Tỷ lệ thai phụ mắc chứng sợ sinh con và các yếu tố liên quan ở tam cá nguyệt ba tại bệnh viện Hùng Vương

Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu tìm tỷ lệ thai phụ mắc chứng sợ sinh con ở ba tháng cuối thai kỳ. Theo phân tích gộp của Nilsson năm 2018 [13] từ các nghiên cứu ở 9 nước châu Âu, Úc, Canada và Hoa Kỳ, công cụ được sử dụng nhiều nhất để chẩn đoán và đánh giá lần lượt là bảng câu hỏi W-DEQ, thang đo thị giác (FOBS). Dù được sử dụng nhiều nhất nhưng nghiên cứu chúng tôi không chọn bảng câu hỏi W-DEQ vì phức tạp. Với thang đo FOBS, chiều dài thước là 100 mm có thể dễ dàng in lên bảng thu thập số liệu. Cả hai giá trị sau đó được tính trung bình cộng và cho một điểm số chung. FOBS được sử dụng ở Úc trong nghiên cứu của Haines (2011) [7] thực hiện tại Úc, với 1410 phụ nữ sử dụng cả hai công cụ FOBS và WDEQ-A. Mối tương quan giữa hai công cụ theo phép kiểm Spearman’s Rho = 0,66. Với điểm cắt (cut-off) của FOBS là 54 điểm. Độ nhạy tính toán là 89%, đặc hiệu 79%, chỉ số Youden 0,68. Tỷ lệ sợ sinh con của nghiên cứu chúng tôi là 39,1% cao hơn với phân tích tổng hợp từ 33 nghiên cứu của Maeve A. O’Connell [14], gần với tỷ lệ của những nhóm nghiên cứu tại châu Á (25%). Tuy nhiên, nghiên cứu của Maeve A. O’Connell lấy tiêu chuẩn nhận vào là tất cả các nghiên cứu quan sát bất kể tuổi thai, nghiên cứu chúng tôi chỉ chọn những thai phụ ở tam cá nguyệt 3. Sự quan tâm giúp đỡ cũng như san sẻ kinh nghiệm của các thành viên trong gia đình trong suốt thai kỳ theo chúng tôi đánh giá là một yếu tố tác động quan trọng đến cảm xúc của thai phụ. Nghiên cứu ghi nhận 96,62% thai phụ chung sống với chồng, số còn lại do chồng đi làm xa. Nghiên cứu không ghi nhận trường hợp ly thân, ly dị hay mẹ đơn thân nào. Tại Ireland, Maeve A. O’Connell (2019) [9] cho biết chỉ có 89,9% thai phụ sống chung với chồng hoặc có bạn chung nhà. Kết quả phân tích hồi quy logistic cho thấy sống chung với chồng làm giảm tỷ lệ sợ sinh con có ý nghĩa thống kê với OR = 0,2, p = 0,022. Tương tự, Maeve A. O’Connel (2019) so sánh điểm số W-DEQ A giữa hai nhóm có sống cùng chồng và sống riêng thì nhóm sống riêng điểm số cao hơn có ý nghĩa thống kê với p < 0,001 [14].

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 6 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỷ lệ thai phụ mắc chứng sợ sinh con và các yếu tố liên quan ở tam cá nguyệt ba tại bệnh viện Hùng Vương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
37 Tỷ lệ thai phụ mắc chứng sợ sinh con và các yếu tố liên quan ở tam cá nguyệt ba tại Bệnh viện Hùng Vương Huỳnh Nguyễn Khánh Trang1,2, Triệu Ngọc Diệp3 1Trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch, thành phố Hồ Chí Minh 2Bệnh viện Hùng Vương 3Bác sĩ Nội trú, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh doi:10.46755/vjog.2020.2.780 Tác giả liên hệ (Corresponding author): Huỳnh Nguyễn Khánh Trang, email: tranghnk08@gmail.com Nhận bài (received): 10/03/2020 - Chấp nhận đăng (accepted): 28/09/2020 NGHIÊN CỨU SẢN KHOA Huỳnh Nguyễn Khánh Trang và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(2):37-42. doi: 10.46755/vjog.2020.2.780 Tóm tắt Mục tiêu: Xác định tỷ lệ sợ sinh trên thai phụ ở tam cá nguyệt ba của thai kỳ tại Bệnh viện Hùng Vương và một số yếu tố liên quan. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang trên 385 thai phụ ở tam cá nguyệt 3 khám thai tại Bệnh viện Hùng Vương hội đủ các tiêu chí chọn mẫu trong thời gian từ 01/11/2018 - 30/11/2019. Kết quả: Tỷ lệ sợ sinh con chung trong nghiên cứu là 30,91% KTC 95% [26,29 - 35,53]. Trong đó: ở nhóm thai phụ con so là 34,57% KTC 95% [29,82 - 39,32] và nhóm thai phụ con rạ là 28,25% KTC 95% [26,41 - 35,41]. Một số yếu tố liên quan đến tỷ lệ sợ sinh con: (1) Sống chung với chồng làm giảm tỷ lệ sợ sinh con với OR = 0,20; KTC 95% [0,15 - 0,48] ; p=0,02; (2) Tiền căn sinh giúp làm tăng tỷ lệ sợ sinh con với OR = 47,87; KTC 95% [16,7 - 136,8], p<0,001; (3) Tuổi thai càng lớn càng tăng tỷ lệ sợ sinh con (với mỗi độ lệch chuẩn tăng thêm tương ứng 23 ngày) với OR = 2,3, KTC 95% [1,9 - 2,7], p < 0,001; (4) Tham khảo thông tin từ sách báo, internet làm tăng tỷ lệ sợ sinh con với OR = 2,5, KTC 95% [1,7 - 3,5], p < 0,001; (5)Tham khảo thông tin từ nhân viên y tế làm giảm tỷ lệ sợ sinh con với OR = 0,15; KTC 95% [0,1 - 0,2], p < 0,001. Kết luận: Chứng sợ sinh là vấn đế rất cần được quan tâm trong khám và quản lý thai kỳ. Từ khóa: Chứng sợ sinh con, nghiên cứu cắt ngang, ngưỡng cắt, FOBS Prevalence and associated factors of fear of childbirth at third trimester in Hung Vuong Hospital Huynh Nguyen Khanh Trang1,2, Trieu Ngoc Diep3 1Pham Ngoc Thach University of Medicine, Ho Chi Minh city 2Hung Vuong Hospital 3Ho Chi Minh City University of Medicine and Pharmacy Abstract Objectives: To determine the prevalence of FOB among pregnant women in the third trimester of pregnancy at Hung Vuong hospital and some related factors. Materials and Methods: A cross-sectional study of 385 women in the third trimester of antenatal care at Hung Vuong Hospital met the criteria for sample selection from November 1, 2018 to November 30, 2019. Results: The prevalence of FOB was 30.91% 95%CI [26.29 - 35.53]. In which: in comparison group, the nulliparity was 34.57% CI 95% [29.82 - 39.32] and the multiparity was 28.25% with 95% CI [26.41 - 35.41]. Some factors related to the fear of childbirth: (1) Living with husband with OR = 0.20; 95% CI [0.15 - 0.48]; p = 0.02; (2) Childbirth with vagina opa- retor with OR = 47.87; 95% CI [16.7 - 136.8], p <0.001; (3) The increase of gestational age (for every standard deviation increase by 23 days) with OR = 2.3, 95% CI [1.9 - 2.7], p <0.001 ; (4) Refer to information from books and newspapers with OR = 2.5, 95% CI [1.7 - 3.5], p <0.001; (5) Refer to information from health workers with OR = 0.15; 95% confidence interval [0.1 - 0.2], p <0.001. Conclusions: Fearl of childbirth is a very important issue in pregnancy examination and management. Keywords: Fear of childbirth, cross-sectional study, cut-off, fear of birth scale 38 Huỳnh Nguyễn Khánh Trang và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(2):37-42. doi: 10.46755/vjog.2020.2.780 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Mang thai và sinh con là một sự kiện đặc biệt của người phụ nữ. Tuy nhiên, không phải người mẹ nào cũng trải qua quá trình này một cách dễ chịu. Từ năm 1858, nhà tâm lý học người Pháp Loius Victor Marcé [1] đã mô tả cảm giác bất ổn về thai kỳ ở người con so do lo lắng về