Gầy đây, các bức xạ ion hóa đã được nghiên cứu
về khả năng ứng dụng để khử trùng môi trường
nuôi cấy. Theo nghiên cứu của El-Hifnawi, chiếu
xạ gamma Co-60 có thể được dùng để khử trùng
môi trường nuôi cấy như môi trường agar dinh
dưỡng và môi trường TGY (Tryptone Glucose
Yeast extract) [28]. Các thí nghiệm nuôi cấy 7
chủng vi sinh (Bacillus cereus, Bacillus subtilis,
Micrococcus luteus, Salmonella typhinurium,
Pseudomonas aeruginosa, Staphylococcus aureus, Escherichia coli) trên môi trường được
khử trùng bằng chiếu xạ gamma Co-60 không
những cho kết quả phát triển không khác gì so
với phương pháp khử trùng nhiệt truyền thống
bằng nồi hấp khử trùng, mà còn cho thời hạn bảo
quản lâu hơn [28].
Các bức xạ ion hóa cũng được ứng dụng để tạo
ra các phân đoạn phân tử lượng thấp từ các polymer sinh học như chitosan, carrageenan, alginate,
v.v., từ đó có thể nghiên cứu tiềm năng ứng dụng
của chúng trong nông nghiệp. Cụ thể, sản phẩm
cắt mạch bức xạ của carrageenan đã được nghiên
cứu không những có khả năng kích thích sự phát
triển của cây dừa cạn Catharanthus roseus L. mà
còn giúp tăng hàm lượng lượng alkaloids [29].
Bên cạnh đó, các sản phẩm phân tử lượng thấp
hoặc oligomer của chitosan tạo ra bằng phương
pháp cắt mạch bức xạ không những giúp kích
thích sự sinh trưởng, phát triển và kích thích sự
miễn dịch của cây, mà còn cho hiệu quả tương tự
trên động vật nuôi như tôm, cá tra, v.v. [30 – 33].
Các bức xạ (phát ra từ các đồng vị phóng xạ) cũng
được ứng dụng trong lĩnh vực khoa học thực vật
để nghiên cứu dinh dưỡng cây trồng, chủ yếu là
các nghiên cứu về sự hấp thu các nguyên tố vết
(hàm lượng nhỏ), nghiên cứu về sự hấp thụ phân
bón ở thực vật và sự di chuyển của các ion từ môi
trường đất vào thực vật, sự di chuyển của các ion
khoáng trong cơ thể thực vật, nghiên cứu cơ chế
của quang hợp, cơ chế hoạt động của thuốc bảo
vệ thực vật và sự chuyển hóa chất ở thực vật [34].
Ngoài ra, các bức xạ còn được sử dụng để nghiên
cứu tạo đột biến cây trồng. Đột biến (quá trình
tạo ra các biến thể mới [alen] của gen) là nguồn
gốc chính của tất cả các biến thể di truyền ở thực
vật cũng như ở bất kỳ sinh vật nào khác [35, 36].
Từ những năm 1960, tia gamma đã trở thành tác
nhân gây đột biến được sử dụng phổ biến nhất
trong nhân giống đột biến thực vật [37]. Các công
bố đầu tiên về đột biến gây ra (thông qua tia X)
đối với việc tạo giống cây trồng đã được Muller
và Stadler xuất bản cách đây hơn 90 năm [37, 38].
