Việc di dời san hô cứng để phục hồi cho kết
quả khả quan về tỷ lệ sống (78,30%). Khu
vực Bãi Bấc san hô có tỷ lệ sống cao nhất là
85,54%, kế đến là Rạn Mè (84,40%). Hai
khu vực còn lại là Bãi Hương và Hòn Tai
có tỷ lệ sống của san hô thấp hơn 80,00%.
Tốc độ tăng trưởng trung bình nhanh nhất
thuộc về giống Montipora dạng phiến –
3,22 mm/tháng, kế đến là giống Acropora
dạng cành – 2,25 mm/tháng và chậm nhất là
Pachyseris dạng phiến – 1,64 mm/tháng.
Từ các kết quả trên, trong điều kiện không
có san hô cành thì các giống Montipora,
Pocillopora, Echinopora, Acropora dạng
phiến là lựa chọn tốt nhất cho việc phục hồi
san hô ở vùng biển Cù Lao Chàm.
Lời cảm ơn: Các tác giả chân thành cảm ơn
Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn đã
hỗ trợ kinh phí để thực hiện nội dung này.
Cảm ơn các đồng nghiệp ở Phòng Nguồn
lợi Thủy sinh – Viện Hải dương học và các
cán bộ của Ban Quản lý Khu bảo tồn biển
Cù Lao Chàm đã tạo mọi điều kiện thuận
lợi trong việc triển khai hoạt động phục hồi,
thu thập số liệu và góp ý chỉnh sửa báo cáo
này.
9 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 603 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỷ lệ sống và tăng trưởng của san hô thử nghiệm phục hồi ở khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm - Quảng Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
94
Tuyển Tập Nghiên Cứu Biển, 2015, tập 21, số 1: 94-102
TỶ LỆ SỐNG VÀ TĂNG TRƯỞNG CỦA SAN HÔ THỬ NGHIỆM PHỤC HỒI
Ở KHU BẢO TỒN BIỂN CÙ LAO CHÀM - QUẢNG NAM
Hứa Thái Tuyến1, Võ Sĩ Tuấn1, Phan Kim Hoàng1, Huỳnh Ngọc Diên2
1Viện Hải dương học, Viện Hàn lâm Khoa học & Công nghệ Việt Nam
2Ban Quản lý Khu Bảo tồn biển Cù Lao Chàm
Tóm tắt Phục hồi san hô cứng đã được tiến hành ở Cù Lao Chàm tại một số khu vực
suy thoái do tác động của bão lũ bất thường trong những năm gần đây. Thử
nghiệm phục hồi được thực hiện vào tháng 4 năm 2012 và sau đó tiến hành
kiểm tra vào các tháng 7 và 9 năm 2012, 4 và 8 năm 2013 ở 4 địa điểm Bãi
Bấc (2.778 tập đoàn dạng phiến), Bãi Hương (2.033 tập đoàn dạng phiến),
Rạn Mè (228 tập đoàn dạng cành) và Hòn Tai (342 tập đoàn dạng cành). Ở
khu vực Bãi Bấc, san hô phục hồi có tỷ lệ sống cao nhất là 85,54%, kế đến là
Rạn Mè (84,40%). Hai khu vực còn lại là Bãi Hương và Hòn Tai có tỷ lệ
sống của san hô thấp hơn 80,00%. Các loài được lựa chọn phục hồi là
Acropora sp., Echinopora sp., Montipora sp., Pachyseris spp. và Porites sp..
Tốc độ tăng trưởng trung bình nhanh nhất thuộc về giống Montipora
dạng phiến (3,22 mm/tháng), kế đến là giống Acropora dạng cành
(2,25 mm/tháng) và chậm nhất là Pachyseris dạng phiến (1,64 mm/tháng).
Khả năng phục hồi san hô ở khu vực Cù Lao Chàm là hoàn toàn có thể nếu
kiểm soát tốt địch hại và rong bám trên san hô.