cơn đau đẻ và ở người con rạ do những trải nghiệm “đáng sợ” trong những lần sinh trước. Năm 2000, thuật ngữ “tokophobia” lần đầu được sử dụng bởi Hofberg và Brockington cho chứng “sợ sinh con” [2]. Chứng sợ sinh con biểu hiện đa dạng: sợ đau, sợ không có khả năng sinh, sợ bị tổn thương khi sinh, sợ làm bố mẹ, vân vân và do nhiều yếu tố tác động: khí sắc cá nhân, điều kiện kinh tế - xã hội, kinh nghiệm ở lần sinh trước, sự hỗ trợ của cộng đồng và nhân viên y tế Bảng câu hỏi Wijma Dilivery Expectancy/Experience Questionnaire (W-DEQ) là công cụ được sử dụng nhiều nhất để đánh giá chứng sợ sinh con. Thang đo dựa trên nhiều khía cạnh khác nhau của chứng sợ sinh con nhưng được thiết kế thành một công cụ đơn chiều. Hệ số al- pha cronbach của W-DEQ ở những nghiên cứu gần đây là 0,92. Bảng W-DEQ gồm 33 câu hỏi chia làm 6 nhóm là xác định chứng sợ sinh con gồm những cảm xúc: “sợ hãi”, “suy nghĩ tiêu cực”, “cảm giác cô đơn”, “cảm thấy vô dụng”, “thiếu sự dự đoán tích cực”, “mối quan tâm đến đứa con”. Mỗi câu hỏi có 6 mức độ trả lời với điểm số tương ứng từ 1 đến 6. Tổng bảng điểm W-DEQ từ 0 cho đến 165 Johnson và Slade (2002) [3] tiến hành phân tích yếu tố đầu tiên và kết luận rằng bảng câu hỏi có thể đánh giá rõ ràng 4 khái niệm riêng biệt: sợ hãi, cô đơn, thiếu chuẩn bị tích cực, cảm thấy nguy hiểm. Các nghiên cứu của Fenwick (2009) [4] tại Úc cũng cho kết quả tương tự về tính hiệu quả của công cụ này. Nghiên cứu của Oznur Korukcu (2012) [5] thực hiện tại Thổ Nhĩ Kỳ cho thấy có bảng điểm WDEQ cổ điển có quy mô đầy đủ và hữu ích trong việc đánh giá chứng sợ sinh con ở phụ nữ Thổ Nhĩ Kỳ. Nghiên cứu tại Nhật của Mizuki Takegata (2013) [6] cũng đưa ra kết luận tương tự về hiệu quả của bảng điểm này khi phân tích với bảng điểm HADS với hệ số Cronbach’s alpha chung là 0,95, các yếu tố riêng dao động từ 0,74-0,93. Thang đo FOBS - the Fear of Birth Scale là một thang đo thị giác gồm 2 yếu tố đánh giá sự lo lắng và sự hãi với câu hỏi “Bạn nghĩ gì về việc sắp sinh”. Thai phụ sẽ trả lời bằng cách vạch trên 2 thước đo với hai đầu mút lần lượt là “không sợ hãi - sợ hãi”, “bình tĩnh - lo lắng”. Chiều dài thước là 100 mm. Cả hai giá trị sau đó được tính trung bình cộng và cho một điểm số chung. FOBS được sử dụng ở Úc trong nghiên cứu của Haines (2011) [7] và Thụy Điển trong nghiên cứu của Ternstrom (2014) [8]. Theo nghiên cứu đoàn hệ của Haines (2015) thực hiện tại Úc, với 1.410 phụ nữ sử dụng cả hai công cụ FOBS và WDEQ-A. Mối tương quan giữa hai công cụ theo phép kiểm Spearman’s Rho = 0,66. Với cut-off của FOBS là 54 điểm. Độ nhạy tính toán là 89%, đặc hiệu 79%, chỉ số Youden 0,68. Giá trị tiên đoán dương 85%, giá trị tiên đoán âm 79%. Theo nghiên cứu của Lukasse [9] tại 6 nước châu Âu năm 2014, 11,2% thai phụ mắc chứng sợ sinh con mức độ nặng. Rouhe (2015) [10] báo cáo một nghiên cứu mô tả 4.575 thai phụ ở đầu thai kỳ có tới 8,1% mắc chứng sợ sinh con mức độ rất nặng. Sợ sinh con làm phụ nữ chịu nhiều hậu quả nghiêm trọng nếu không được dự phòng và can thiệp như: không sinh con, chấm dứt thai kỳ sớm, tăng tỷ lệ mổ lấy thai, trầm cảm và rối loạn căng thẳng sau sang chấn; bản thân đứa trẻ nếu sinh ra cũng chịu nhiều thiệt thòi vì mối liên hệ tình cảm mẹ con không khắng khít, chậm phát triển tâm