Các đột biến vật lý, chủ yếu là bức xạ ion hóa, có
thể làm tăng tỷ lệ đột biến tự nhiên gấp 1.000 đến
1 triệu lần, và đã được sử dụng rộng rãi để gây ra
các thay đổi di truyền. Hơn 70% các giống cây
trồng đột biến được cảm ứng và phóng thích đã
được phát triển bằng cách sử dụng các đột biến
vật lý.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng bức xạ ion hóa trong sinh học và y tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
25Số 65 - Tháng 12/2020
1. GIỚI THIỆU
Bức xạ ion hóa bao gồm tia X, tia gamma, chùm
tia điện tử, tia alpha, tia beta, tia neutron, tia posi-
tron. Trong đó, tia X, tia gamma, chùm tia điện
tử có thể ứng dụng ở quy mô công nghiệp. Bức
xạ ion hóa gây ra tác động lên sinh vật theo cơ
chế trực tiếp và cơ chế gián tiếp. Trong cơ chế
trực tiếp, năng lượng của bức xạ tác động trực
tiếp đến DNA, dẫn đến sự ion hóa nucleobase và
các phân tử đường tạo ra đứt gãy chuỗi đơn và
đôi của DNA. Tuy nhiên, khoảng 65% tổn thương
DNA được gây ra bởi tác động gián tiếp của bức
xạ ion hóa. Trong cơ chế tác động này, bức xạ ion
hóa phân ly các phân tử nước tạo ra các gốc tự
do, và chúng sẽ tác động lên các đại phân tử sinh
học trong đó quan trọng nhất là gây tổn thương
và đứt gãy DNA, dẫn đến tổn thương tế bào, làm
tế bào chết và gây ra các đột biến thứ cấp khác [1
- 3]. Đây chính là cơ chế diệt vi sinh vật gây hại,
diệt tế bào ung thư, mầm bệnh, bất dục côn trùng
v.v. của bức xạ ion hóa. Ngoài ra, năng lượng của
các bức xạ ion hóa cũng có thể tác động trực tiếp
hoặc gián tiếp thông qua các gốc tự do lên cấu
trúc hóa học của các chất, từ đó cho ra hiệu ứng
cắt mạch, khâu mạch, ghép mạch polymer và có
thể giúp phân hủy các chất thải, chất độc hại [4 -
6]. Do đó, bức xạ ion hóa đang được nghiên cứu
cũng như ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực
đời sống như nông nghiệp, y dược, công nghệ
thực phẩm, xử lý môi trường, v.v. Năm 2019, thị
trường ứng dụng bức xạ ion hóa toàn cầu ước đạt
40 tỉ USD [7]. Trong đó, giá trị thị trường ở Hoa
Kỳ là 532 triệu USD, Nhật Bản là 233 triệu USD
[7]. Trong giới hạn nghiên cứu này, việc ứng dụng
bức xạ ion hóa vào lĩnh vực sinh học và y tế sẽ
được đề cập.
2. ỨNG DỤNG BỨC XẠ ION HÓA VÀO LĨNH
VỰC Y TẾ
Từ năm 1959, Artandli và Van Winkle đã đề xuất
việc sử dụng bức xạ ion hóa với liều chiếu là 25
kGy để khử trùng các thiết bị dùng trong y tế.
Đây là liều chiếu cao hơn 40% so với liều chiếu tối
ỨNG DỤNG BỨC XẠ ION HÓA
TRONG SINH HỌC VÀ Y TẾ
Ngày nay, bức xạ ion hóa được quan tâm nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi trong rất nhiều lĩnh
vực đời sống, đặc biệt là trong lĩnh vực y tế và sinh học. Trong y tế, bức xạ ion hóa được ứng dụng
để khử trùng các dụng cụ và thiết bị; khử trùng mô trong cấy ghép; tạo ra các vật liệu trực tiếp hoặc
gián tiếp ứng dụng hỗ trợ làm lành vết thương và điều trị sẹo; tạo ra các sản phẩm có dược tính; tổng
hợp các hệ mang dược chất có kích thước nano; giúp chuẩn đoán, điều trị ung thư và một số bệnh
khác.
