Tỷ lệ tăng huyết áp và những hành vi nguy cơ ở người 25‐64 tuổi tại huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận năm2012

Tỷ lệ ăn rau quả ≥5 suất/ ngày còn quá thấp, có thể do Ninh Hải không có kinh tế vườn. Gần 1/3 dân số chung, và ở cả hai nhóm nam nữ, có hành vi ăn mặn. Địa điểm nghiên cứu là một vùng nông thôn gần biển, lao động chủ yếu sử dụng cơ bắp cho công việc hàng ngày nên có thói quen ăn mặn từ các loại mắm chế biến ở vùng nông thôn (như mắm nêm, mắm chưng, cá khô, cá kho mặn) để bù lại lượng muối mất trong lao động. Tỷ lệ có ăn mặn là cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ tương ứng ở dân số cùng nhóm tuổi tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2005(6). Sai lệch thông tin có khả năng đã xảy ra với những câu hỏi phỏng vấn về thói quen ăn rau quả và ăn mặn. Đối tượng nghiên cứu khó có thể trả lời chính xác những câu hỏi như “ ăn bao nhiêu suất trái cây trong một ngày”, hoặc “ ăn bao nhiêu suất rau củ trong một ngày”, hoặc “Trong một tuần bình thường, có bao nhiêu ngày Ông/Bà ăn món mặn (đồ kho, ram, xào mặn)?”, hoặc “Ông/Bà có bị mọi người cho là ăn mặn hơn những người khác trong gia đình Ông/Bà không?” Sử dụng chất béo động vật trong chế biến thức ăn là hiếm trong dân số nghiên cứu, có thể do sở thích ẩm thực của người dân vùng nông thôn chỉ thích ăn uống do tự mình chế biến cho cả gia đình vừa phù hợp với điều kiện kinh tế, vừa phù hợp với những vùng nông thôn ít hàng quán nên chủ yếu dùng chất béo từ dầu thực vật. Ngoài ra giá thành của dầu thực vật công nghiệp là thấp cũng khiến cho đa số người dân lựa chọn dầu thực vật. Đây là một hành vi tốt duy nhất được ghi nhận ở dân số nghiên cứu. Tỷ lệ ít vận động thể lực là rất cao trong dân số nghiên cứu, đặc biệt hơn 1/3 ở nữ giới, có thể vì tỷ lệ lao động chân tay ở nữ, 41%, là thấp hơn nhiều so với tỷ lệ tương ứng ở nam, 69%. Tuy nhiên, tỷ lệ 68% dân số ít vận động thể lực có vẻ không phù hợp khi hơn phân nửa dân số nghiên cứu là lao động chân tay. Sai lệch thông tin có thể xảy ra với những câu hỏi về vận động thể lực khá phức tạp đòi hỏi người được phỏng vấn phải suy nghĩ để có trả lời chính xác(9).

pdf8 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 140 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỷ lệ tăng huyết áp và những hành vi nguy cơ ở người 25‐64 tuổi tại huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận năm2012, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 708 TỶ LỆ TĂNG HUYẾT ÁP VÀ NHỮNG HÀNH VI NGUY CƠ   Ở NGƯỜI 25‐64 TUỔI TẠI HUYỆN NINH HẢI, TỈNH NINH THUẬN NĂM 2012  Trần Văn Hương* , Nguyễn Đỗ Nguyên**  TÓM TẮT  Đặt vấn  đề: Ở những bệnh nhân đến khám và điều trị tại bệnh viện huyện Ninh Hải tỉnh Ninh Thuận  trong các năm qua,tăng huyết áp có chiều hướng gia tăng, nhưng điều này chưa hẳn đã phản ánh được tỷ lệ hiện  mắc của tăng huyết áp ở cộng đồng. Ngoài ra chưa có một khảo sát nào về các hành vi nguy cơ của tăng huyết áp  ở người dân Ninh Hải.  Mục  tiêuXác định  tỷ  lệtăng huyết áp và  tỷ  lệ những hành vi nguy cơ  liên quan ở người 25‐64  tuổi  tại  huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận, năm 2012.  Phương pháp: Một nghiên cứu cắt ngang mô tả được tiến hành ở 872 người dân 25‐64 tuổi.Tăng huyết áp  được định nghĩa làhuyết áp tâm thu lớn hơn hay bằng 140 mmHg hoặc/vàhuyết áp tâm trương lớn hơn hay bằng  90 mmHg. Bộ câu hỏi phỏng vấn được dựa theo bộ câu hỏi khảo sát STEPs về những bệnh không lây của Tổ  Chức Y Tế Thế Giới. Những biến số hành vi gồm hút thuốc lá, sử dụng rượu bia, ăn rau quả, sử dụng chất béo  động vật trong nấu ăn, ăn mặn, và vận động thể lực. Dữ kiện được phân tích bằng phần mềm STATA 11.0, với  phương pháp svy cho khảo sát mẫu cụm.  