thần vận động. Phân tích gộp năm 2014 tại Iran [11] cho thấy chứng sợ sinh con chiếm 39,33% những trường hợp mổ lấy thai không có chỉ định sản khoa và làm tăng tỷ lệ mổ lấy thai cấp cứu. Trong bối cảnh tỷ lệ mổ lấy thai trên toàn thế giới có xu hướng tăng, xấp xỉ 20% theo Betran (2014) [12] và các vấn đề về sức khỏe tâm thần đang nhận được sự quan tâm sâu sắc thì việc nghiên cứu về tỷ lệ thai phụ mắc chứng “sợ sinh con” là cần thiết, giúp có cái nhìn đúng đắn về thực trạng rối loạn tâm lý này, góp phần tạo nền tảng cho các nghiên cứu can thiệp nhằm giảm tỷ lệ mổ lấy thai cũng như chuẩn bị tốt nhất về mặt tinh thần để người phụ nữ có thể thực hiện thiên chức của mình như một trải nghiệm tuyệt vời trong cuộc sống. Với câu hỏi nghiên cứu “Tỷ lệ thai phụ mắc chứng sợ sinh con là bao nhiêu và những yếu tố nào ảnh hưởng đến tình trạng này?”, chúng tôi quyết định tiến hành đề tài nghiên cứu “Tỷ lệ thai phụ mắc chứng sợ sinh con và các yếu tố liên quan ở tam cá nguyệt ba tại Bệnh viện Hùng Vương”. Nghiên cứu với mục tiêu: 1. Xác định tỷ lệ thai phụ mắc chứng sợ sinh con ở tam cá nguyệt 3 tại Bệnh viện Hùng Vương; 2. Tìm một số yếu tố liên quan đến chứng sợ sinh con ở tam cá nguyệt 3 tại Bệnh viện Hùng Vương. 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang. Đối tượng: Thai phụ khỏe mạnh đến khám thai ở tam cá nguyệt 3 tại phòng khám thai Bệnh viện Hùng Vương. Tiêu chuẩn nhận bệnh: Các thai phụ khỏe mạnh đến khám thai tại phòng khám Bệnh viện phụ sản Hùng Vương. Các thai phụ đồng ý tham gia nghiên cứu. Tiêu chuẩn loại trừ: Thai phụ đang điều trị các bệnh về tâm thần. Thai phụ có các bệnh lý nội khoa kèm. Thai phụ không biết tiếng Việt. Thang đo FOBS (Fear of Birth Scale) là một thang đo thị giác gồm 2 yếu tố đánh giá sự lo lắng và sự hãi với câu hỏi “Bạn nghĩ gì về việc sắp sinh”. Thai phụ sẽ trả lời 39 bằng cách vạch trên 2 thước đo với hai đầu mút lần lượt là “không sợ hãi - sợ hãi”, “bình tĩnh - lo lắng”. Chiều dài thước là 100 mm. Cả hai giá trị sau đó được tính trung bình cộng và cho một điểm số chung. Cỡ mẫu Sử dụng công thức tính cỡ mẫu: N= z21-α p(1-p)/d 2 Chọn p = 0,5 vì đây là nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam về vấn đề này. Với độ tin cậy 95%, chúng tôi có được z1-α = 1,96; sai số d = 0,05. Vậy: N = = 384,196. Chúng tôi cần mẫu là 385. Cách tiến hành: Bước 1: Đánh giá bảng câu hỏi tự trả lời trên 30 thai phụ để có sự điều chỉnh phù hợp với nghiên cứu. 30 trường hợp này không được thu thập vào mẫu. Bước 2: Các thai phụ đồng ý tham gia nghiên cứu sẽ được ký tên vào bảng đồng thuận và phát cho bảng thu thâp số liệu, nghiên cứu viên sẽ giải thích nếu thai phụ không hiểu câu hỏi. Lấy mẫu tại phòng khám trong vòng 01 tháng từ ngày 01/11/2019 đến 30/11/2019. Bước 3: Thu thập và xử lý số liệu. Xử lý số liệu: Sử dụng phần mềm Excel để nhập số liệu và phần mềm thống kê R để xử lý kết quả và phân tích số liệu. Tính tỷ lệ hiện mắc của thai phụ trong thai kỳ ở tam cá nguyệt 3. Phân tích đơn biến để sàng lọc các yếu tố có khả năng liên quan đến chứng sợ sinh con. Nếu có sự khác biệt và tỷ lệ hiện mắc 2 nhóm, phân tích các yếu tố dẫn đến sự khác biệt bằng kiểm định Chi-square. Khác biệt được gọi là có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05. Phân tích đa biến nhằm kiểm soát các yếu tố gây nhiễu và tính toán OR hiệu chỉnh. 