Trong sinh học, bức xạ ion hóa được ứng dụng trong nuôi cấy vi sinh vật; giúp nghiên cứu
tạo ra các sản phẩm ứng dụng cho cây trồng, vật nuôi; giúp kiểm soát côn trùng gây hại mùa màng;
ứng dụng trong khoa học thực vật để nghiên cứu về sự chuyển hóa chất, dinh dưỡng cây trồng và tạo
giống đột biến. Bên cạnh những ưu điểm, việc ứng dụng bức xạ ion hóa trong sinh học và y tế còn
tồn tại một số nhược điểm cần được nghiên cứu khắc phục. Hơn nữa, việc nghiên cứu tìm ra hướng
ứng dụng mới của bức xạ ion hóa trong lĩnh vực sinh học và y tế là một việc làm cần thiết vì nó không
những giúp nâng cao tiềm năng ứng dụng, cũng như ý nghĩa khoa học, mà còn giúp mang lại giá trị
về mặt kinh tế cho hướng ứng dụng bức xạ ion hóa trong tương lai.
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
26 Số 65 - Tháng 12/2020
thiểu để diệt 150 loài vi sinh khác nhau, bao gồm
cả các loài kháng xạ [8, 9].
Bên cạnh đó, các bức xạ ion hóa còn được ứng
dụng trong lĩnh vực cấy ghép mô. Trong lĩnh
vực này, có một thực tế hiện hữu đó là nguy cơ
mắc bệnh truyền nhiễm từ các mô chuyển như
xương, mô mềm, màng ối, v.v. [8]. Cụ thể, Staph-
ylococci sp., coagulase-negative staphylococci,
Gram-positive bacilli, Clostridium sp., Propioni-
bacterium, coagulase-negative Staphylococcus,
Pseudomonas aeruginosa, Klebsiella oxytoca,
Lactobacillus species, Peptostreptococcus asac-
charolyticus và Streptococcus sanguinis, hepatitis
B virus (HBV), hepatitis C virus (HCV), human
immuno-deficiency virus (HIV), and human T-
lymphotropic virus (HTLV) là các vi khuẩn và vi-
rus thường được phát hiện trên các mô chuyển [8].
Việc sử dụng ethylene oxide để khử trùng thường
tạo ethylene chlorohydrin, là một chất độc đối với
cơ thể. Trong khi đó, việc khử trùng mô chuyển
bằng peracetic acid-ethanol ứng dụng trong cấy
ghép xương, hạ bì, màng ối, thường làm giảm
đặc tính sinh học của mô chuyển và tạo ra một
số khó khăn nhất định ảnh hưởng đến hiệu quả
của quy trình cấy ghép [10]. Mặt khác, việc ngâm
mô chuyển vào thuốc kháng sinh cũng không cho
hiệu quả khử trùng cao do không có khả năng
thâm nhập hoàn toàn vào mô, cũng như không
có khả năng loại trừ được virus [8, 10]. Trong
khi đó, việc sử dụng các bức xạ để loại bỏ mầm
bệnh là biện pháp thích hợp nhất vì đây là biện
pháp rẻ tiền, an toàn, hiệu quả, có thể thực hiện
ở nhiệt độ mẫu dưới 0oC, có thể diệt được virus
và không tạo ra sản phẩm phụ có độc tính trong
mô chuyển [8, 11, 12]. Trong đó, bức xạ gamma
được cho là có hiệu quả nhất trong lĩnh vực ứng
dụng này. Khả năng xuyên sâu của tia gamma làm
cho phần lớn mô cứng, mô mềm được khử trùng
và tác động tức thời cho toàn bộ mục tiêu [8, 11].
Liều chiếu đề xuất cho việc khử trùng mô chuyển
là 25 kGy và đa số các ngân hàng mô đều sử dụng
liều chiếu này [8]. Tuy một vài ngân hàng mô lại
sử dụng liều chiếu cao hơn hoặc thấp hơn mức
25 kGy, nhưng liều chiếu luôn nằm trong khoảng
15 đến 35 kGy [8]. Tuy nhiên, một số nghiên cứu
gần đây cho thấy phương pháp này cũng có một
số nhược điểm nhất định. Cụ thể, các gốc tự do
tạo ra do bức xạ ion hóa cũng gây đứt gãy các
phân tử collagen, đồng thời tạo ra các liên kết
chéo ở các phân tử collagen chưa trưởng thành
[13]. Việc chiếu ở liều xạ trên 50 kGy có thể gây ra
nhiều sự thay đổi về hóa, lý, từ đó làm ảnh hưởng
đến chức năng sinh học của mô như: khả năng
tái tạo xương, đặc tính cơ học của xương, của các
mô liên kết, v.v.