Kết quả: Dựa vào trị số huyết áp đo ở thời điểm nghiên cứu, có 15% dân số là tăng huyết áp, nhưng nếu  tính luôn những người đã được chẩn đoán tang huyết áp trước đó mà ở thời điểm nghiên cứu có huyết áp bình  thường thì tỷ lệ tăng huyết áp là 20%. Tỷ lệ béo phì chung trong dân số là 10%. Tỷ lệ đang có hút thuốc lá trong  dân số chung là 37%. Tỷ lệ có sử dụng rượu bia trong dân số chung là 44%. Hầu hết người dân ít ăn rau quả,  nhưng sử dụng dầu thực vật trong chế biến thức ăn. Khoảng ¾ dân số cho rằng có ăn mặn. Chỉ có 40% hoạt  động thể lực ở mức độ cao.Tỷ lệ béo phì ở những người có tăng huyết áp là 19%. Những hành vi nguy cơ còn rất  phổ biến ở những người tăng huyết áp, đặc biệt là hành vi hút thuốc lá, lạm dụng rượu, ít vận động thể lực, và ít  ăn rau quả.  Kết luận: Tỷ lệtăng huyết áp người dân 25‐64 tuổi tại huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận là cao, và những  yếu tố nguy cơ của tăng huyết áp vẫn còn phổ biến ở nhóm có tăng huyết áp là những thách thức trong việc kiểm  soát bệnh tăng huyết áp ở cộng đồng. Giáo dục sức khỏe cần được tăng cường nhiều hơn nữa.  Từ khoá Tăng huyết áp, tỷ lệ hiện mắc, hành vi nguy cơ  ABSTRACT  PREVALANCE OF HYPERTENSION AND ITS RISK BEHAVIORS AT THE POPULATION AMONG  25‐64 YEARS OLD IN NINH HAI DISTRICT, NINH THUAN PROVINCE, 2012  Tran Van Huong, Nguyen Do Nguyen   * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6 ‐ 2014: 709 ‐ 716  Background: The proportion of hypertension among out ‐ and inpatients at Ninh Hai district health center  has been increasing, however it does not reflect a true high prevalence of hypertension in community. In addition,  there has been no study on risk behaviors associated to hypertension among Ninh Hai people.  Objectives: To determine the prevalence of hypertension and related behavioral risk  factors among people  * Trung tâm Y tế huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận    ** Bộ môn Dịch tễ, Khoa Y tế công cộng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: BS. Trần Văn Hương  ĐT: 0909567823  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  709 aged 25‐64 years at Ninh Hai in 2012.  Methods:  A  cross‐sectional  community  survey  was  conducted  among  872  people  aged  25‐64  years.  Hypertension  was  defined  as  a  systolic  blood  pressure  of  ≥140mmHg  and/or  a  diastolic  blood  pressure  of  90mmHg. The STEPs survey questionnaire by the WHO was used to interview the study subjects about tobacco  use, alcohol consumption, diet, and physical activity. The survey commands of STATA version 11.0 software was  used for data analyses.  Results: The prevalence of hypertension based on actual blood pressure measures was 15%, and was 20% if  currently using antihypertensive  subjects  included. The proportion  of obesity,  currently  smoking, and alcohol  consumption was 10%, 37%, and 44%, respectively. Most of the people did not eat vegetable, but used vegetable  oil in food processing. About ¾ used salty foods and only 40% had physical activity at high intensity. Among the  hypertensive group, the proportion of obesity was 19%, and other behavioral risk factors were still common such  as smoking, binge drinking, physical inactivity, and low vegetable intake.  Conclusion: The proportion of hypertension among people aged 25‐64 years at Ninh Hai district was high,  and the prevalence of related behavioral risk factors among the hypertensive group is a challenge for the control of  community hypertension problem. Health education needs to be strengthened.  