SURVIVAL AND GROWTH RATE OF HARD CORALS REHABILITATED
IN CU LAO CHAM MARINE PROTECTED AREA, QUANG NAM PROVINCE
Hua Thai Tuyen1, Vo Si Tuan1, Phan Kim Hoang1, Huynh Ngoc Dien2
1Institute of Oceanography, Vietnam Academy of Science & Technology
2Management Board of Cu Lao Cham MPA
Abstract Rehabilitation of hard corals in Cu Lao Cham MPA was conducted during
2012 - 2013 in order to restore some reef areas degraded due to impacts of
typhoon and flooding in recent years. The rehabilitation had been practiced
since April 2012, using technique of coral fragment transplantation and
followed by monitoring of survival and growth rate of transplanted corals in
July, September 2012 and April, August 2013 at 4 sites (Bai Bac and Bai
Huong with 2,778 colonies and 2,033 colonies of foliose life form
respectively; Ran Me and Hon Tai with 228 colonies and 342 colonies of
branch corals respectively). The survival rate of transplanted corals is quite
good with high value in Bai Bac (85.58%) and Ran Me (84.40%) but a bit
lower in Bai Huong and Hon Tai (less than 80%). Among selected species,
foliose corals of Montipora genus had the fastest growth rate
(3.22 mm/month), followed by branch corals of Acropora (2.25 mm/month)
and foliose corals of Pachyseris (1.64 mm/month). The experiment indicated
that more extensive rehabilitation of hard corals can be done, considering
controls of coral predators and seaweed competition.
95
I. MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, hầu hết các rạn
san hô đều nằm trong tình trạng suy giảm
về độ phủ, diện tích phân bố cũng như việc
biến mất một cách báo động của các quần
thể sinh vật rạn, đặc biệt là những loài có
giá trị kinh tế cao. Có nhiều nguyên nhân
gây ra sự suy giảm này, song những tác
động này chủ yếu đều do các hoạt động của
con người. Theo những thống kê gần đây,
diện tích rạn san hô trên thế giới đã mất
khoảng 19% và khoảng 5% số rạn đang
trong tình trạng có chiều hướng suy thoái
nghiêm trọng và mất đi trong vòng 10 – 20
năm tới (Wilkinson, 2008). Trước thực
trạng suy giảm đáng báo động như trên,
nhiều quốc gia cố gắng tìm kiếm những giải
pháp thiết thực nhằm giảm thiểu tình trạng
suy thoái và cải thiện chất lượng hệ sinh
thái thông qua việc xây dựng các khu bảo
tồn biển, phục hồi quần cư và tái tạo nguồn
lợi sinh vật. Một trong những giải pháp đó
là tiến hành các hoạt động nghiên cứu cho
việc phục hồi rạn san hô với mục đích
nhằm giảm thiểu những tác động bất lợi đối
với rạn san hô, cải thiện các vùng rạn bằng
cách làm gia tăng độ phủ của san hô, gia
tăng giá bám bền vững cho san hô tái phục
hồi và tạo môi trường ổn định cho sự phát
triển của quần xã sinh vật rạn nhằm góp
phần bảo tồn đa dạng sinh học và phục hồi
nguồn lợi tự nhiên, đồng thời cải thiện chất
lượng hệ sinh thái rạn san hô (Aska, 1981;
D’itri, 1985; Nakamura và cs., 1991;
Seaman và Sprague, 1991; Maragos, 1992;
Jaap, 2000; Fox và cs., 2003).
Ở Việt Nam, các thử nghiệm về phục hồi
rạn san hô được Viện Hải dương học tiến
hành ở Côn Đảo năm 2001 trong khuôn khổ
của chương trình hợp tác với WWF; năm
2002 tại khu vực Rạn Trào (phối hợp với
Liên minh Sinh vật biển Quốc tế (MIA) có
sự tham gia của cộng đồng địa phương);
năm 2002 – 2004 ở Hòn Ngang – Bình
Định và vịnh Nha Trang (Nguyễn Tác An,
2006); năm 2005 ở Hòn Mây Rút Ngoài –
Phú Quốc thuộc dự án UNEP/GEF Biển
Đông đã cho một số kết quả nhất định.
Các thử nghiệm khác cũng được tiến hành
như xác định kích thước mảnh tập đoàn di
trồng dưới 50g là thích hợp (Nguyễn Tác
An, 2006) hay việc cắt từ 10 - 50% số
lượng cành trên một tập đoàn cho đều
không gây ảnh hưởng gì đến tốc độ sinh
trưởng và phát triển của các tập đoàn này
(Trong báo cáo tổng kết đề tài cơ sở về
“Đánh giá sự ảnh hưởng của việc cắt cành
các tập đoàn san hô trong quá trình phục
hồi rạn san hô” do Hoàng Xuân Bền chủ trì
thực hiện năm 2006). Nhằm phục vụ cho
phục hồi san hô ở vịnh Nha Trang, công
trình công bố của Titlyanov và cs. (2002)
đã nêu lên những yêu cầu về các yếu tố môi
trường trong điều kiện nuôi trồng san hô
nhân tạo như ánh sáng, nhiệt độ, độ muối,
muối dinh dưỡng, lượng trầm tích, cung cấp
khí, thức ăn cho san hô, nền đáy và về lựa
chọn kích thước san hô nuôi giữ. Viện
Nghiên cứu Hải sản Hải Phòng cũng đã thử
nghiệm nuôi san hô trong các điều kiện thí
nghiệm ở các độ muối và chế độ chiếu sáng
khác nhau đối với các loài Acropora
digitifera, A. hyacinthus, Porites rus,
Porites lutea, Pavona cactus, Pavona
decussata (Trong báo cáo Đề tài
DT.MT.2004.365 “Nghiên cứu kỹ thuật
nhân giống, trồng phục hồi một số loài san
hô và thả rạn nhân tạo tại Cát Bà do Đỗ
Văn Khương chủ trì thực hiện năm 2004).
Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm là một
trong những tiên phong trong hệ thống bảo
tồn biển Việt Nam. Đây cũng là vùng mà
hoạt động du lịch biển đang phát triển
mạnh, đồng thời áp lực lên các vùng rạn san
hô đang gia tăng do nhiều nguyên nhân.
Nghiên cứu năm 2008 cũng chỉ rõ sự suy
giảm độ phủ san hô cứng ở Cù Lao Chàm ở
một số khu vực mà nguyên nhân có thể là
do tác động của bão lũ bất thường vào năm
2006. Thực tế trên đây cho thấy sự cần thiết
phải tiến hành các giải pháp phục hồi san
hô cứng ở khu bảo tồn biển quan trọng này
nhằm hỗ trợ cho phục hồi đa dạng sinh học
và nguồn lợi rạn, đáp ứng nhu cầu bảo tồn
và sử dụng hợp lý tài nguyên. Xuất phát từ
nhu cầu trên, hoạt động phục hồi san hô
cứng đã được triển khai trong khuôn khổ
96
của đề tài “Nghiên cứu ứng dụng công nghệ
phục hồi san hô cứng ở một số khu bảo tồn
biển trọng điểm” do Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn phối hợp với Viện Hải
dương học thực hiện. Bài báo này cung cấp
một số dẫn liệu về tỷ lệ sống, tốc độ tăng
trưởng của một số giống loài san hô được
triển khai thực hiện ở Cù Lao Chàm nhằm
làm cơ sở cho việc mở rộng qui mô phục
hồi rạn san hô ở vùng biển này.
II. PHƯƠNG PHÁP
1. Lựa chọn địa điểm
Dựa trên kết quả khảo sát (Trong báo cáo
tổng kết đề tài “Đa dạng sinh học và chất
lượng môi trường Khu bảo tồn biển Cù Lao
Chàm: 2004 – 2008” do Nguyễn Văn Long
và cs. thực hiện năm 2008) kết hợp với
tham vấn ngư dân và Ban Quản lý Cù Lao
Chàm, hai khu vực Bãi Bấc và Bãi Hương
(Hình 1) được lựa chọn để phục hồi san hô
với các tiêu chí là có độ phủ san hô tương
đối thấp (khoảng 15% ở Bãi Bấc và 5% ở
Bãi Hương). Một điều thuận lợi là hai khu
vực này nằm trong phạm vi bảo vệ nghiêm
ngặt của khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm
với các đặc điểm là ít chịu tác động của
nước ngọt và sóng gió trong mùa mưa bão
và độ sâu từ 2 – 6m sâu. Nền đáy đá tảng và
san hô khối chết thuận lợi cho việc phục hồi
san hô dạng phiến. Hai điểm rạn khác là
Rạn Mè và Hòn Tai là hai khu vực có độ
phủ san hô tương đối thấp với nền rạn hẹp
và phía ngoài là cát thuận lợi cho việc thiết
lập các giá thể nhân tạo là khung nhựa để
phục hồi san hô dạng bàn, cành. Nước ở hai
khu vực này trong hơn và độ sâu lớn hơn so
với hai khu vực Bãi Bấc và Bãi Hương, ít
chịu tác động của nước ngọt và sóng gió
trong mùa mưa bão. Để tạo nguồn cho phục
hồi tại hai khu vực trên, Rạn Mè và Hòn
Tai được lựa chọn làm vườn ươm.
Khu vực rạn cho là Hòn Lá đáp ứng đầy
đủ các tiêu chí là có độ phủ san hô dạng
phiến tương đối cao, không quá xa so với
khu vực phục hồi, độ sâu phân bố san hô
cũng tương đương với độ sâu của khu vực
phục hồi. Riêng khu vực Vũng Nhàn tuy độ
phủ san hô dạng cành, bàn thấp nhưng do
sự hiếm gặp của san hô dạng cành, bàn ở
vùng biển Cù Lao Chàm nên việc thu mảnh
tập đoàn san hô dạng cành ở vùng này để
phục hồi là cần thiết.