Trong lĩnh vực làm lành vết thương và điều trị
sẹo, các bức xạ cũng cho thấy tiềm năng ứng dụng
to lớn. Cụ thể, việc tạo ra vật liệu từ 2 loại poly-
mer sinh học là chitosan và gelatin được cho là có
hiệu quả hỗ trợ rất tốt cho làm lành vết thương
[14]. Trong khi đó, kết quả nghiên cứu của Nas-
reen và cộng sự cho thấy, phương pháp chiếu xạ
gamma giúp tăng các đặc tính nhiệt cơ học cho
vật liệu này. Ngoài ra, việc sử dụng phương pháp
chiếu xạ gamma còn có những ưu điểm như: có
thể rút ngắn thời gian, có thể thực hiện liên tục,
giảm ô nhiễm môi trường, thực hiện ở nhiệt độ
thường, v.v. [14]. Nghiên cứu Madian và cộng sự
cũng cho thấy việc chiếu xạ màng chitosan bằng
bức xạ gamma ở liều 5 kGy đã giúp cải thiện các
đặc tính vật lý của nó. Từ đó, giúp gia tăng hiệu
quả sử dụng trong hỗ trợ làm lành vết thương
[15]. Mặt khác, kết quả nghiên cứu của Casimiro
và cộng sự cũng cho thấy, việc chiếu xạ chitosan/
PVP (5%) bằng bức xạ gamma ở liều chiếu 10
kGy đã tạo ra sản phẩm có hiệu quả cao trong
việc hỗ trợ quá trình tái sinh của da [16].
Các bức xạ ion hóa còn được ứng dụng để tạo
ra các nguyên vật liệu được sử dụng để tạo ra
các sản phẩm mới ứng dụng trong y tế. Cụ thể,
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
27Số 65 - Tháng 12/2020
việc ghép mạch cho các polymer sinh học như
chitosan, cellulose, alginate, gelatin, v.v. đã giúp
tăng khả năng ứng dụng của các polymer sinh
học này [17]. Trong đó, việc ghép mạch bằng
phương pháp bức xạ không những mang lại hiệu
quả ghép cao, mà còn hạn chế được sự tồn dư
của các vật liệu, sản phẩm phụ trong sản phẩm.
Mặt khác, bức xạ ion hóa còn được sử dụng để
cắt mạch nhằm tạo ra các phân tử polymer sinh
học có phân tử lượng thấp hoặc oligomer (với
ưu điểm là đơn giản, rẻ tiền và không bị lẫn các
tạp chất), làm nguyên liệu để tạo ra các sản phẩm
ứng dụng trong lĩnh vực y tế. Cụ thể, oligochi-
tosan với khối lượng phân tử 2,7 kDa được tạo
ra bằng phương pháp cắt mạch bức xạ chitosan
trong sự hiện diện của H2O2 5%, là nguyên liệu lý
tưởng để tổng hợp phức hợp nano với curcumin
với kích thước tạo thành khoảng 100 nm (sức tải
curcumin lên đến 85%), cho hiệu quả cao trong
việc hỗ trợ làm lành vết thương và điều trị sẹo
[18]. Bên cạnh đó, việc bao phủ oligochitosan cắt
mạch bức xạ lên bề mặt hệ mang nanliposome
chứa curcumin cũng đã cho hiệu quả sinh học rất
tốt trong việc hỗ trợ làm lành vết thương và điều
trị sẹo ở điều kiện in vivo [19]. Mặt khác, glucosa-
mine được ứng dụng trong y tế do nó có khả năng
kháng viêm, có hoạt tính kháng oxi hóa, chống
lão hóa, bảo vệ tim mạch, bảo vệ gan, bảo vệ tế
bào và giúp ích cho các bệnh xương khớp [20].
Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Nguyen và cộng
sự, chiếu xạ gamma Co-60 với liều chiếu 30 kGy
là một bước quan trọng trong toàn bộ quy trình
tạo glucosamine từ nguyên liệu chitin [21].
Bức xạ ion hóa còn được sử dụng để tổng hợp
các hệ mang thuốc có kích thước nano và đây
là phương pháp đơn giản và tương đối “sạch”.
Ví dụ, bằng việc sử dụng bức xạ gamma ở liều
chiếu 2 kGy, Pasanphan và cộng sự đã thành công
trong việc ghép poly(ethylene glycol) monometh-
acrylate lên hạt nano deoxycholate-chitosan tạo
ra hệ mang thuốc có kích thước 80 nm và có khả
năng kiểm soát tốc độ phóng thích cho dược chất
berberin trong 23 ngày [22].
Các bức xạ ion hóa còn được ứng dụng rất
nhiều trong việc chuẩn đoán bệnh. Cụ thể, việc
sử dụng tia X đã trở nên rất phổ biến trong việc
chuẩn đoán bệnh bằng hình ảnh, đặc biệt là đối
với các bệnh liên quan đến phổi, ung thư hay các
tổn thương về xương, v.v. Ngoài ra, bức xạ cũng
được ứng dụng trong việc chụp ảnh để chẩn đoán
ung thư (xạ hình). Cụ thể, đồng vị Flo-18 được
gắn trên phân tử đường glucose để tạo ra phân
tử Gludeoxyglucose (FDG) [23]. Khi tiêm FDG
vào cơ thể thì FDG sẽ được tập trung phần lớn
ở các tế bào ung thư do glucose là nguyên liệu
mà tế bào ung thư sử dụng với lượng gấp nhiều
lần so với tế bào thường. Thông qua bức xạ phát
ra từ FDG, có thể ghi lại hình ảnh 3-D của mô
ung thư thông qua máy PET/CT [23]. Ngoài ra,
việc sử dụng 99mTc (hoặc 123I, 131I) được gắn với
dược chất hướng đích chuyên biệt cho từng loại
ung thư được đưa vào cơ thể bệnh nhân. Các chất
này sẽ tập trung ở các mô ung thư, phát ra bức xạ
gamma, beta và bằng việc sử dụng máy SPECT
hoặc SPECT/CT, hình ảnh của khối u sẽ được ghi
lại [24].
Việc sử dụng các đồng vị phát ra các bức xạ khác
nhau với các mức năng lượng khác nhau được
ứng dụng trong phương pháp xạ trị ung thư [23].
Ví dụ, 131I được dùng để điều trị ung thư tuyến
giáp, 32P được dùng để điều trị ung thư máu, ung
thư di căn vào phúc mạc, xương, v.v. Các đồng
vị thường sử dụng trong xạ trị chuyển hóa và xạ
trị áp sát được thống kê trong Bảng 1 và Bảng 2.
Ngoài ra, bức xạ gamma Co-60 còn được chỉ định
xạ trị chiếu ngoài cho hầu hết các loại ung thư.