3. KẾT QUẢ Bảng 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu Đặc điểm Tổng số (N = 385) Tỷ lệ (%) Độ tuổi (X ± SD) tuổi) 29,07 ± 5,41 Nghề nghiệp Nhân viên văn phòng Buôn bán Nội trợ Công nhân Khác 80 54 139 63 49 20,78 14,03 36,1 16,36 12,73 Trình độ học vấn Cấp 1 Cấp 2 Cấp 3 Sau cấp 3 15 99 167 104 3,9 25.71 43.38 27,1 Thu nhập gia đình Dưới 10 triệu Từ 10 đến 15 triệu Từ 15 đến 20 triệu Trên 20 triệu 49 153 90 93 12,73 39,74 23,38 24,16 Nơi sinh sống Nông thôn Thành thị 164 221 42,6 57,40 Sống chung với ba mẹ ruột Có Không 58 327 15,06 84.94 Sống chung với ba mẹ chồng Có Không 173 212 44,94 55,06 Sống chung với chồng Có Không 372 13 96,62 3,38 Tuổi thai 28 đến 33 tuần 6 ngày 34 đến 36 tuần 6 ngày Trên 37 tuần 110 102 173 28,57 26,49 44,94 Số lần sinh 0 1 2 231 126 28 60.0 32,73 7,27 Số lần sinh thường 0 1 2 231 126 28 60,0 32,7 7,3 Số lần sinh giúp 0 1 371 14 96.4 3,6 Kinh nghiệm từ lần sinh trước Có Không 202 183 47,53 52,47 Thông tin từ bạn bè người thân Có Không 84 301 21,82 78,18 Thông tin từ sách báo, internet Có Không 247 138 64,16 35,84 Thông tin từ nhân viên y tế Có Không 102 283 26,49 73,51 Thông tin từ lớp học tiền sản Có Không 7 378 1,82 98,18 Thai phụ là nội trợ chiếm đa số (36,1%). Nơi sinh sống gần tương đương giữa nông thôn và thành thị. Trình độ văn hóa từ cấp 3 trở lên chiến hơn 70%. Có cơ hội tiếp xúc thông tin trên mạng chiếm đa số 64,16%. Huỳnh Nguyễn Khánh Trang và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(2):37-42. doi: 10.46755/vjog.2020.2.780 1,962 x 0,052 0,5 1-0,5 40 Bảng 2. Đặc điểm sợ sinh con ở đối tượng nghiên cứu Mắc chứng sợ sinh con Tổng số (N = 385) Tỷ lệ (%) KTC 95% Có 119 30,91 26,29 - 35,53 Không 266 69,09 64,47 - 73,70 Tỷ lệ thai phụ mắc chứng sợ sinh con trong nghiên cứu chiếm 30,91% tính theo thang đo FOBS. Với khoảng tin cậy 95%, ta có tỷ lệ ước lượng từ 26,29% đến 35,53%. Bảng 3. Phân tích đơn biến mối liên quan giữa kết cục sợ sinh con với các biến số độc lập Yếu tố FOC - (%) FOC + (%) OR KTC 95% P Tuổi mẹ, năm ≤ 20 20 - 25 25 - 30 30 - 35 35 - 40 > 40 6 (54,5) 43 (58,9) 101 (74,3) 58 (60,2) 54 (93,1) 4 (36,4) 5 (45,5) 30 (41,1) 35 (25,7) 38 (39,6) 4 (6,9) 7 (63,6) 11,3 9,4 4,7 8,8 Ref 23,6 5,1-24,9 5,3-16,7 2,7-8,1 5,1-15,5 Ref 10,5-53,3 0,002 < 0,001 0,005 < 0,001 Ref 0,4 Nơi cư trú Nội thành Ngoại thành 118 (71,9) 148 (66,9) 46 (28,1) 73 (33,1) Ref 1,3 Ref 0,8-1,9 Ref 0,3 Sống cùng cha mẹ Sống cùng cha mẹ chồng Sống cùng chồng 41 (70,7) 130 (75,1) 261 (70,1) 17 (29,3) 43 (24,9) 111 (29,8) 0,9 0,6 0,3 0,7-1,3 0,5-0,7 0,2-0,5 0,8 0,02 0,02 Conso Con rạ 106 (65,4) 160 (71,8) 56 (34,6) 63 (28,3) Ref 0,8 Ref 0,6-0,9 Ref 0,2 Sinh ngả âm đạo 1 lần 2 lần Tiền căn sinh giúp Sinh mổ 1 lần 2 lần 95 (75,4) 25 (89,3) 2 (14,3) 27 (65,9) 13 (81,3) 31 (24,6) 3 (10,7) 12 (85,7) 14 (34,2) 3 (18,8) 0,6 0,2 14,8 1,2 0,5 0,4-0,7 0,1-0,4 6,8-32,1 0,8-1,6 0,3-0,9 0,02 0,01 < 0,001 0,7 0,3 Trải nghiệm từ lần sinh trước, có 148 (73,3) 54 (26,7) 0,7 0,5-0,8 0,6 Thông tin từ bạn bè Thông tin từ sách, báo, internet Thông tin từ nhân viên y tế Thông tin từ lớp tiền sản 60 (71,4) 153 (61,9) 91 (89,2) 6 (85,7) 24 (28,6) 94 (38,1) 11 (10,8) 1 (14,3) 