Key words Hypertension, prevalence, behavioral risk factors  ĐẶT VẤN ĐỀ  Tăng huyết áp (THA)  là một bệnh phổ biến  trên thế giới cũng như ở Việt Nam, là mối đe dọa  rất  lớn  đối  với  sức  khoẻ  của  con  người,  là  nguyên nhân gây tàn phế và tử vong hàng đầu ở  người cao tuổi. Tỷ lệ hiện mắc có xu hướng tăng  nhanh không chỉ ở các nước phát triển mà ở cả  các nước đang phát  triển. Dự báo  trong những  năm tới số người mắc THA sẽ còn tăng, do các  yếu  tố  liên  quan  như  hút  thuốc  lá,  lạm  dụng  rượu bia, dinh dưỡng bất hợp lý, và ít vận động  vẫn còn phổ biến. Những nghiên cứu gần đây ở  Việt  Nam  cho  thấy  tỷ  lệ  THA  ở  nhiều  địa  phương là trên 20%(7,5,3). Ở những bệnh nhân đến  khám và điều trị tại bệnh viện huyện Ninh Hải  tỉnh Ninh  Thuận  trong  các  năm  qua,  THA  có  chiều  hướng  gia  tăng,  với  số  lượt  bệnh  nhân  tương ứng  trong các năm 2010 và 2011  là 6.720  và 8.137 lượt; riêng quý 1 năm 2012 đã có 2.396  lượt. Tỷ  lệ bệnh nhân THA đến điều trị nội trú  cũng  tăng,  7,62%  và  8,31%,  tương  ứng  trong  năm  2010  và  2011;  riêng  quý  1  năm  2012  là  10,34%. Mặc dù  tỷ  lệ khám và điều  trị THA có  chiều hướng gia tăng nhưng điều này chưa hẳn  đã  phản  ánh  được  tỷ  lệ  hiện mắc  của  THA  ở  cộng đồng. Ngoài ra chưa có một khảo sát nào  về  các hành vi nguy  cơ  của THA  ở người dân  Ninh Hải. Mục  tiêu  của nghiên  cứu này  là xác  định tỷ lệ THA và tỷ lệ những hành vi nguy cơ  liên quan ở người 25‐64 tuổi tại huyện Ninh Hải,  tỉnh Ninh Thuận, năm 2012.  ĐỐI TƯỢNG‐PHƯƠNG PHÁP  Một khảo sát cắt ngang cộng đồng được tiến  hành ở dân số những người dân 25‐ 64  tuổi cư  trú  tại huyện Ninh Hải,  tỉnh Ninh Thuận  trong  năm 2012. Để  có 95%  tin  tưởng  tỷ  lệ THA  của  dân số mục tiêu là 25%(6), với độ chính xác tuyệt  đối là 4% và hiệu quả thiết kế của mẫu cụm là 2,  cỡ mẫu được ước  lượng  là 900 người. Kỹ thuật  chọn mẫu cụm 2 bậc với xác suất chọn tỷ lệ với  kích  cỡ dân  số được  sử dụng  để  chọn 30  thôn  hoặc khu phố từ 49 thôn và khu phố của huyện  Ninh  Hải.  Tại mỗi  thôn  hoặc  khu  phố  có  30  người được chọn, chia đều theo 4 nhóm tuổi và  giới  tính,  tức  là  khoảng  4  nam  và  4  nữ  trong  từng  nhóm  tuổi  25‐34,  35‐44,  45‐54,  55‐64. Hộ  đầu tiên của một cụm được chọn ngẫu nhiên, và  những người trong hộ thoả đủ tiêu chí chọn mẫu  sẽ được chọn hết vào nghiên cứu. Nếu không đủ  đối tượng cho một nhóm tuổi và giới tính, mẫu  sẽ được chọn ở hộ tiếp theo liền vách bên phải.  Nếu số người trong một hộ là nhiều hơn số đối  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 710 tượng cần chọn của một nhóm tuổi và giới tính  thì  sẽ  chọn ngẫu nhiên  đơn. Đối  tượng nghiên  cứu phải đang sống tại huyện Ninh Hải  ít nhất  là 12 tháng kể cả người tạm trú, và đồng ý tham  gia. Tiêu chí loại là: những người bị cụt 2 tay do  bẩm sinh hay tai nạn; không có khả năng nghe,  hiểu và trả lời những câu hỏi; có bệnh tâm thần  dạng kích  động; phụ nữ  có  thai; những người  đang điều trị bệnh  làm thay đổi huyết áp (HA)  mà không phải điều trị THA; hoặc những người  đang mắc bệnh tiêu chảy hoặc sốt. Những người  tình  nguyện  vì muốn  được  đo  HA  sẽ  không  được phỏng vấn và cũng không được đưa vào  phân tích.  Những biến số nền gồm nhóm tuổi; giới; dân  tộc (Kinh, Chăm, Raglai, và dân tộc khác); trình  độ học vấn (không đi học chính thức, cấp 1, cấp  2, cấp 3 và trên cấp 3); nghề nghiệp, là việc làm  chính trong 12 tháng trở lại, gồm lao động trí óc  (cán  bộ  quản  lý, hành  chính,  văn phòng,  công  chức, viên  chức,  chủ  cơ  sở),  lao  động  chân  tay  (gồm những nghề phải sử dụng cơ bắp như thợ  hồ, thợ xây, khuân vác, xe thồ, ba gác, chế biến  thực phẩm, tiểu thủ công nghiệp), và nhóm khác  gồm hưu trí, nội trợ, hoặc già yếu không còn khả  năng lao động.  