Bên cạnh đó, các bức xạ phát ra từ các nguyên
tố đồng vị 32P, 89Sr, 153Sm, 186Re và 188Re còn được
ứng dụng để điều trị giảm đau cho ung thư di căn
xương (Bảng 3). 32P cũng được sử dụng để điều
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
28 Số 65 - Tháng 12/2020
trị bệnh đa hồng cầu nguyên phát. Các bức xạ
phát ra từ các đồng vị 90Y, 186Re, 169Er, 32P và 165Dy
cũng thường được sử dụng để điều trị các bệnh
về khớp gối, khớp hông, khớp vai, khớp khuỷu,
cổ chân, cổ tay, đốt ngón bàn tay, bàn chân. Bên
cạnh đó, điều trị đích bằng kháng thể gắn đồng
vị phóng xạ hiện nay cũng đang được nghiên cứu
và phát triển. Các đồng vị phóng xạ như: 131I,
90Y, 177Lu, 188Re, 67Cu, 225Ac, 211At, 213Bi and 223Ra
được sử dụng trong điều trị đích và ví dụ cho sự
thành công trên lâm sàng trong hơn hai thập niên
qua là các sản phẩm Bexxa và Xevalin trong điều
trị ung thư lympho bào B không Hodgkin. Tuy
nhiên, việc ứng dụng bức xạ vào điều trị một số
bệnh, nhất là bệnh ung thư cũng gây ra một số tác
dụng phụ không mong muốn. Cụ thể, các bức xạ
ngoài việc tiêu diệt tế bào ung thư thì cũng luôn
gây tác dụng phụ lên tế bào lympho (thành phần
của máu) và ảnh hưởng nghiêm trọng đến các tế
bào da (Hình 1). Theo nghiên cứu của Carvalho
và Villar, các tế bào lympho (lympho B, lympho
T và lympho NK) là các đối tượng rất nhạy cảm
với tia bức xạ. Trong đó, các tia bứa xạ gây ảnh
hưởng đến chu trình tế bào, đến quá trình tổng
hợp mRNA và sự sinh tổng hợp protein, gây tổn
thương DNA, gây đột biến các tế bào này và thúc
đẩy quá trình “apoptosis” (chết theo chu trình) ở
các tế bào lympho T và lympho B trưởng thành
[25, 26]. Hơn thế nữa, các nghiên cứu cũng cho
thấy việc chiếu xạ trực tiếp vào vùng tủy xương
làm giảm đáng kể số lượng tế bào lympho, cũng
như làm suy giảm nhanh chóng khả năng miễn
dịch của cơ thể bệnh nhân, làm gia tăng khả năng
mắc các bệnh truyền nhiễm [25]. Bên cạnh đó,
các tia bức xạ dùng trong xạ trị ung thư có thể
gây tác dụng phụ sớm (bao gồm: ban đỏ, bong vảy
khô, tăng sắc tố và rụng lông, tóc) và tác dụng phụ
muộn (teo da, khô, giãn da, loạn sắc tố, xơ hóa và
loét) cho bệnh nhân [27]. Theo nghiên cứu của
Lacouture và cộng sự và của tổ chức Grandround,
phản ứng cấp tính của da dưới tác động của tia
bức xạ rất phổ biến, ảnh hưởng 80-100% bệnh
nhân được xạ trị và hầu hết đều gây ảnh hưởng ít
nhiều đến chất lượng cuộc sống của họ. Hơn nữa,
ở một số bệnh nhân xạ trị vùng đầu và cổ hoặc
vùng xương chậu thì các tác động của tia bức xạ
lên da càng nghiêm trọng hơn bao gồm gây ngứa,
đau, nhiễm trùng và nghiêm trọng hơn là trong
một số trường hợp dẫn đến gián đoạn việc điều
trị. Ngoài ra, các bức xạ này cũng gây ảnh hưởng
tiêu cực đến các tế bào lành xung quanh mô ung
thư.
Hình 1. Ảnh hưởng của bức xạ ion hóa lên tế bào lym-
pho, da và các tế bào lành xung quanh mô ung thư
Bảng 1. Một số đồng vị phóng xạ phổ biến ứng
dụng trong xạ trị chuyển hóa
Bảng 2. Một số đồng vị dùng trong điều trị áp sát
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
29Số 65 - Tháng 12/2020
Bảng 3. Một số đồng vị phóng xạ dùng điều trị
giảm đau ưng thư di căn xương
3. ỨNG DỤNG BỨC XẠ TRONG SINH HỌC
Gầy đây, các bức xạ ion hóa đã được nghiên cứu
về khả năng ứng dụng để khử trùng môi trường
nuôi cấy. Theo nghiên cứu của El-Hifnawi, chiếu
xạ gamma Co-60 có thể được dùng để khử trùng
môi trường nuôi cấy như môi trường agar dinh
dưỡng và môi trường TGY (Tryptone Glucose
Yeast extract) [28]. Các thí nghiệm nuôi cấy 7
chủng vi sinh (Bacillus cereus, Bacillus subtilis,
Micrococcus luteus, Salmonella typhinurium,
Pseudomonas aeruginosa, Staphylococcus au-
reus, Escherichia coli) trên môi trường được
khử trùng bằng chiếu xạ gamma Co-60 không
những cho kết quả phát triển không khác gì so
với phương pháp khử trùng nhiệt truyền thống
bằng nồi hấp khử trùng, mà còn cho thời hạn bảo
quản lâu hơn [28].