0,9 2,8 0,2 0,4 0,7-1,1 2,2-3,6 0,1-0,3 0,1-1,1 0,6 < 0,001 < 0,001 0,4 Các yếu tố đơn biến ghi nhận có ảnh hưởng đến chứng sợ sinh con như tuổi mẹ, sống cùng cha mẹ chồng hay chồng, tiền sử sinh con và thông tin về thai kỳ - quá trình sinh. Bảng 4. Phân tích đa biến mối liên quan giữa kết cục sợ sanh con với các biến số độc lập Yếu tố ảnh hưởng OR KTC 95% p Sống chung với chồng 0,2 0,15-0,48 0,022 Tiền căn sinh giúp 47,9 16,7-136,8 < 0,001 Tuổi thai 2,3 1,9-2,7 < 0,001 Thông tin từ sách báo, internet 2,5 1,7-3,5 < 0,001 Thông tin từ nhân viên y tế 0,15 0,1-0,2 < 0,001 Sau khi phân tích hồi quy đa biến còn 5 yếu tố có liên quan đến chứng sợ sinh trong nghiên cứu: cách yếu tố làm giảm sự sợ hãi là sống chung cùng chồng và được thông tin từ nhân viên y tế. Yếu tố làm tăng sư sợ hãi: Tiền sử sinh giúp, tuổi thai và các thông tin tự tìm trên internet. Huỳnh Nguyễn Khánh Trang và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(2):37-42. doi: 10.46755/vjog.2020.2.780 41Huỳnh Nguyễn Khánh Trang và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(2):37-42. doi: 10.46755/vjog.2020.2.780 4. BÀN LUẬN Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu tìm tỷ lệ thai phụ mắc chứng sợ sinh con ở ba tháng cuối thai kỳ. Theo phân tích gộp của Nilsson năm 2018 [13] từ các nghiên cứu ở 9 nước châu Âu, Úc, Canada và Hoa Kỳ, công cụ được sử dụng nhiều nhất để chẩn đoán và đánh giá lần lượt là bảng câu hỏi W-DEQ, thang đo thị giác (FOBS). Dù được sử dụng nhiều nhất nhưng nghiên cứu chúng tôi không chọn bảng câu hỏi W-DEQ vì phức tạp. Với thang đo FOBS, chiều dài thước là 100 mm có thể dễ dàng in lên bảng thu thập số liệu. Cả hai giá trị sau đó được tính trung bình cộng và cho một điểm số chung. FOBS được sử dụng ở Úc trong nghiên cứu của Haines (2011) [7] thực hiện tại Úc, với 1410 phụ nữ sử dụng cả hai công cụ FOBS và WD- EQ-A. Mối tương quan giữa hai công cụ theo phép kiểm Spearman’s Rho = 0,66. Với điểm cắt (cut-off) của FOBS là 54 điểm. Độ nhạy tính toán là 89%, đặc hiệu 79%, chỉ số Youden 0,68. Tỷ lệ sợ sinh con của nghiên cứu chúng tôi là 39,1% cao hơn với phân tích tổng hợp từ 33 nghiên cứu của Maeve A. O’Connell [14], gần với tỷ lệ của những nhóm nghiên cứu tại châu Á (25%). Tuy nhiên, nghiên cứu của Maeve A. O’Connell lấy tiêu chuẩn nhận vào là tất cả các nghiên cứu quan sát bất kể tuổi thai, nghiên cứu chúng tôi chỉ chọn những thai phụ ở tam cá nguyệt 3. Sự quan tâm giúp đỡ cũng như san sẻ kinh nghiệm của các thành viên trong gia đình trong suốt thai kỳ theo chúng tôi đánh giá là một yếu tố tác động quan trọng đến cảm xúc của thai phụ. Nghiên cứu ghi nhận 96,62% thai phụ chung sống với chồng, số còn lại do chồng đi làm xa. Nghiên cứu không ghi nhận trường hợp ly thân, ly dị hay mẹ đơn thân nào. Tại Ireland, Maeve A. O’Connell (2019) [9] cho biết chỉ có 89,9% thai phụ sống chung với chồng hoặc có bạn chung nhà. Kết quả phân tích hồi quy logis- tic cho thấy sống chung với chồng làm giảm tỷ lệ sợ sinh con có ý nghĩa thống kê với OR = 0,2, p = 0,022. Tương tự, Maeve A. O’Connel (2019) so sánh điểm số W-DEQ A giữa hai nhóm có sống cùng chồng và sống riêng thì nhóm sống riêng điểm số cao hơn có ý nghĩa thống kê với p < 0,001 [14]. Với phương cách sinh cho thấy những thai phụ từng