Hiện đang hút  thuốc  lá  là khi có hút  thuốc  (như xì gà, thuốc  lá, thuốc  lào, thuốc tẩu) trong  vòng 6 tháng qua. Mức độ hút thuốc lá có 4 giá  trị là không hút, <10 điếu/ngày, 10‐20 điếu/ngày,  và >20 điếu/ngày. Thời gian hút thuốc gồm 2 giá  trị là ≤5 năm và >5 năm. Sử dụng rượu bia được  đo  lường qua  các biến  số  có uống bất kỳ  thức  uống  có  rượu  trong vòng 12  tháng qua,  tần  số  uống rượu trong 12 tháng qua (5 ngày/tuần, 1‐4  ngày/tuần, 1‐3 ngày/tháng, <1 ngày/tháng),  lạm  dụng  rượu  (uống  rượu, bia với  số  lượng  ≥5  ly  chuẩn vào bất kỳ ngày nào  trong  tuần qua đối  với  nam,  hoặc  ≥4  ly  chuẩn  đối  với  nữ).  Định  nghĩa một ly rượu chuẩn tương đương 1 lon bia  330ml, hay nửa xị (125ml) rượu nhẹ (như vang,  sâm banh), hay nửa  ly xây  chừng  (30ml)  rượu  mạnh (như whisky, cognac, đế).  Những  biến  số  về  thói  quen  ăn  uống  bao  gồm ăn rau, củ, quả ≥5 suất/ ngày  (một suất  là  khoảng 150‐200g rau hoặc trái cây), sử dụng chất  béo động vật  trong nấu ăn, ăn mặn  (có ăn một  trong những  thức  ăn mặn  ≥3  bữa  ăn/tuần;  với  các  loại  thức  ăn  như  nước mắm  nguyên  chất,  mắm cá, tép, ba khía, cá khô, tôm khô mặn, dưa  muối, nước tương nguyên chất, tương chao, thịt  muối, trứng muối).   Mức độ vận động  thể  lực  là biến số  thứ  tự  với ba giá trị cao (dựa trên 2 tiêu chí: hoạt động  nặng ít nhất 3 ngày và tích lũy ít nhất 1500 MET  phút/ tuần (MET: Metabolic Equivalent); hầu hết  7 ngày có bất kỳ hoạt động nào như đi bộ, hoạt  động  nặng  hoặc  vừa  và  tích  lũy  ít  nhất  3000  MET phút/tuần); trung bình (dựa trên 1 trong 3  tiêu  chí:  3  ngày  hoặc  hơn  trong  tuần  có  hoạt  động  cường  độ mạnh  ít  nhất  20  phút/ngày;  5  ngày hoặc hơn  trong  tuần có hoạt  động cường  độ  trung  bình  hoặc/và  đi  bộ  ít  nhất  30  phút/ngày; 5 ngày hoặc hơn trong tuần có bất kì  kết hợp vận  động nào như đi bộ, hoạt  động  ở  cường  độ  mạnh  tích  lũy  ít  nhất  600  MET  phút/tuần),và  thấp  (không  có  bất  kỳ  các  hoạt  động kể trên).  THA  được  định  nghĩa  là HA  tâm  thu  lớn  hơn  hay  bằng  140  mmHg  hoặc/và  HA  tâm  trương  lớn hơn hay bằng 90 mmHg. Đối tượng  có  tiền  sử  THA  khi  số  đo  HA  tại  thời  điểm  nghiên cứu là bình thường nhưng có THA trong  vòng 12  tháng qua  (do nhân viên y  tế cho biết,  hoặc có sổ khám bệnh, hoặc đang sử dụng thuốc  điều trị THA). Chỉ số khối cơ thể (BMI) gồm các  nhóm, theo phân loại béo phì cho cộng đồng các  nước  Châu  Á  là  nhẹ  cân  (<18,5  kg/m2),  bình  thường  (18,5‐22,99  kg/m2),  thừa  cân  (23‐24,99  kg/m2), và béo phì (≥25 kg/m2).  Bộ câu hỏi phỏng vấn được dựa theo bộ câu  hỏi  khảo  sát  STEPs  về  những  bệnh  không  lây  của Tổ Chức Y Tế Thế Giới(9). Cân nặng được đo  với  cân Nhơn Hoà  theo  tiêu  chuẩn  chất  lượng  Việt Nam, và chiều cao được đo với  thước dây  có vạch centimet. HA được đo với máy đo đồng  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  711 hồ  (Aneroid  Sphygmomanometer  của  Nhật),  được hiệu chỉnh không chênh lệch quá 3mmHg  theo HA kế  thủy ngân ALPK2. HA  được  đo  ít  nhất 2 lần cách nhau 15 phút. Nếu HA tâm thu  lần 1 và  lần 2 khác biệt quá 25mmHg hoặc HA  tâm trương hai lần khác biệt quá 15 mmHg thì sẽ  tiến hành đo HA  lần 3. Trị số HA được  tính  là  giá  trị  trung  bình  của  những  lần  đo. Dụng  cụ  cân, đo được trang bị mới và hiệu chỉnh thường  xuyên. Trong quá  trình  thu  thập dữ kiện giám  sát viên kiểm tra và loại bỏ dữ kiện không chính  xác,  thẩm  tra ngẫu nhiên  các phiếu phỏng vấn  ngay sau khi phỏng vấn.  Tất  cả  các phân  tích  trong nghiên  cứu  này  được thực hiện với phương pháp svy trong gói  phần mềm thống kê STATA phiên bản 11.0. Các  phân tích được điều chỉnh cho các tầng lấy mẫu,  đơn  vị  lấy mẫu  chính,  và  trọng  lượng  dân  số  nhằm  làm  cho mẫu  điều  chỉnh  là  đại diện  cho  phân  bố  dân  số  tham  chiếu  của  những  người  trưởng thành tuổi từ 25‐64 ở cả hai giới nam và  nữ sống tại Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận từ nguồn  dữ kiện điều tra dân số tại huyện Ninh Hải năm  2009. Thống kê mô  tả  được  trình bày với  tỷ  lệ  hoặc/và  sai  số  chuẩn.  