Các bức xạ ion hóa cũng được ứng dụng để tạo
ra các phân đoạn phân tử lượng thấp từ các poly-
mer sinh học như chitosan, carrageenan, alginate,
v.v., từ đó có thể nghiên cứu tiềm năng ứng dụng
của chúng trong nông nghiệp. Cụ thể, sản phẩm
cắt mạch bức xạ của carrageenan đã được nghiên
cứu không những có khả năng kích thích sự phát
triển của cây dừa cạn Catharanthus roseus L. mà
còn giúp tăng hàm lượng lượng alkaloids [29].
Bên cạnh đó, các sản phẩm phân tử lượng thấp
hoặc oligomer của chitosan tạo ra bằng phương
pháp cắt mạch bức xạ không những giúp kích
thích sự sinh trưởng, phát triển và kích thích sự
miễn dịch của cây, mà còn cho hiệu quả tương tự
trên động vật nuôi như tôm, cá tra, v.v. [30 – 33].
Các bức xạ (phát ra từ các đồng vị phóng xạ) cũng
được ứng dụng trong lĩnh vực khoa học thực vật
để nghiên cứu dinh dưỡng cây trồng, chủ yếu là
các nghiên cứu về sự hấp thu các nguyên tố vết
(hàm lượng nhỏ), nghiên cứu về sự hấp thụ phân
bón ở thực vật và sự di chuyển của các ion từ môi
trường đất vào thực vật, sự di chuyển của các ion
khoáng trong cơ thể thực vật, nghiên cứu cơ chế
của quang hợp, cơ chế hoạt động của thuốc bảo
vệ thực vật và sự chuyển hóa chất ở thực vật [34].
Ngoài ra, các bức xạ còn được sử dụng để nghiên
cứu tạo đột biến cây trồng. Đột biến (quá trình
tạo ra các biến thể mới [alen] của gen) là nguồn
gốc chính của tất cả các biến thể di truyền ở thực
vật cũng như ở bất kỳ sinh vật nào khác [35, 36].
Từ những năm 1960, tia gamma đã trở thành tác
nhân gây đột biến được sử dụng phổ biến nhất
trong nhân giống đột biến thực vật [37]. Các công
bố đầu tiên về đột biến gây ra (thông qua tia X)
đối với việc tạo giống cây trồng đã được Muller
và Stadler xuất bản cách đây hơn 90 năm [37, 38].
Các đột biến vật lý, chủ yếu là bức xạ ion hóa, có
thể làm tăng tỷ lệ đột biến tự nhiên gấp 1.000 đến
1 triệu lần, và đã được sử dụng rộng rãi để gây ra
các thay đổi di truyền. Hơn 70% các giống cây
trồng đột biến được cảm ứng và phóng thích đã
được phát triển bằng cách sử dụng các đột biến
vật lý. Các đột biến cảm ứng được sử dụng để cải
thiện các giống cây trồng chống chịu trong hơn
80 năm qua ở khắp nơi trên thế giới [37]. Hiện
nay, theo dữ liệu của FAO/IAEA có 3.363 giống
cây trồng đột biến đã được đăng ký [39]. Một vài
ví dụ về ứng dụng của bức xạ trong tạo giống đột
biến như tạo giống lúa, giống cà chua đột biến
bằng tia gamma [40, 41], hoặc sử dụng tia-X để
tạo giống đột biến cà phê [42].
Các bức xạ ion hóa còn được ứng dụng trong sinh
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
30 Số 65 - Tháng 12/2020
học để nghiên cứu về sự bất dục và khả năng ức
chế sự phát triển của côn trùng nhằm ứng dụng
trong việc kiểm soát các loài côn trùng gây hại
trong nông nghiệp. Ví dụ, bức xạ gamma với liều
xạ thích hợp đã được sử dụng để tiêu diệt trứng
cũng như ngăn cản sự phát triển của sâu non tuổi
III thành con trưởng thành, đồng thời cũng để
bất dục ruồi đực của các loài hại quả như Bac-
trocera dosalis, Bactrocera zonata, Bactrocera
tryoni, v.v. giúp kiểm soát sự gây hại của các loài
này [43 – 46]. Ngoài ra, các bức xạ ion hóa còn
được nghiên cứu để bất hoạt hoặc tiêu diệt các
sinh vật gây hại nhằm ứng dụng trong công nghệ
thực phẩm. Trong đó, việc chiếu xạ không những
giúp loại bỏ các loài vi sinh vật gây hư hỏng thực
phẩm và gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người
như Salmonella và Escherichia coli, v.v. để bảo
quản thực phẩm lâu hơn, mà còn giúp giảm tác
hại hoặc tiêu diệt côn trùng, sinh vật ký sinh
trong nông sản, thực phẩm, và giúp ngăn cản sự
nảy mầm hoặc sự chín quả. Các loại bức xạ dùng
trong lĩnh vực này bao gồm bức xạ gamma, tia X
và chùm tia điện tử [47, 48]. Trong đó, liều chiếu
được khuyến cáo không nên vượt quá 10 kGy để
không tạo ra các sản phẩm phụ ảnh hưởng đến
sức khỏe người tiêu dùng [48]. Một số liều chiếu
khuyến nghị được thể hiện trong Bảng 4.
Bảng 4. Liều chiếu sử dụng trong chiếu xạ thực
phẩm
4. KẾT LUẬN
Bức xạ ion hóa ngày càng được nghiên cứu và
ứng dụng rộng rãi trong đời sống với tốc độ phát
triển hàng năm ở mức cao, đặc biệt là trong lĩnh
vực sinh học và y tế. Bên cạnh những ưu điểm, lợi
ích mà nó mang lại thì vẫn còn tồn đọng những
nhược điểm cần phải giải quyết như: các tác dụng
phụ gây ra trong bảo quản mô chuyển cấy ghép;
gây ảnh hưởng đến các tế bào lành (tế bào lym-
pho, tế bào da và các tế bào lành xung quanh mô
ung thư) từ đó ảnh hưởng đến sức khỏe và ảnh
hưởng đến đời sống bệnh nhân trong và sau quá
trình xạ trị ung thư; làm giảm hàm lượng của các
chất hoạt tính sinh học có ích trong quá trình
chiếu xạ bảo quản thực phẩm, nông sản. Hơn
nữa, việc nghiên cứu tìm ra hướng ứng dụng mới
của bức xạ ion hóa trong lĩnh vực sinh học và y tế
là một việc làm cần thiết vì nó không những giúp
nâng cao tiềm năng ứng dụng, cũng như ý nghĩa
khoa học cho bức xạ ion hóa, mà còn giúp mang
lại giá trị về mặt kinh tế.
Nguyễn Minh Hiệp và cộng sự
Viện Nghiên cứu hạt nhân
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Kalpana KB, Devipriya N, Srinivasan M. Inves-
tigation of the radioprotective efficacy of hesperidin
against gamma-radiation induced cellular damage in
cultured human peripheral blood lymphocytes. Mu-
tat. Res., Genet. Toxicol. Environ. Mutagen. 2009;
676:54-61.
[2] Furdui CM. Ioning radiation: mechanism and
therapeutics. Antioxid. Redox Signaling 2014; 21:218-
220.
[3] Reisz JA, Bansal N, Qian J, Zhao W, Furdui CM.
Effects of Ionizing Radiation on Biological Molecules–
Mechanisms of Damage and Emerging Methods of
Detection. Antioxid. Redox Signaling 2014;21:260-
292.
[4] