnh phẩm được cố định ngay và gửi  về khoa Giải phẫu bệnh, bệnh viện Hùng Vương  để  được  nhuộm  theo  phương  pháp  Papanicolaou, đọc và phân loại kết quả theo hệ  thống  Bethesda.  Những  trường  hợp  kết  quả  phết tế bào tử cung bất thường sẽ được báo  lại  cho địa phương và mời đối tượng đến bệnh viện  tỉnh để khám và điều trị tiếp.  Phân phối tần suất của các biến số định danh và  biến số  thứ  tự, các biến số định  lượng sẽ được  trình  bày  bằng  trung  bình  và  độ  lệch  chuẩn  trong kết quả mô tả đặc điểm dân số nghiên cứu  và  kết  quả  PTBCTC  bất  thường.  Sử  dụng  phương pháp phân  tích đơn biến để phát hiện  mối liên quan giữa các biến độc lập với PTBCTC  bất thường. Kiểm định bằng phép kiểm Chi bình  phương (2) và Fisher nếu n < 5.  KẾT QUẢ  Nghiên cứu được  thực hiện  trong  thời gian  từ tháng 3/2011 đến tháng 5/2011 tại 14 trạm y tế  xã, thị trấn của huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh  Hòa. 1176 đối tượng thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu  được chọn vào nghiên cứu.  Tuổi  trung  bình  của  đối  tượng  tham  gia  nghiên cứu là 33,8 ± 9,9. Nhóm tuổi từ 26 đến 35  chiếm tỷ lệ cao nhất (37,9%).  Số  lượng  phụ  nữ  người  dân  tộc  thiểu  số  chiếm  ưu  thế  với  tỷ  lệ  66,4%,  trong  đó,  tỷ  lệ  người Raglay cao nhất (44,7%).  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 3 Nhóm phụ nữ làm ruộng chiếm đa số trong  mẫu nghiên cứu với tỷ lệ 74,9%.  Có  0,9%  phụ  nữ  có  tiền  căn  gia  đình mắc  ung thư cổ tử cung.  Bảng 1. Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu  Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%) Nhóm tuổi (n = 1176) 18 – 25 285 24,2 26 – 35 446 37,9 36 – 45 270 23,0 46 – 60 175 14,9 Dân tộc (n = 1176) Kinh 395 33,6 Thiểu số 781 66,4 Raglay 526 44,7 Ê đê 99 8,4 T’rin 51 4,3 Nùng 49 4,2 Tày 48 4,1 Khác 8 0,7 Nghề nghiệp (n = 1176) Trí thức 111 9,4 Công nhân 37 3,2 Buôn bán 45 3,8 Nội trợ 102 8,7 Làm ruộng 881 74,9 Học vấn (n = 1176) Mù chữ 275 23,4 Cấp 1 331 28,1 Cấp 2 349 29,7 Cấp 3 143 12,2 Cao đẳng, đại học, sau đại học 78 6,6 Hút thuốc (n = 1176) Có 164 13,9 Không 1012 86,1 Tiền căn gia đình mắc ung thư cổ tử cung (n=1176) Có 11 0,9 Không 1165 99,1 Tuổi  quan  hệ  tình  dục  lần  đầu  trong mẫu  nghiên cứu thấp nhất là 14 và cao nhất là 39, giá  trị trung bình là 20,2 ± 3,8.  87 phụ nữ có  tiền căn ra huyết âm đạo sau  giao hợp, chiếm tỷ lệ 7,4%.  Số lần sanh trung bình: 2,6 ± 1,7. Người sanh  nhiều nhất là 12 lần. 468 phụ nữ sanh trên 2 lần,  chiếm tỷ lệ 39,8%.  Số bạn tình của đối tượng nghiên cứu nhiều  nhất là 5 người. 8,3% phụ nữ trong mẫu nghiên  cứu có từ 2 bạn tình trở lên.  79,9% số phụ nữ trong mẫu nghiên cứu đã  từng khám phụ khoa. 434 phụ nữ khám phụ  khoa  định  kỳ  6‐12  tháng/lần,  chiếm  tỷ  lệ  36,9%.  