Phép  kiểm  chi  bình  phương  được  sử  dụng  để  so  sánh  tỷ  lệ.  Đề  cương nghiên cứu được thông qua bởi Khoa Y tế  Công cộng Đại học Y Dược  thành phố Hồ Chí  Minh, và thu thập dữ kiện được sự chấp thuận  của Sở Y tế tỉnh Ninh Thuận.  KẾT QUẢ  Bảng 1: Các đặc điểm về dân số học, tỷ lệ phần trăm  Biến số Chung Nam Nữ Giới 100 51 49 Dân tộc Kinh 93 93 92 Khác (Chăm, Raglay, v.v) 7 7 8 Nhóm tuổi (năm) 25-34 36 34 37 35-44 34 33 35 45-54 19 20 19 55-64 11 12 9 Trình độ học vấn Không đi học 11 9 13 Cấp 1 38 35 42 Cấp 2 30 30 29 Cấp 3 11 13 9 Trên cấp 3 10 14 7 Nghề nghiệp Lao động tri óc 12 15 10 Lao động chân tay 55 69 41 Khác(hưu trí, nội trợ) 32 16 49 Bảng 2:Tình trạng dinh dưỡng và THA, tỷ lệ phần  trăm và (sai số chuẩn)  Biến số Chung Nam Nữ Tình trạng dinh dưỡng Thiếu cân 13 (1,2) 14 (1,6) 13 (1,9) Bình thường 61 (2,5) 65 (2,5) 58 (4,3) Thừa cân 15 (1,8) 13 (1,5) 17 (3,4) Béo phì 10 (2,0) 8 (1,8) 12 (3,0) THA 1 * 15 (1,0) 18 (1,3) 12 (1,7) THA 2** 20 (1,7) 21 (1,8) 19 (1,7) * THA 1: dựa vào số đo HA ở thời điểm nghiên cứu  ** THA 2: dựa vào số đo HA ở thời điểm nghiên cứu, và  người có THA nhưng số đo HA bình thường ở thời điểm  nghiên cứu  Bảng 3: Hành vi hút thuốc lá và uống rượu, tỷ lệ phần trăm (sai số chuẩn)  Biến số Chung Nam Nữ Đang hút thuốc 37 (1,2) 71 (2,4) 1 (0,2) Số điếu hút/ngày ở người đang hút <10 26 (4) 22 (4) 75 (25) 10-20 69 (4) 73 (4) 25 (25) >20 5 (1) 5 (1) 0 (0) Thời gian hút thuốc ≤5 năm 1 (0,3) 2 (0,6) 0 (0) >5 năm 34 (2,1) 65 (4,2) 1 (0,2) Sử dụng rượu bia trong 12 tháng qua 44 (2,4) 80 (3,6) 7 (1,1) Tần số sử dụng rượu trong 12 tháng qua Không sử dụng 56 (2,2) 20 (3,4) 93 (1,9) Uống 5-6 ngày/tuần 9 (1,8) 19 (3,5) 0 (0,2) Uống 1-4 ngày/tuần 12 (2,5) 22 (4,8) 1 (0,7) Uống 1-3 ngày/tháng 15 (2,4) 29 (4,6) 0 (0,2) Uống<1 ngày/tháng 9 (1,4) 11 (2,4) 6 (1,8) Lạm dụng rượu 17 (1,9) 32 (3,7) 1 (0,5) Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 712 Bảng 4: Thói quen ăn uống và hoạt động thể lực, tỷ lệ phần trăm (sai số chuẩn)  Biến số Chung Nam Nữ Ăn rau quả ≥5 suất/ngày 2 (1,2) 3 (1,3) 2 (1,3) Có ăn mặn 73 (9,1) 75 (8,7) 70 (9,9) Chất béo sử dụng trong nấu ăn Dầu thực vật 97 (1,7) 96 (1,8) 97 (1,7) Mỡ động vật 0,1 (0,1) 0 (0,1) 0 (0) Bơ 0,1 (0,1) 0 (0) 0,17 (0,17) Nhiều thứ 3 (1,7) 4 (1,9) 2 (1,7) Mức độ hoạt động thể lực Cao 40 (4,4) 51 (3,7) 28 (6,2) Vừa 22 (4,0) 12 (1,6) 33 (7,3) Thấp 38 (4,6) 37 (3,6) 40 (7,7) Có hoạt động khi nghỉ ngơi 94 (2,0) 92 (2,9) 96 (1,3) Bảng 5: Phân bố các yếu tố nguy cơ ở hai nhóm có và không THA (dựa vào HA thực đo), tỷ lệ phần trăm  Biến số Chung Nam Nữ THA THA THA Có Không p Có Không p Có Không p BMI ≥25 19 9 <0,01 12 7 0,2 32 10 <0,01 Đang hút thuốc 50 34 <0,01 79 70 0,02 3 0,4 0,02 Lạm dụng rượu 27 15 0,01 43 30 0,1 3 1 0,1 Ăn rau quả <5 suất/ngày 96 98 0,09 95 98 0,3 96 98 0,03 Ăn mặn 28 27 0,9 22 25 0,7 37 29 0,2 Dùng mỡ động vật 3 3 0,8 2 4 0,4 4 2 0,3 Ít vận động thể lực 68 41 0,1 63 46 0,04 77 72 0,5 Không hoạt động khi nghỉ ngơi 2 7 0,07 2 9 0,03 3 4 0,7 Mẫu nghiên cứu có 872 người với 439 namvà  433 nữ. Dân số 25‐64  tuổi của huyện Ninh Hải  đa số là người Kinh, ở nhóm tuổi 25‐34 và 35‐44,  học hết cấp 1 hoặc cấp 2. Hơn 50%  là  lao động  chân  tay,  và  1/3  là  người  hưu  trí  hoặc  nội  trợ  (bảng  1). Tỷ  lệ  béo  phì  chung  trong dân  số  là  10%, và phổ biến ở nữ hơn nam  (bảng 2). Dựa  vào trị số HA đo ở thời điểm nghiên cứu, có 15%  dân  số  là  THA,  nhưng  nếu  tính  luôn  những  người đã được chẩn đoán THA  trước đó mà  ở  thời điểm nghiên cứu có HA bình thường thì tỷ  lệ THA là 20% (bảng 2). Tỷ lệ THA ở nhóm nam  hơi cao hơn so với nhóm nữ.  