Hình 1. Sơ đồ khu vực lấy giống () và phục hồi san hô (•)
Fig. 1. Map showing the sites of fragment collection () and rehabilitation (•)
97
2. Số lượng tập đoàn và kỹ thuật
phục hồi
Tổng số 5.381 tập đoàn dạng cành và phiến
(Bảng 1) được phục hồi vào tháng 4 năm
2012 bằng phương pháp di dời san hô theo
hướng dẫn phục hồi của Heeger &
Sotto (2000). Các loài được lựa chọn phục
hồi gồm Acropora sp., Montipora spp.,
Porites sp. dạng cành, Pachyseris spp. và
Pocillopora sp. dạng phiến. Tiến hành cắt
các tập đoàn san hô tại vùng cho (Hòn Lá)
là nơi san hô có độ phủ cao. Tùy theo dạng
tập đoàn và mức độ cần phải cắt, dùng kìm,
kéo cắt, búa cắt nhẹ các tập đoàn để tránh
ảnh hưởng đến các tập đoàn khác cũng như
tránh sự gãy vụn của tập đoàn cần di dời,
đặt tập đoàn đã cắt vào các rổ nhựa lớn rồi
vận chuyển lên tàu và lưu trữ tạm thời trong
các xô nhựa lớn đổ đầy nước và sục ôxi để
vận chuyển đến vị trí phục hồi, trong quá
trình vận chuyển thay đổi nước thường
xuyên. Đến vị trí phục hồi, các mảnh tập
đoàn san hô được cố định trên các giá thể là
nền đáy rắn (thềm san hô chết...) với
khoảng cách trung bình giữa các tập đoàn
0,5 – 1,5m với cách gắn phần lớn nhất của
mảnh san hô tiếp xúc với bề mặt giá thể,
khi mảnh ở vị trí thẳng đứng hầu hết các
polyp hướng lên trên.
Bảng 1. Số lượng, dạng tập đoàn san hô ở các địa điểm phục hồi
Table 1. Number of colony fragments, lifeform categories of rehabitated corals
Địa điểm Số lượng tập đoàn Dạng tập đoàn
Bãi Bấc 2.778 Phiến
Bãi Hương 2.033 Phiến
Rạn Mè 228 Cành
Hòn Tai 342 Cành
Tổng 5.381
San hô dạng phiến được cố định bằng
cách đóng 2 đinh sắt xuống nền rạn san hô
chết và đặt mảnh san hô vào giữa, dùng dây
rút nhựa siết chặt lại (Hình 2). Các mảnh
tập đoàn san hô dạng bàn và bán khối sẽ
được đặt trong các ống nhựa, cũng do kích
thước các tập đoàn san hô quá nhỏ nên
dùng dây buộc cố định mảnh tập đoàn bên
ngoài ống, sau đó đem xuống cắm vào các
ống nối (Hình 3) trên giá thể là các khung
nhựa PVC kích thước 1 m2 được cố định
xuống nền đáy bằng các cọc sắt.
Hình 2. Cố định mảnh tập đoàn san hô trên nền
tự nhiên ở Bãi Bấc và Bãi Hương
Fig. 2. Fixation of colony fragments
on coral rocks at Bai Bac and Bai Huong
Hình 3. Cố định mảnh tập đoàn san hô trong
giá thể khung nhựa ở Hòn Tai và Rạn Mè
Fig. 3. Fixation of colony fragments
on PVC quadrats at Hon Tai and Ran Me
98
3. Theo dõi sự phát triển san hô trong
quá trình phục hồi
3.1. Theo dõi tỷ lệ sống:
Trong từng đợt khảo sát, các chuyên gia sẽ
đếm số lượng các tập đoàn san hô sống và
chết bắt gặp trên từng loại giá thể nhân tạo
và tự nhiên theo thang bậc sống 100%, sống
75%, sống 50%, sống 25% và chết 100%.
Sau đó tính toán % tỷ lệ sống theo công
thức: % Sống = (N1/N0)x100
Trong đó: N0 là số lượng tập đoàn san hô
trên giá thể (sống và chết), N1 là số lượng
san hô sống theo thời gian kiểm tra.
3.2. Theo dõi tốc độ tăng trưởng:
Tỷ lệ tăng trưởng được tiến hành theo dõi
trên giá thể nhân tạo và trên nền đáy tự
nhiên. Sử dụng phương pháp buộc thẻ có kí
hiệu trên các tập đoàn san hô đã cố định,
một cách ngẫu nhiên và phân bố đều khắp
tập đoàn; Sau khi đeo thẻ, tiến hành đo
chiều dài (dùng thước nhựa có chia vạch
theo đơn vị milimet) từ vòng đeo thẻ đến
điểm mút xa cuối cùng (L1). Tốc độ tăng
trưởng được xác định theo công thức:
L0 = (L2 – L1)/ (t2 - t1)
Trong đó: (L2 – L1) chênh lệch kích
thước giữa 2 lần kiểm tra (mm) và (t2 - t1)
thời gian giữa 2 lần kiểm tra (tháng). Tiến
hành kiểm tra vào các tháng 7 và 9 năm
2012, 4 và 8 năm 2013.
Các phân tích và so sánh thống kê được
thực hiện bằng ANOVA một nhân tố ở mức
tin cậy 95%.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
1. Tỷ lệ sống của san hô phục hồi
Tỷ lệ sống trung bình (sống 25 – 100%) đạt
78,30% cho toàn khu vực phục hồi (bao
gồm phục hồi trên nền rạn tự nhiên và
khung nhựa). San hô phục hồi tại khu vực
Bãi Bấc có tỷ lệ sống cao nhất (85,54%), kế
đến là Rạn Mè (84,40%). Hai khu vực còn
lại là Bãi Hương và Hòn Tai có tỷ lệ sống
của san hô phục hồi thấp hơn 80,00%. Xét
theo thời gian, có thể thấy rằng tỷ lệ sống
của san hô phục hồi có xu hướng giảm dần
ở tất cả các khu vực. Ở hai khu phục hồi
trên nền đáy tự nhiên (Bãi Bấc và Bãi
Hương) tỷ lệ sống của san hô ít có sự thay
đổi trong khi ở khu vực phục hồi trên khung
nhựa (Rạn Mè và Hòn Tai) tỷ lệ sống của
san hô giảm mạnh (Hình 4).
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Bãi Bấc Bãi Hương Hòn Tai Rạn Mè Trung bình
7/ 2012 9/ 2012 4/ 2013 8/2013
Hình 4. Tỷ lệ sống trung bình (%) của san hô ở các khu vực
Fig. 4. The average survival rate (%) of rehabilitated corals
So với kết quả thử nghiệm phục hồi san
hô ở vùng đảo Cô Tô, Hòn Ngang Bình
Định và trong phòng thí nghiệm ở Viện Hải
dương học thì tỷ lệ sống của san hô ở Cù
Lao Chàm thấp hơn nhiều (Bảng 2). Ở điều
kiện phòng thí nghiệm, có thể khẳng định
sự thay đổi nhiệt độ là nguyên nhân gây
chết san hô (Nguyễn Xuân Hòa và Võ Sĩ
Tuấn, 2011). Ở các thử nghiệm phục hồi
san hô tại Bình Định và Hòn Ngang, các
99
yếu tố gây chết cho san hô phục hồi không
được đề cập trong khi ở Cù Lao Chàm
nguyên nhân gây chết là sao biển gai và
rong biển. Cụ thể ở Hòn Tai san hô chết do
bị sao biển gai ăn (Hình 5) hay bị rong bám
như ở khu vực Rạn Mè (Hình 6). Vào đợt
kiểm tra tháng 8/2013 thì ở khu vực Hòn
Tai số lượng tập đoàn san hô sống 100%
chỉ còn lại khoảng 40% tổng số tập đoàn
được cấy. Mặc dù đã có một đợt bắt sao
biển gai vào tháng 6/2013 nhưng các tập
đoàn san hô bị ăn không có khả năng phục
hồi lại được.
Nếu xét riêng những tập đoàn san hô
sống 100% thì tỷ lệ sống của san hô thấp
hơn (Hình 7). Ở đợt kiểm tra vào tháng
9/2012 có rất ít tập đoàn san hô bị chết 1
phần nhưng đến tháng 4/2013 thì số lượng
các tập đoàn san hô bị chết một phần (25 –
75%) tăng lên.