20,1%  phụ  nữ  chưa  từng  khám  phụ  khoa lần nào.  Bảng 2. Đặc điểm về tiền căn sản phụ khoa của đối  tượng nghiên cứu  Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%) Tình trạng hôn nhân (n=1176) Sống cùng chồng 1111 94,5 Góa, ly thân, ly dị 65 5,5 Tuổi quan hệ tình dục lần đầu (n=1176) < 18 193 16,4 ≥ 18 983 83,6 Ngừa thai (n=1176) Có 666 56,6 Không 510 43,4 Tiền căn ra huyết âm đạo sau giao hợp (n=1176) Có 87 7,4 Không 1089 92,6 Tuổi mang thai lần đầu(n=1155) < 18 114 9,9 ≥ 18 1041 90,1 Tuổi sanh lần đầu (n=1147) < 18 99 8,6 ≥ 18 1048 91,4 Số lần sanh (n=1176) 0 – 2 708 60,2 > 2 468 39,8 Số bạn tình của đối tượng nghiên cứu (n=1176) 1 1078 91,7 > 1 98 8,3 Số bạn tình của chồng đối tượng nghiên cứu (n=1176) 1 444 37,7 > 1 208 17,7 Không biết 495 42,1 Không có ý kiến 29 2,5 Từng khám phụ khoa (n=1176) Có 940 79,9 6 – 12 tháng/lần 434 36,9 ≥ 2 năm/lần hoặc có vấn đề 506 43,0 Không 236 20,1 Địa điểm khám phụ khoa (n=940) Trạm y tế xã 767 81,6 Bệnh viện huyện 48 5,1 Bệnh viện tuyến trên 89 9,5 Phòng khám tư 36 3,8 Từng được làm PTBCTC (n=1176) Có 390 33,1 PTBCTC gần nhất ≤ 1 năm 125 10,6 PTBCTC gần nhất > 1 năm 265 22,5 Không 786 66,9 Kết quả PTBCTC từng làm (n=390) Bình thường 390 100 Bất thường 0 0 Có  390  phụ  nữ  từng  được  làm  PTBCTC,  chiếm tỷ lệ 33,1% và tất cả đều có kết quả bình  thường. Trong số này, đa số phụ nữ có lần làm  PTBCTC cuối cùng cách đây hơn 1 năm (22,5%).  66,9% chưa từng được làm PTBCTC.  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 4 Bảng 3. Đặc điểm lâm sàng cổ tử cung  Đặc điểm lâm sàng cổ tử cung Tần số (n=1176) Tỷ lệ (%) Bình thường (trơn láng) 758 64,5 Có tổn thương 418 35,5 Lộ tuyến CTC 401 34,1 Polype CTC 6 0,5 Khác (CTC sùi, loét, chảy máu) 11 0,9 Tỷ  lệ phụ nữ có cổ  tử cung  trơn  láng  trong  nghiên cứu (64,5%) cao hơn tỷ lệ phụ nữ có cổ tử  cung có tổn thương (35,5%).  Bảng 4. Kết quả PTBCTC  Kết quả PTBCTC Tần số (n=1176) Tỷ lệ (%) Âm tính đối với tổn thương tân sinh trong biểu mô CTC và tổn thương ác tính 1174 99,8 Bình thường 189 16,1 Biến đổi tế bào do viêm 954 81,1 Teo đét 11 2,6 Bất thường tế bào biểu mô CTC 2 0,2 ASC-H 1 0,1 LSIL 1 0,1 Tỷ  lệ  PTBCTC  bất  thường  là  0,2%.  Có  1  trường hợp ASC‐H và 1  trường hợp LSIL, mỗi  trường hợp chiếm tỷ lệ 0,1%.  BÀN LUẬN  Nghiên  cứu  được  thực  hiện  trên  1176  phụ  nữ.  Kết  quả  có  2  trường  hợp  PTBCTC  bất  thường, chiếm  tỷ  lệ 0,2%,  trong đó có 1  trường  hợp ASC‐H và 1 trường hợp LSIL. Số lượng quá  nhỏ nên không thể thực hiện thống kê phân tích  và đưa ra kết luận về mối liên quan giữa một số  yếu tố và tỷ lệ PTBCTC bất thường.  Về đặc điểm của đối tượng nghiên cứu  Trong mẫu nghiên  cứu, phụ nữ  có  độ  tuổi  thấp nhất là 18, cao nhất là 60. Tuổi trung bình là  33,8 ± 9,9, nhỏ hơn so với tuổi trung bình trong  nghiên  cứu  của  Lê  Thị  Kim  Tuyến  tại  huyện  Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh là 38,7 (p >  0,05)(6). Nhóm tuổi 26‐35 chiếm tỷ lệ 37,9%, phù  hợp với nghiên  cứu  của Phạm Thị Ngọc Xuân  (35,8%)(11). Tuy nhiên,  trong nghiên cứu của  tác  giả này, nhóm tuổi 35 – 45 chiếm tỷ lệ cao nhất  (40,2%)  trong khi nhóm  tuổi này  trong nghiên  cứu của chúng tôi chỉ chiếm 23,0%. Lê Thị Kim  Tuyến cũng ghi nhận phụ nữ  trong nhóm  tuổi  36‐45  tham  gia nghiên  cứu  đông nhất  (32,2%).  Tỷ  lệ  phụ  nữ  trên  45  tuổi  được  chúng  tôi  ghi  nhận (14,9%) phù hợp với Phạm Thị Ngọc Xuân  (14,6%)  nhưng  thấp  hơn  so  với  Lê  Thị  Kim  Tuyến (27,7%). Có  lẽ vì thế kết quả phết  tế bào  bất  thường  của  chúng  tôi  thấp hơn  các  tác giả  trên do ung thư cổ tử cung thường gặp ở phụ nữ  lớn tuổi.  Về  thành  phần  dân  tộc,  trong  nghiên  cứu  này, phụ nữ dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ 66,4%,  cao hơn dân tộc Kinh (33,6%). Trong đó, phụ nữ  dân  tộc Raglay chiếm đa số  (44,7%). Các  thành  phần dân tộc thiểu số khác chỉ chiếm tỷ lệ dưới  10%.  Phân  bố  thành  phần  dân  tộc  trong mẫu  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  cũng  phù  hợp  với  phân bố dân  tộc chung của huyện Khánh Vĩnh  với 74,6% là đồng bào dân tộc thiểu số.   Về nghề nghiệp,  tỷ  lệ phụ nữ  làm ruộng  là  cao  nhất  trong mẫu  nghiên  cứu  (74,9%),  phù  hợp  với  phân  bố  thành  phần  nghề  nghiệp  tại  huyện Khánh Vĩnh với đa số là làm ruộng, tỷ lệ  phụ nữ nội trợ thấp (8,7%), tỷ lệ trí thức là 9,4%.  Nghiên cứu của chúng  tôi cũng có điểm  tương  đồng  về  thành  phần  nghề  nghiệp  với  nghiên  cứu  của Phạm Thị Ngọc Xuân  tại  các xã vùng  sâu huyện Thủ Thừa, Long An,  có  lẽ do 2  địa  điểm nghiên cứu có cùng đặc điểm địa lý, đều là  vùng sâu vùng xa, nơi điều kiện kinh tế còn thấp  và  nông  lâm  nghiệp  vẫn  là  nền  tảng.  Trong  nghiên  cứu  này,  tỷ  lệ  phụ  nữ  làm  ruộng  là  88,5%,  nội  trợ  chiếm  10,4%  và  chỉ  có  1,1%  là  công nhân viên(11). So với nghiên cứu của Lê Thị  Kim Tuyến(6)  tại huyện Bình Chánh  thành phố  Hồ Chí Minh với tỷ lệ nông dân là 14,5% trong  khi phụ nữ nội trợ chiếm tỷ  lệ khá cao (45,2%),  thành phần phụ nữ làm ruộng trong nghiên cứu  của  chúng  tôi  thấp hơn. Có  lẽ do Bình Chánh  tuy  trước  đây  là vùng  đất nông nghiệp nhưng  trong thời gian trở lại đây, quá trình đô thị hóa  đã  tiến  nhanh  làm  diện  tích  đất  nông  nghiệp  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 5 giảm dần và phụ nữ  tại đây không còn gắn bó  nhiều  với  công  việc  đồng  áng.  Trong  khi  đó  Khánh Vĩnh vẫn  là một huyện miền núi  thuần  nông, biểu hiện đô thị hóa tại đây vẫn còn ít và  hạn hẹp nên số lượng phụ nữ làm nông nghiệp  tại đây chiếm đa số cũng là điều dễ hiểu.  Nhóm phụ nữ có  trình độ học vấn cấp 1, 2  trong nghiên cứu chiếm tỷ lệ 67,8%. Nhóm phụ  nữ có trình độ cao đẳng, đại học, sau đại học chỉ  chiếm 6,6%. Đặc biệt, tỷ lệ phụ nữ mù chữ trong  nghiên cứu khá cao  (23,4%). So với nghiên cứu  của tác giả Huỳnh Văn Nhàn(4) tại Bù Đăng, Bình  Phước với 14,6% phụ nữ mù  chữ  thì  tỷ  lệ  của  chúng  tôi  cao  hơn  nhưng  không  có  ý  nghĩa  thống kê  (p > 0,05). Với nghiên  cứu  của Phạm  Thị Ngọc Xuân(11)  (15% phụ nữ mù chữ)  thì sự  khác biệt so với nghiên cứu của chúng tôi cũng  không có ý nghĩa (p > 0,05). Tỷ lệ mù chữ và cấp  1 được chúng tôi ghi nhận là 51,5%, tương đồng  với kết quả của Lê Thị Kim Tuyến (45,7%)(6). Học  vấn  thấp,  nghề  nghiệp  sẽ  ảnh  hưởng  đến  thu  nhập kinh  tế,  từ đó người phụ nữ  sẽ  ít  có hội  được chăm sóc y tế.  Về kết quả PTBCTC bất thường  Hai  trường hợp PTBCTC bất  thường  là ở 2  phụ  nữ  37  và  38  tuổi, dân  tộc Raglay  và Tày,  trình độ học vấn cấp 1 và 2, đều làm ruộng, từng  khám phụ khoa nhưng chưa được làm PTBCTC.  Như  vậy  nếu  chỉ  khám  phụ  khoa  đơn  thuần  không  được  làm  PTBCTC  sẽ  bỏ  sót  những  trường hợp tiền ung thư vì trong giai đoạn này  bệnh chưa có triệu chứng lâm sàng. Vì vậy thực  hiện PTBCTC  trong khám phụ khoa  là hết  sức  cần thiết.  So sánh kết quả PTBCTC trong nghiên cứu  của  chúng  tôi  và  các  nghiên  cứu  khác  trong  nước cho thấy tỷ lệ PTBCTC bất thường chúng  tôi ghi nhận  tại huyện Khánh Vĩnh  đều  thấp  hơn  so  với  các  tác  giả  khác.  Cụ  thể,  tỷ  lệ  PTBCTC  bất  thường  trong  nghiên  cứu  này  thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so với  tỷ  lệ của  tác giả Huỳnh Văn Nhàn  (2,2%) khi  nghiên  cứu  tại  huyện  Bù  Đăng,  tỉnh  Bình  Phước  năm  2002  trên  625  phụ  nữ(4),  tác  giả  Phạm Thị Ngọc Xuân (1,4%) ghi nhận trên 625  phụ  nữ  tại  huyện  Thủ  Thừa,  tỉnh  Long  An  năm  2005(11),  tác  giả  Phan  Hồng  Vân  (6,0%)  nghiên  cứu  năm  2007  trên  1126  phụ  nữ  tại  huyện  Hòa  Thành,  tỉnh  Tây Ninh(12),  tác  giả  Bùi Thị Hồng Nhu  (1,9%)  khảo  sát  trên  1615  phụ nữ quanh mãn kinh tại thành phố Hồ Chí  Minh năm 2008(1) và tác giả Lê Thị Kim Tuyến  (1,5%)  nghiên  cứu  tại  huyện  Bình  Chánh,  thành  phố Hồ Chí Minh  năm  2009  trên  1244  phụ nữ(6).  Các nghiên cứu khác tiến hành tại bệnh viện  hoặc phòng khám cũng cho  thấy  tỉ  lệ PTBCTC  bất  thường cao hơn so với kết quả nghiên cứu  của chúng tôi. Nghiên cứu năm 1998 của tác giả  Vũ Thị Nhung tại Phòng khám Phụ khoa bệnh  viện Hùng Vương ghi nhận  tỷ  lệ PTBCTC bất  thường  là 1,2%(15). Tác giả Vũ Bá Quyết nghiên  cứu tại Viện Bảo vệ bà mẹ trẻ em năm 1993 trên  10.000  phụ  nữ  báo  cáo  tỷ  lệ  bất  thường  là  1,4%(14). Tỷ lệ PTBCTC bất thường trong nghiên  cứu của chúng tôi thấp hơn các nghiên cứu này  có thể do các tác giả trên chọn vào mẫu những  phụ nữ  trong khoảng  tuổi rộng hơn,  từ 18 đến  84  tuổi.  Bên  cạnh  đó,  phụ  nữ  đến  khám  phụ  khoa tại bệnh viện thường vì những triệu chứng  bệnh lý hơn là vì lý do đến khám phụ khoa định  kỳ. Do vậy, tỷ lệ bất thường của các phết tế bào  có thể cao hơn nghiên cứu trong cộng đồng của  chúng tôi. Mặt khác, theo thời gian, các chương  trình tầm soát ung thư CTC đã được triển khai  rộng hơn và có hiệu quả hơn dẫn đến  tỷ  lệ bất  thường  ở  các  nghiên  cứu  trong  thời  gian  gần  đây có thể thấp hơn so với các nghiên cứu trước.  So  với  các  nghiên  cứu  nước  ngoài,  tỷ  lệ  PTBCTC  bất  thường  trong  nghiên  cứu  của  chúng tôi cũng thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p  < 0,05). Năm 2003,  Jamal  tiến hành một nghiên  cứu  với mẫu  khá  lớn  gồm  22.089  phụ  nữ  tại  vùng Tây Ả Rập Saudi thu được tỷ  lệ PTBCTC  bất  thường  là  1,6%(5). Nghiên  cứu  của  Fadwa  J.Altaf năm 2006 cũng tại Ả Rập Saudi trên 5132  phụ nữ cho thấy tỷ lệ PTBCTC khá cao là 4,7%(3).  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 6 Trong  2  trường  hợp  PTBCTC  bất  thường  được  ghi  nhận  trong  nghiên  cứu,  có  1  trường  hợp ASC‐H  (0,09%) và 1  trường hợp LSIL kèm  nhiễm HPV (0,09%). Tương tự tỷ lệ PTBCTC bất  thường nói chung, tỷ lệ LSIL của chúng tôi cũng  thấp hơn kết quả báo  cáo  của  các  tác giả khác  trong nước. Đặc biệt, các nghiên cứu khác không  thấy ghi nhận ASC‐H. Trong nghiên cứu của tác  giả Huỳnh Văn Nhàn,  tỷ  lệ ASCUS, AGUS  là  1,6%, LSIL và HSIL chiếm tỷ lệ lần lượt là 0,5%  và 0,2%(4). Phạm Thị Ngọc Xuân ghi nhận  tỷ  lệ  ASCUS, LSIL và HSIL  tại Thủ Thừa, Long An  năm 2006  lần  lượt  là 1,0%, 0,3% và 0,4%(11). Tác  giả Bùi Thị Hồng Nhu nghiên cứu trên các phụ  nữ quanh  tuổi mãn kinh  tại  thành phố Hồ Chí  Minh năm 2008 ghi nhận tỷ  lệ ASCUS, LSIL và  HSIL lần lượt là 1,1%, 0,3% và 0,4%(1). Tỷ lệ này  được Lê Thị Kim Tuyến báo cáo từ nghiên cứu  năm  2009  tại  Bình  Chánh,  thành  phố Hồ  Chí  Minh  là  0,8%,  0,3%  và  0,1%(6).  Tác  giả  Phan  Hồng Vân báo cáo nghiên cứu năm 2007 với tỷ  lệ ASCUS và AGUS khá cao (4,53%), tỷ  lệ LSIL  (1,24%)  cũng  cao  hơn  so  với  các  nghiên  cứu  khác(12). Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  chỉ  có  tổn  thương  trong biểu mô mức độ  thấp và ASC‐H,  không có tổn thương trong biểu mô mức độ cao  cũng như ung  thư  tế bào gai hay  tế bào  tuyến.  Do vậy kết quả này có sự khác biệt với kết quả  của các  tác giả  trên. Sự khác biệt này có  thể do  các  tác giả  trên  tiến hành nghiên  cứu  ở những  địa  phương  chưa  thực  hiện  tầm  soát  ung  thư  CTC. Tại huyện Khánh Vĩnh, chương trình tầm  soát  ung  thư  và  các  tổn  thương  tiền  ung  thư  CTC đã có hiệu quả tốt, góp phần làm giảm tỷ lệ  các tổn thương trong biểu mô CTC mức độ cao  cũng như ung thư CTC.  So sánh với các nghiên cứu nước ngoài, sự phân  bố  kết  quả  PTBCTC  bất  thường  trong  nghiên  cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của  tác giả Malkawi SR  trong gần 4 năm  tại Jordan  và  được  báo  cáo  năm  2004  với  tỷ  lệ  ASCUS,  AGUS  là 0,8% và LSIL  là 0,2%, không có HSIL  và ung thư CTC. Đây có thể là kết quả khả quan  của  việc  tầm  soát  ung  thư CTC  tại  đây(7). Các  nghiên cứu khác của Thistle PJ và Mohammad  Shoaib  Khan  lại  không  ghi  nhận  ASCUS  và  AGUS  nhưng  có HSIL  và  ung  thư  tế  bào  gai  CTC với tỷ lệ lần lượt là 3,6% và 2,0%(9,13). Riêng  trong  nghiên  cứu  của  Thistle(13)  ở  Zimbabwe  năm  1997,  tỷ  lệ  LSIL  rất  cao  (12%)  có  thể  do  Zimbabwe là một nước nghèo, đời sống kinh tế  xã hội còn ở mức thấp, đây là một yếu tố nguy  cơ  của  ung  thư  và  các  tổn  thương  tiền  ung  ở  CTC. Hơn nữa, nghiên cứu này được thực hiện  năm 1997, có thể vào thời điểm cách đây hơn 10  năm, chương trình tầm soát ung thư CTC tại đất  nước này còn hạn chế và chưa được quan  tâm  đúng mức.  KẾT LUẬN  Qua nghiên cứu cắt ngang trên 1176 phụ nữ  từ  18  đến  60  tuổi  tại  huyện Khánh Vĩnh,  tỉnh  Khánh Hòa,  chúng  tôi  đã  thu  được những kết  quả sau:  ‐ Tỷ lệ PTBCTC bất thường là 0,2%.  ‐  Có  2  trường  hợp  PTBCTC  bất  thường,  trong  đó  có  1  trường hợp ASC‐H và  1  trường  hợp LSIL  ‐ Nghiên cứu không xác định được mối liên  quan giữa  tuổi,  tuổi quan hệ  tình dục  lần  đầu,  tình  trạng  kinh  tế  xã  hội  và  tiền  căn  sản  phụ  khoa với  tỷ  lệ PTBCTC bất  thường vì số  lượng  mẫu  PTBCTC  bất  thường  thu  được  chỉ  có  2  trường hợp.  TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Bùi Thị Hồng Nhu (2008), Tầm soát ung thư cổ tử cung ở phụ nữ  quanh tuổi mãn kinh tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2003, Luận  văn Thạc sĩ y học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế, Trường  Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, tr. 1‐53.  2. Charles  R.B.B.,  Frank  W.L.,  Barbara  M.B,  William  N.P.H,  Douglas W.L.,  Roger  P.S.,  (2010),  “Cervical Neoplasia  and  Carcinoma”, Obstetrics and Gynecology, 6th Edition, Published  in collaboration with ACOG, Lippincott William & Wilkins,  pp375‐387.  3. Fadwa J.A., FRCPC, FIAC (2006), “Cervical cancer screening  with  pattern  of  Pap  smear  ‐ Review  of multicenter”,  Saudi  Med J 2006, Vol 10, pp.1498‐1502.  4. Huỳnh Văn Nhàn  (2002), Tầm  soát ung  thư cổ  tử cung  trong  cộng đồng dân cư huyện Bù Đăng tỉnh Bình Phước, Luận văn tốt  nghiệp Chuyên khoa  cấp  II, Bộ Giáo dục Đào  tạo, Bộ Y  tế,  Trường Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, tr. 1‐50.  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 7 5. Jamal, A.A., Al‐Maghrabi, J.A., (2003), “Profile of Pap smear  Cytology in the Western region of Saudi Arabia”, Saudi Med J  2003; 24, p. 1225‐1229.  6. Lê Thị Kim Tuyến (2008), Tỷ lệ phết tế bào cổ tử cung bất thường  và các yếu tố liên quan ở phụ nữ 18‐60 tuổi tại huyện Bình Chánh  năm 2008, Luận văn Thạc sĩ y học, Bộ Giáo dục Đào tạo, Bộ Y  tế, Trường Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, tr. 1‐54.  7. Malkawi, S.R., Abu Hazeem,R.M., Hajjat, B.M., et al,  (2004),  “Evaluation  of  cervical  smear  at  King  Hussein  Medical  Center, Jordan, over three and a half years”, La revue de sant  de la Mediterrane orientale, Vol 10, No. 4/5.  8. Manos M. M., Kinney W. K., Hurley L. B. et al, “Identifying  women with cervical neoplasia using HPV DNA  testing  for  equivocal Pap results”, JAMA 1999, 281(17), pp.1605‐1610.  9. Mohammad,S.K., et al, (2005), “Pap smear Screening for Pre‐ cancerous Conditions of the Cervical Cancerʺ, Pak J Med Res,  Vol 44, No.3.  10. Ostor, A.G., (1993), “Cervical Dysplasia and Invasive Cervical  Cancer”, Int J Gyne Path 1993 (12), pp.186‐192.  11. Phạm Thị Ngọc Xuân (2006), Tầm soát ung thư cổ tử cung ở phụ  nữ các xã vùng sâu huyện Thủ Thừa, Luận văn Thạc sĩ y học, Bộ  Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế, Trường Đại học Y Dược thành  phố Hồ Chí Minh, tr. 1‐49.  12. Phan Hồng Vân (2007), Tỷ lệ tổn thương tiền ung thư – ung thư  cổ  tử  cung  ở phụ nữ 25‐65  tuổi  tại huyện Hòa Thành  tỉnh Tây  Ninh, Luận văn Thạc sĩ Y học, Bộ Giáo dục Đào tạo, Bộ Y tế,  Trường Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, tr. 1‐50.  13. Thistle, P.J., Chirenje, Z.M, (1997), “Cervical cancer screening  in a rural population of Zimbabwe”, Cent Afr Med, 43 (9), pp.  246‐251.  14. Vũ Bá Quyết  (1993), Kết quả phát hiện ung  thư cổ  tử cung  bằng tế bào học ‐ soi cổ tử cung ‐ giải phẫu bệnh lý, Luận văn  tốt nghiệp bác sĩ chuyên khoa cấp II, Bộ Giáo dục và Đào tạo,  Trường Đại học Y khoa Hà Nội.  15. Vũ  Thị  Nhung,  Trần  Thị  Vân  Anh,  Trương  Công  Việt,  Nguyễn Trọng Hậu  (1998), “Phát hiện sớm  tổn  thương  tiền  ung thư tại phòng khám phụ khoa bệnh viện Hùng Vương”,  Số đặc biệt chuyên đề ung bướu học, Y học thành phố Hồ Chí  Minh, Trường Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, Phụ  bản 3, tập 2, tr.228‐234.  Ngày nhận bài báo      : 30/11/2013  Ngày phản biện nhận xét bài báo  : 02/12/2013  Ngày bài báo được đăng    : 05/01/2014 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfty_le_phet_te_bao_co_tu_cung_bat_thuong_va_cac_yeu_to_lien_q.pdf
Tài liệu liên quan