sanh thường dù 1 hay 2 lần đều làm giảm có ý nghĩa thống kê tỷ lệ sợ sinh con với OR lần lượt là 0,56 và 0,21 với độ tin cậy 95%. Nhóm thai phụ có tiền căn sinh giúp có tỷ lệ sợ sinh con hơn so với nhóm không có tiền căn sinh giúp, với OR = 14,8 độ tin cậy 99%. Có lẽ việc sử dụng những dụng cụ hỗ trợ sổ thai làm thai phụ có những trải nghiệm không tốt và ảnh hưởng lâu dài đến cả thai kỳ sau. Tiền căn sinh mổ và tai biến thai kỳ không có mối liên quan chặt chẽ đến tỷ lệ sợ sinh con. Tuy nhiên, khi phân tích hồi quy đa biến, chúng tôi ghi nhận chỉ còn yếu tố tiền căn sinh giúp còn giữ được mối liên quan chặt chẽ với p < 0,001, OR hiệu chỉnh tính toán được là 16,7 - 136,8. Thông tin từ internet chiếm tỷ lệ khá cao với 64,16% thai phụ tham khảo nhưng lại làm tăng nguy cơ mắc chứng sợ sinh con. Phải chăng những nguồn thông tin không chính thống, chưa được kiểm duyệt bởi người có trình độ chuyên môn làm thai phụ thêm phần hoang mang và lo lắng. Tỷ lệ thai phụ được cung cấp thông tin từ nhân viên y tế chỉ chiếm 26,49% nhưng giúp giảm tỷ lệ sợ sinh con có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 99% với OR = 0,20. Kết quả này cho thấy sự giải thích cặn kẽ đúng chuyên môn của đội ngũ nhân viên y tế sẽ góp phần lớn đến tâm lý thoải mái đón nhận thai kỳ và cuộc sinh sắp tới của các thai phụ. Tuy nhiên, tỷ lệ thai phụ có sự trao đổi và gửi những thắc mắc đến các y bác sĩ để được giải đáp chưa cao. Nhân viên y tế khi khám chữa bệnh cần cởi mở hơn để thai phụ có thể đặt những câu hỏi liên quan đến thai kỳ cũng như cần chủ động cung cấp những thông tin hữu ích. Cả hai yếu tố trên khi đưa vào phân tích hồi quy đa biến, được OR hiệu chỉnh lần lượt là 1,7 - 3,5 cho nguồn thông tin từ sách báo, internet và 0,1 - 0,2 cho nguồn thông tin từ nhân viên y tế. Hạn chế của đề tài Sử dụng thang đo FOBS có thể nhận biết một thai phụ mắc chứng sợ sinh con hay không với mức độ tin cậy cao nhưng không phân nhóm rối loạn lo âu mà thai phụ đang mắc phải như công cụ WDEQ-A như: cảm xúc tiêu cực, thiếu cảm xúc tích cực, thiếu mối quan hệ xã hội, Thiết kế nghiên cứu cắt ngang cho thấy tình trạng tại thời điểm nghiên cứu nên tương quan nhân quả tương đối thấp và không phân tích chính xác diễn tiến tâm lý của thai phụ trong thai kỳ. 5. KẾT LUẬN Nghiên cứu: “Tỷ lệ thai phụ mắc chứng sợ sinh con và các yếu tố liên quan tại Bệnh viện Hùng Vương” với cỡ mẫu 385 trường hợp, chúng tôi ghi nhận được những kết quả sau: 1. Tỷ lệ sợ sinh con: Tỷ lệ sợ sinh con chung trong nghiên cứu là 30,91% KTC 95% [26,29 - 35,53]. Trong đó: ở nhóm thai phụ con so là 34,57% KTC 95% [29,82 - 39,32] và nhóm thai phụ con rạ là 28,25% KTC 95% [26,41 - 35,41]. 2. Một số yếu tố liên quan đến tỷ lệ sợ sinh con: (1) Sống chung với chồng làm giảm tỷ lệ sợ sinh con với OR = 0,20; KTC 95% [0,15 - 0,48] ; p = 0,02; (2) Tiền căn sinh giúp làm tăng tỷ lệ sợ sinh con với OR = 47,87; KTC 95% [16,7 - 136,8], p < 0,001; (3) Tuổi thai càng lớn càng tăng tỷ lệ sợ sinh con (với mỗi độ lệch chuẩn tăng thêm tương ứng 23 ngày ) với OR = 2,3, KTC 95% [1,9 - 2,7], p < 0,001; (4) Tham khảo thông tin từ sách báo, internet làm tăng tỷ lệ sợ sinh con với OR = 2,5, KTC 95% [1,7 - 3,5], p < 0,001; (5) Tham khảo thông tin từ nhân viên y tế làm giảm tỷ lệ sợ sinh con với OR = 0,15; KTC 95% [0,1 - 0,2], p < 0,001. 