Bảng 2. Tỷ lệ sống của san hô phục hồi ở các vùng khác nhau
Table 2. Comparison of the average survival rate (%) of corals in different regions
Khu vực Địa điểm Tỷ lệ sống (%) Nguồn tài liệu
Cù Lao Chàm Bãi Bấc 85,54 Trong nghiên cứu này
Bãi Hương 79,84
Hòn Tai 75,20
Rạn Mè 84,39
Cô Tô Đặng Văn Châu 87,75 Nguyễn Đức Cự
và cs., 2011 Khe Con 93,30
Khe Trâu 70,00 – 82,15
Bình Định Tây Hòn Ngang 88,60 – 89,30 Võ Sĩ Tuấn
và cs., 2009 Nam Hòn Ngang 74,30 – 96,2
Phòng thí
nghiệm Viện
Hải dương học
Trong phòng thí nghiệm có khống
chế nhiệt độ (<29oC)
100,00 Nguyễn Xuân Hòa và
Võ Sĩ Tuấn, 2011
Trong phòng thí nghiệm không
khống chế nhiệt độ
86,66 – 100,00
Hình 5. Sao biển gai ăn san hô
ở khu vực Hòn Tai
Fig. 5. Coral eaten by Crown of thorn
in Hon Tai
Hình 6. San hô bị phủ rong
ở khu vực Rạn Mè
Fig. 6. Coral covered by seaweeds
in Ran Me
100
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Bãi Bấc Bãi Hương Hòn Tai Rạn Mè Trung bình
9/ 2012 4/ 2013 8/ 2013
Hình 7. Tỷ lệ sống trung bình (%) của san hô ở các khu vực
Fig. 7. The average survival rate (%) of rehabilitated corals
2. Tốc độ tăng trưởng
Tốc độ tăng trưởng trung bình của san hô
phục hồi đạt 2,11 mm/tháng (Bảng 3). San
hô ở khu vực phục hồi trên khung nhựa
(Hòn Tai và Rạn Mè) có tốc độ tăng trưởng
nhanh hơn so với san hô phục hồi trên nền
đáy tự nhiên ở Bãi Bấc và Bãi Hương (2,77
mm/tháng so với 1,88 mm/tháng). Tuy
nhiên kết quả kiểm định (phân tích Anova 1
nhân tố) cho thấy sự sai khác không có ý
nghĩa ở 2 giai đoạn từ tháng 4 – 9/2012 và
tháng 9/2012 – 4/2013 với giá trị lần lượt là
0,20 < 2,71 và 1,23 < 2,76 ở P=95%. Sự
khác biệt có ý nghĩa ở giai đoạn từ tháng 4
– 8/2013 với 3,09 > 2,82 ở mức P = 95%.
Xu thế tương tự cũng thể hiện trong thử
nghiệm phục hồi ở vùng đảo Cô Tô
(Nguyễn Đức Cự và cs., 2011) trên 2 dạng
giá thể nhân tạo (bồn bê tông) và nền đáy tự
nhiên (lần lượt là 1,70 và 1,50 mm/tháng).
Có thể cho rằng tốc độ tăng trưởng phụ
thuộc vào dạng san hô. Ở khu Hòn Tai và
Rạn Mè san hô chủ yếu là dạng bàn trong
khi ở hai khu vực phục hồi tự nhiên san hô
chủ yếu ở dạng phiến. Kiểm định tương tự
cho 2 dạng san hô cho thấy sự khác biệt
không có ý nghĩa ở 2 giai đoạn tháng 4 –
9/2012 và tháng 9 – 4/2013 với các giá trị
lần lượt là 0,36 < 3,95 và 3,17 < 3,40 và có
ý nghĩa ở giai đoạn tháng 4 – 8/2013 với
giá trị 6,39 > 4,06 ở mức tin cậy 95%.
Trong tổng số 161 tập đoàn thuộc 8
giống san hô được theo dõi tốc độ tăng
trưởng (Bảng 4), có 3 giống có số lượng
nhiều là Acropora, Montipora và
Pachyseris. Tốc độ tăng trưởng trung bình
nhanh nhất thuộc về giống Montipora dạng
phiến (3,22 mm/tháng), kế đến là giống
Acropora dạng cành (2,25 mm/tháng) và
chậm nhất là Pachyseris dạng phiến (1,64
mm/tháng). Tuy nhiên, kết quả kiểm định
cho thấy không có sự sai khác về tốc độ
tăng trưởng của các giống trong các giai
đoạn tăng trưởng (lần lượt là 0,76 < 3,11;
1,77 < 3,17 và 1,22 < 3,23) ở mức tin cậy
95%.
Bảng 3. Tốc độ tăng trưởng trung bình (mm/tháng) của san hô ở các khu vực
Table 3. The average growth rate (mm/month) of rehabilitated corals
Địa điểm T4 – 9/2012 T9 – 4/2013 T4 – 8/2013 Trung bình
Bãi Bấc 3,04 ± 2,84 1,86 ± 0,25 1,58 ± 2,58 2,16
Bãi Hương 2,59 ± 3,39 1,52 ± 0,95 0,58 ± 2,79 1,56
Hòn Tai 2,29 ± 1,57 2,42 ± 1,75 2,54 ± 4,43 2,42
Rạn Mè 2,45 ± 2,96 2,08 ± 1,91 4,88 ± 1,15 3,14
Trung bình 2,55 ± 2,82 1,93 ± 1,51 1,84 ± 3,43 2,11
101
Bảng 4. Tốc độ tăng trưởng trung bình (mm/tháng) của các loài san hô phục hồi
Table 4. The average growth rate (mm/month) of rehabilitated corals
Giống san hô
Số lượng
tập đoàn
Giai đoạn Trung
bình/tháng T4 – 9/2012 T9 – 4/2013 T4 – 8/2013
Acropora sp. 56 2,45 ± 2,71 1,96 ± 2,30 2,34 ± 2,25 2,25
Montipora sp. 38 3,55 ± 2,21 3,40 ± 1,72 2,70 ± 2,85 3,22
Pachyseris sp. 58 2,22 ± 3,57 1,55 ± 0,92 1,17 ± 2,90 1,64
Porites sp. 9 1,15 ± 0,93 2,45 ± 0,93 - 1,80
So với kết quả thử nghiệm của Nguyễn
Đức Cự và cs. (2011) ở vùng đảo Cô Tô thì
san hô dạng phiến ở Cù Lao Chàm có tốc
độ tăng trưởng trung bình chậm hơn (0,83 –
1,64 so với 1,92 – 2,02).
Từ các kết quả trên, có thể cho rằng tỷ lệ
sống của san hô bị ảnh hưởng bởi các nhân
tố môi trường như địch hại là sao biển gai
hay sự phát triển của rong bám trên các tập
đoàn san hô và gây chết san hô. Kết quả
kiểm định cho thấy tốc độ tăng trưởng của
san hô không có sự khác biệt giữa các khu
vực cũng như giữa các giống san hô khác
nhau. Một yếu tố tác động từ hoạt động con
người là việc xây dựng các công trình ven
biển đã thải một lượng lớn trầm tích làm gia
tăng độ đục và hạn chế độ xuyên của ánh
sáng. Sự lắng xuống của chúng có thể giết
chết các sinh vật như san hô bằng cách
chôn vùi chúng hoặc làm nghẹt các polyp
không có khả năng đẩy chúng ra đủ nhanh
(Võ Sĩ Tuấn và cs., 2005). Sự phát tán vật
chất lơ lửng từ hoạt động xây dựng cảng
được ghi nhận ở Bãi Hương nhưng chưa có
số liệu đánh giá.
Với tỷ lệ sống trên 75% và tốc độ tăng
trưởng trung bình đạt 2,11 mm/tháng, có
thể cho rằng khả năng phục hồi nhân tạo
san hô qui mô nhỏ ở Cù Lao Chàm là hoàn
toàn có thể thực hiện được nếu kiểm soát
được các tác nhân như sao biển gai hay
rong phủ trên rạn san hô. Việc giảm tác
động từ tự nhiên có thể khắc phục bằng các
biện pháp như thường xuyên kiểm tra theo
dõi bắt sao biển gai và làm vệ sinh để tránh
rong bám vào san hô, gia cố lại các giá thể
để tăng sự ổn định của san hô giúp chúng
phát triển tốt hơn. Các tác động từ con
người cũng có thể giảm thiểu bằng cách thi
công các công trình dân sinh trong mùa khô
để tránh một lượng lớn trầm tích theo nước
mưa đổ xuống khu vực phục hồi; cần có các
hướng dẫn và cam kết từ các công ty du
lịch để tránh việc du khách dẫm đạp hay bẻ
san hô cũng như bắt các sinh vật biển.
IV. KẾT LUẬN
Việc di dời san hô cứng để phục hồi cho kết
quả khả quan về tỷ lệ sống (78,30%). Khu
vực Bãi Bấc san hô có tỷ lệ sống cao nhất là
85,54%, kế đến là Rạn Mè (84,40%). Hai
khu vực còn lại là Bãi Hương và Hòn Tai
có tỷ lệ sống của san hô thấp hơn 80,00%.
Tốc độ tăng trưởng trung bình nhanh nhất
thuộc về giống Montipora dạng phiến –
3,22 mm/tháng, kế đến là giống Acropora
dạng cành – 2,25 mm/tháng và chậm nhất là
Pachyseris dạng phiến – 1,64 mm/tháng.
Từ các kết quả trên, trong điều kiện không
có san hô cành thì các giống Montipora,
Pocillopora, Echinopora, Acropora dạng
phiến là lựa chọn tốt nhất cho việc phục hồi
san hô ở vùng biển Cù Lao Chàm.
Lời cảm ơn: Các tác giả chân thành cảm ơn
Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn đã
hỗ trợ kinh phí để thực hiện nội dung này.