Tỷ  lệ  đang  có  hút  thuốc  lá  trong  dân  số  chung  là 37%. Gần ¾ dân  số nam  là  đang hút  thuốc lá, hút từ 10‐20 điếu mỗi ngày, và có thời  gian hút trên 5 năm. Tỷ lệ hút thuốc lá ở nhóm  nữ  là rất thấp, và đa số hút <10 điếu/ngày. Tuy  nhiên, 25% những người nữ có hút thuốc hút từ  10‐20 điếu/ngày (bảng 3). Tỷ lệ có sử dụng rượu  bia  trong dân  số  chung  là  44%, với  tỷ  lệ uống  thường xuyên (5‐6 ngày mỗi tuần) là 9%, và 17%  lạm dụng rượu. Tỷ lệ sử dụng rượu bia ở nam là  rất cao so với nữ, với tỷ lệ uống thường xuyên là  19%, và 32%  lạm dụng  rượu  (bảng 3). Hầu hết  người  dân  ít  ăn  rau  quả,  nhưng  sử  dụng  dầu  thực vật trong chế biến thức ăn. Khoảng ¾ dân  số cho rằng có ăn mặn (Bảng 4). Chỉ có 40% hoạt  động  thể  lực  ở mức  độ cao, và  tỷ  lệ này  ở nữ,  28%,  là  thấp hơn  so với nam, 51%. Tuy nhiên,  hầu  hết  đều  có  vận  động  trong  lúc  nghỉ  ngơi  (bảng 4).  Tỷ lệ béo phì ở những người có THA là 19%,  và cao hơn gần gấp 3 lần ở nhóm nữ so với nam  (bảng  5). Những hành vi nguy  cơ  còn  rất phổ  biến ở những người THA, đặc biệt là hành vi hút  thuốc  lá  (79%  ở nam  so  với  3%  ở nữ),  và  lạm  dụng rượu (43% ở nam và 3% ở nữ). Trong dân  số chung, tỷ  lệ  lạm dụng rượu ở người THA  là  khác biệt có ý nghĩa thống kê so với tỷ lệ tương  ứng  ở  người  không  THA,  nhưng  không  có  ý  nghĩa thống kê khi phân tích riêng theo giới. Tỷ  lệ ít vận động thể lực ở người THA, trong dân số  chung là 68%, khác biệt không có ý nghĩa thống  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  713 kê so với tỷ  lệ tương ứng ở người không THA.  So sánh nhóm có THA với nhóm không THA ở  nam giới, tỷ lệ ít vận động thể lực là cao hơn, và  không vận động khi nghỉ ngơi là thấp hơn; và sự  khác biệt là có ý nghĩa thống kê. Ít ăn rau quả là  rất phổ biến ở cả hai nhóm có và không có THA.  BÀN LUẬN  Tỷ lệ THA  Tỷ lệ THA dựa vào số đo khi nghiên cứu là  15%, và nếu  tính  luôn những đối  tượng có  tiền  sử THA trong 12 tháng qua nhưng hiện HA đã  ổn định thì tỷ lệ THA là 20%. Tỷ lệ THA ở nam  là 18% và ở nữ  là 12%. Ba nghiên cứu có cùng  phương pháp với nghiên cứu này đã được thực  hiện  tại  thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, và  Lâm  Đồng.  Tỷ  lệ  THA  tại  thành  phố Hồ  Chí  Minh  (2005)  ở nam  là 22,6%  ở nam và  ở nữ  là  13,6%(7), tại thành phố Cần Thơ là (2005) 27,3% ở  nam và 16,2% ở nữ(5). Tỷ  lệ THA tại Lâm Đồng  (2010) là 23% ở nam và 13% ở nữ(3).   So với  các nghiên  cứu  trước  cho  thấy  tỷ  lệ  THA  thay đổi  theo vùng miền và có xu hướng  phụ thuộc vào nhiều yếu tố như dân tộc, nơi cư  trú, nghề nghiệp, thói quen sinh hoạt. Tỷ lệ THA  tại  các  tỉnh  phía  bắc  (2001‐2002)  là  16,3%(4),  ở  Đălăk  (2005)  là 17,5%(2), và ở quận 4  thành phố  Hồ Chí Minh (2004) là 22,8%(8). Sự khác biệt của  tỷ  lệ THA giữa  các nghiên  cứu  còn phụ  thuộc  vào nhiều yếu  tố như  cỡ mẫu  điều  tra, dân  số  chọn mẫu,  kỹ  thuật  chọn mẫu,  phương  pháp  phân tích dữ kiện, và sự phân bố tuổi trên từng  nghiên cứu  là khác nhau. Khi một nước có nền  kinh tế phát triển, dịch vụ y tế cải thiện, sức khỏe  người dân được chăm sóc tốt hơn, thì chất lượng  cuộc  sống  gia  tăng  và  tuổi  thọ  tăng  theo.  Bên  cạnh  đó,  THA  là một  bệnh mạn  tính,  và  nếu  những phác đồ điều trị THA là hiệu quả thì tỷ lệ  hiện mắc  THA  sẽ  có  khuynh  hướng  tăng  dần  theo thời gian.  Những yếu tố nguy cơ của THA  Những yếu tố nguy cơ của THA đã được xác  định trong nhiều nghiên cứu, và nghiên cứu này  không nhằm chứng minh lại mối liên quan giữa  những yếu  tố nguy cơ đó với THA. Mô  tả  tính  phổ biến của những yếu tố nguy cơ ở những đối  tượng  đang  bị THA  sẽ  tạo  cơ  sở  cho  việc  xây  dựng  những  chương  trình  giáo  dục  sức  khỏe  phù hợp.  