42 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Marcé Louis Victor (1858), «Traité de la folie des femmes enceintes, des nouvelles accouchées et des nour- rices: et considérations médico-légales qui se rattachent à ce sujet», Baillière, pp.26 2. Hofberg Kristina, et al. (2000), “Tokophobia: an unrea- soning dread of childbirth: A series of 26 cases”. The Brit- ish Journal of Psychiatry, 176 (1), pp. 83-85. 3. Johnson Rebecca, et al. (2002), “Does fear of child- birth during pregnancy predict emergency caesarean section?”. BJOG: An International Journal of Obstetrics & Gynaecology, 109 (11), pp. 1213-1221. 4. Hall Wendy A, et al. (2009), “Childbirth fear, anxiety, fa- tigue, and sleep deprivation in pregnant women”. Journal of Obstetric, Gynecologic, & Neonatal Nursing, 38 (5), pp. 567-576. 5. Korukcu O, et al. (2012), “The reliability and validity of the Turkish version of the Wijma Delivery Expectancy/Ex- perience Questionnaire (W DEQ) with pregnant women”. Journal of psychiatric and mental health nursing, 19 (3), pp. 193-202. 6. Takegata Mizuki, et al. (2013), “Translation and valida- tion of the Japanese version of the Wijma Delivery Ex- pectancy/Experience Questionnaire version A”. Nursing & health sciences, 15 (3), pp. 326-332. 7. Haines Helen, et al. (2011), “Cross-cultural comparison of levels of childbirth-related fear in an Australian and Swedish sample”. Midwifery, 27 (4), pp. 560-567. 8. Ternström Elin, et al. (2015), “Higher prevalence of childbirth related fear in foreign born pregnant wom- en-Findings from a community sample in Sweden”. Mid- wifery, 31 (4), pp. 445-450. 9. Lukasse Mirjam, et al. (2014), “Prevalence and asso- ciated factors of fear of childbirth in six European coun- tries”. Sexual & Reproductive Healthcare, 5 (3), pp. 99-106. 10. Rouhe Hanna, et al. (2015), “Life satisfaction, general well being and costs of treatment for severe fear of child- birth in nulliparous women by psychoeducative group or conventional care attendance”. Acta obstetricia et gyne- cologica Scandinavica, 94 (5), pp. 527-533. 11. Azami-Aghdash Saber, et al. (2014), “Prevalence and causes of cesarean section in Iran: systematic review and meta-analysis”. Iranian journal of public health, 43 (5), pp. 545. 12. Betran Ana Pilar, et al. (2014), “A systematic review of the Robson classification for caesarean section: what works, doesn’t work and how to improve it”. PloS one, 9 (6), pp. 769. 13. Nilsson C., et al. (2018), “Definitions, measurements and prevalence of fear of childbirth: a systematic review”. BMC Pregnancy and Childbirth, 18, pp. 28. 14. Maeve A. O’Connell, Patricia Leahy Warren, Louise C. Kenny, Sinéad M. O’Neill, Ali S. Khashan (2019) The preva- lence and risk factors of fear of childbirth among pregnant women: A cross sectional study in Ireland. Acta Obstetri- cia et Gynecologica Scandinavia. Volume 98. Issue 8, Au- gust 2019, p.1014-23. Huỳnh Nguyễn Khánh Trang và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(2):37-42. doi: 10.46755/vjog.2020.2.780

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfty_le_thai_phu_mac_chung_so_sinh_con_va_cac_yeu_to_lien_quan.pdf
Tài liệu liên quan