Cảm ơn các đồng nghiệp ở Phòng Nguồn
lợi Thủy sinh – Viện Hải dương học và các
cán bộ của Ban Quản lý Khu bảo tồn biển
Cù Lao Chàm đã tạo mọi điều kiện thuận
lợi trong việc triển khai hoạt động phục hồi,
thu thập số liệu và góp ý chỉnh sửa báo cáo
này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Aska D. Y. (ed.), 1981. Artificial reefs:
conference proceedings. Florida Sea
Grant College, Report No. 41. 229p.
102
D’itri F. M. (ed.), 1985. Artificial reefs:
marine and freshwater applications.
Lewis Publishers, Michigan. 589p.
Fox H. E., P. J. Mous, A. Muljadi,
Purwanto and J. S. Pet, 2003. Enhancing
reef recovery in Komodo National Park,
Indonesia: coral reef rehabilitation at
ecologically significant scales. Report
from The Nature Conservancy,
Southeast Asia Center for Marine
Protected Areas in collaboration with
Komodo National Park Authority. 19p.
Heeger T. and F. Sotto, 2000. Coral
farming. A tool for Reef Rehabilitation
and Community Ecotourism, 98pp.
Jaap W. C., 2000. Coral reef restoration.
Environ. Eng., 15: 345-364.
Maragos J. E., 1992. Restoring coral reefs
with emphasis on Pacific reefs. In:
Thayer GW (ed) Restoring the nation’s
marine environment. Maryland Sea
Grant College (UMSG- TS-92-06), pp.
141-221.
Nakamura M., R. S. Grove, C. J. Sonu
(Eds), 1991. Recent advances in aquatic
habitat technology. Proceedings of the
JAPANU. S. Symposium on Artificial
Habitats for Fisheries, June 11-13, 1991,
Tokyo. Southern California Edison
Company, Environmental Research
Report Series 91-RD-19.
Nguyễn Đức Cự, Nguyễn Đăng Ngãi, Đào
Thị Ánh Tuyết, Nguyễn Văn Thảo,
Nguyễn Xuân Thành, Nguyễn Đức Toàn
và Đoàn Thị Nhinh, 2011. Một số kết
quả thực nghiệm trồng phục hồi san hô
tại quần đảo Cô Tô dựa vào cộng đồng.
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển.
Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
T. 11 (Số 1): 85 – 95.
Nguyễn Tác An, 2006. Nghiên cứu giải
pháp bảo vệ, phục hồi các hệ sinh thái
rạn san hô, cỏ biển và khắc phục ô
nhiễm môi trường biển tự sinh. Mã số
KC.09-07. Tuyển tập các kết quả chủ
yếu của chương trình “Điều tra cơ bản
và nghiên cứu ứng dụng công nghệ biển.
Mã số: KC.09. Quyển II (Từ đề tài
KC.09-07 đến đề tài KC.09-12). Bộ
Khoa học và Công nghệ. Tr. 1 – 105.
Nguyễn Xuân Hòa, Võ Sĩ Tuấn, 2011. Ảnh
hưởng của nhiệt độ và bổ sung thức ăn
đối với san hô nuôi giữ trong điều kiện
phòng thí nghiệm. Hội nghị Khoa học và
Công nghệ biển toàn quốc lần thứ V.
Quyển 4: Sinh học và nguồn lợi sinh vật
biển. Nhà Xuất bản Khoa học tự nhiên
và Công nghệ, tr. 351 – 358.
Seaman Jr. W., L. M. Sprague (eds), 1991.
Artificial habitats for marine and
freshwater fisheries. Academic Press,
California, 285p.
Titlyanov E. A., Vo Si Tuan, T. V.
Tytlianova, 2002. On long-term
maintenance and cultivation of
hermatypic corals under artificial
condition. Collection of Marine
Research Works, vol. XII: 215 – 232.
Võ Sĩ Tuấn (chủ biên), Nguyễn Huy Yết &
Nguyễn Văn Long, 2005. Hệ sinh thái
rạn san hô biển Việt Nam. Nhà xuất bản
Khoa học và Kỹ thuật, Chi nhánh TP.
Hồ Chí Minh, 212 trang.
Võ Sĩ Tuấn, Nguyễn Xuân Hòa, Phan Kim
Hoàng và Hoàng Xuân Bền, 2009. Phục
hồi và bảo tồn rạn san hô ở Nam vịnh
Quy Nhơn (Bình Định). Tạp chí Khoa
học và Công nghệ biển, tập 9, số 2, tr. 35
– 49.
Wilkinson C., 2008. Status of coral reef of
the world: 2008. Global Coral Reef
Monitoring Network and Reef and
Rainforest Research Centre, Townsville,
Australia, 296p.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12_huathaituyen_trang94_102_6141_2070874.pdf