Thừa cân béo phì  Tỷ lệ thừa cân, béo phì của đối tượng nghiên  cứu theo chỉ số BMI lần lượt là 15% và 10%, tỷ lệ  thừa  cân béo phì  ở nữ  cao hơn nam  có  thể do  phụ nữ khi  lớn  tuổi có sự  thay đổi nội  tiết  làm  tích mỡ nhiều hơn. Những công việc ít sử dụng  cơ  bắp  và  sử  dụng  nhiều  thức  ăn  nhanh  giàu  năng lượng khiến cho thừa cân và béo phì có xu  hướng phổ biến và tăng nhanh trong dân số các  nước đang phát triển. Tỷ lệ thừa cân và béo phì  của  dân  số  những  người  25‐64  tuổi  tại  huyện  Ninh Hải  là  cao  so  với  tỷ  lệ  thừa  cân  béo phì  12,5% của Việt Nam(1). Tỷ lệ này ở những người  THA là 19% cho thấy việc kiểm soát cân nặng là  chưa  tốt. Cùng với việc  ít vận động  thể  lực  thì  việc kiểm soát HA ở những đối tượng này sẽ là  khó khăn.  Những hành vi nguy cơ  Tỷ lệ hút thuốc lá là 37% trong dân số chung;  riêng  ở  nam  giới  tỷ  lệ  hút  thuốc, mức  độ  hút  nhiều  và  thời  gian  hút  trên  5  năm  là  rất  cao.  Những  con  số  này  còn  cao  hơn  nữa  ở  những  người đang bị THA. Tỷ lệ hút thuốc lá cao có thể  do trình độ học vấn thấp, nghề nghiệp lao động  chân  tay, và có  thể còn do thói quen của người  dân  nông  thôn.  Kết  quả  này  cao  hơn  so  với  nghiên cứu tại các huyện ngoại thành thành phố  Hồ  Chí Minh  năm  2005  có  tỷ  lệ  hút  thuốc  lá  chung là 30%, chủ yếu ở nam giới là 62% so với  2% nữ giới có hút thuốc lá(6). Tỷ lệ hút thuốc lá ở  nữ  là  thấp nhưng  rất  đáng  quan  tâm  khi  25%  những người nữ đang hút thuốc có mức độ hút  từ 10‐20 điếu/ngày. Hút thuốc lá là một hành vi  khó bỏ, nhưng nếu không bỏ hút thì những vấn  đề sức khỏe do  thuốc  lá gây ra có  thể  làm  tình  trạng THA nặng hơn.   Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 714 Tỷ lệ có sử dụng rượu bia trong 12 tháng qua  trong dân số chung là 44%, và rất cao ở nam giới,  80%. So với kết quả nghiên cứu tại thành phố Hồ  Chí Minh với  cùng dân  số 25‐64  tuổi vào năm  2005,  tỷ  lệ có uống  rượu  trong 12  tháng qua  là  thấp hơn nhưng tỷ lệ lạm dụng rượu là cao hơn  (17% >13%)(6). Tỷ  lệ uống  rượu  ở nông  thôn và  thành  thị khác nhau có  thể do những khác biệt  về tình trạng kinh tế cũng như địa vị của cá nhân  trong xã hội. Người 25‐64 tuổi ở Ninh Hải không  uống  rượu  thường  xuyên nhưng  nếu  đã uống  thì uống nhiều hơn  so với dân  số  cùng  tuổi  ở  thành phố Hồ Chí Minh. Ở những người THA  tỷ lệ lạm dụng rượu là 27%, và riêng ở nam giới  là 43%; cho thấy việc kiểm soát HA ở những đối  tượng này là thực sự khó khăn.  Tỷ lệ ăn rau quả ≥5 suất/ ngày còn quá thấp,  có thể do Ninh Hải không có kinh tế vườn. Gần  1/3 dân số chung, và ở cả hai nhóm nam nữ, có  hành  vi  ăn mặn.  Địa  điểm  nghiên  cứu  là một  vùng nông  thôn gần biển,  lao động chủ yếu sử  dụng  cơ  bắp  cho  công  việc  hàng  ngày  nên  có  thói  quen  ăn mặn  từ  các  loại mắm  chế  biến  ở  vùng nông thôn (như mắm nêm, mắm chưng, cá  khô,  cá  kho mặn)  để  bù  lại  lượng muối mất  trong  lao động. Tỷ  lệ có  ăn mặn  là cao hơn rất  nhiều  so  với  tỷ  lệ  tương  ứng  ở  dân  số  cùng  nhóm  tuổi  tại  thành  phố  Hồ  Chí  Minh  năm  2005(6). Sai lệch thông tin có khả năng đã xảy ra  với những  câu hỏi phỏng vấn về  thói quen  ăn  rau quả và ăn mặn. Đối  tượng nghiên cứu khó  có thể trả lời chính xác những câu hỏi như “ ăn  bao nhiêu suất trái cây trong một ngày”, hoặc “ ăn  bao nhiêu suất rau củ trong một ngày”, hoặc “Trong  một tuần bình thường, có bao nhiêu ngày Ông/Bà ăn  món mặn (đồ kho, ram, xào mặn)?”, hoặc “Ông/Bà  có bị mọi người cho là ăn mặn hơn những người khác  trong gia đình Ông/Bà không?”  Sử dụng  chất  béo  động  vật  trong  chế  biến  thức ăn là hiếm trong dân số nghiên cứu, có thể  do sở  thích ẩm  thực của người dân vùng nông  thôn chỉ thích ăn uống do tự mình chế biến cho  cả gia đình vừa phù hợp với điều kiện kinh  tế,  vừa phù hợp với những vùng nông thôn ít hàng  quán  nên  chủ  yếu dùng  chất  béo  từ dầu  thực  vật. Ngoài  ra giá  thành  của dầu  thực vật  công  nghiệp là thấp cũng khiến cho đa số người dân  lựa  chọn dầu  thực vật. Đây  là một hành vi  tốt  duy nhất được ghi nhận ở dân số nghiên cứu.  Tỷ lệ ít vận động thể lực là rất cao trong dân  số nghiên cứu, đặc biệt hơn 1/3 ở nữ giới, có thể  vì tỷ lệ lao động chân tay ở nữ, 41%, là thấp hơn  nhiều so với  tỷ  lệ  tương ứng  ở nam, 69%. Tuy  nhiên, tỷ lệ 68% dân số ít vận động thể lực có vẻ  không phù hợp khi hơn phân nửa dân số nghiên  cứu  là  lao động chân  tay. Sai  lệch  thông  tin có  thể xảy ra với những câu hỏi về vận động thể lực  khá  phức  tạp  đòi  hỏi  người  được  phỏng  vấn  phải suy nghĩ để có trả lời chính xác(9).   Những điểm mạnh và hạn chế của nghiên  cứu  Mẫu  nghiên  cứu  là  đủ  lớn  để mô  tả  tỷ  lệ  THA và những hành vi nguy  cơ  trong dân  số.  Những đặc điểm dân số học của mẫu cho  thấy  tính đại diện cao của mẫu nghiên cứu so với dân  số mục tiêu. Phương pháp phân tích dữ kiện cho  khảo  sát mẫu  cụm  cho  kết  quả  chính  xác.  Sai  lệch  thông  tin  là một hạn  chế  của nghiên  cứu,  chủ  yếu  với  những  câu  hỏi  về  các hành  vi  ăn  mặn, ăn rau quả, và vận động thể lực.  KẾT LUẬN  Tỷ lệ THA ở người dân 25‐64 tuổi tại huyện  Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận là cao, và những yếu  tố nguy cơ của THA vẫn còn phổ biến ở nhóm  có  THA  là  những  thách  thức  trong  việc  kiểm  soát bệnh THA ở cộng đồng. Giáo dục sức khỏe  cần được tăng cường nhiều hơn nữa.   TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Bộ Y  tế  (2010). Thừa  cân, béo phì yếu  tố nguy  cơ  của  tăng  huyết áp. Chương trình mục tiêu Quốc gia phòng chống tăng  huyết áp. Hà Nội. Tr. 12‐17.  2. Cao  Thị  Yến  Thanh, Nguyễn Công Khẩn,  Đặng  Tuấn  Đạt  (2006). Thực trạng và các yếu tố liên quan đến tăng huyết áp  của người từ 25 tuổi trở lên tại tỉnh Dăklăk năm 2005. Tạp chí  DD&TP. 2(3+4). 56‐78.  3. Lê Quang Đạo, Nguyễn Đỗ Nguyên (2011).Tăng huyết áp và  các  chỉ  số nhân  trắc  ở người 25‐64  tuổi  tại Lâm Đồng năm  2010. Y học TP. Hồ Chí Minh. 15(3)158–164.  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  715 4. Phạm Gia Khải, Nguyễn Lân Việt, Phạm Thái Sơn, và cộng sự  (2003). Tần suất tăng huyết áp và các yếu tố nguy cơ ở các tỉnh  phía bắc Việt Nam 2001‐2002. Tạp chí Tim Mạch Học. 33: 9‐34.  5. Pham  LH,  Thuy  B  Au  TB,  Leigh  Blizzard  L,  et  al  (2009).  Prevalence of  risk  factors  for non‐communicable diseases  in  the Mekong Delta,  Vietnam:  results  from  a  STEPS  survey.  BMC Public Health. 9:291. doi:10.1186/1471‐2458‐9‐291.  6. Trần Thiện Thuần, Nguyễn Đỗ Nguyên  (2007). Một  số đặc  điểm dịch tễ bệnh tăng huyết áp ở người  lớn tại cộng đồng  dân cư ở TP. HCM năm 2012. Y Học TP. Hồ Chí Minh, 11(1):  136 ‐143.  7.  Trinh  OTH,    Nguyen  ND,    Dibley  MJ,  Phongsavan  P,  Bauman AE(2008). The prevalence and correlates of physical  inactivity  among  adults  in Ho Chi Minh City. BMC Public  Health, 8:204‐214.  8. Vũ Bảo Ngọc, Lê Hoàng Ninh, Cao Minh Nga, Phan Trần  Tuấn  (2005). Tỷ  lệ hiện mắc  tăng huyết áp  ở người  trưởng  thành  tại  quận  4  TP.  HCM  2004.  Y  học  TP.  Hồ  Chí  Minh,9(1):93‐102.   9. World  Health  Organization  (2008).  The  WHO  stepwise  approach  to  surveillance  of  non‐communicable  diseases  (STEPS):  Steps  instrument  for  NCD  risk  factors  (core  and  expanded  version  1.4).  Accessed on 12 June, 2008.  Ngày nhận bài báo:       11/5/2014  Ngày phản biện nhận xét bài báo:   23/6/2014  Ngày bài báo được đăng:     14/11/2014 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfty_le_tang_huyet_ap_va_nhung_hanh_vi_nguy_co_o_nguoi_2564_tu.pdf
Tài liệu liên quan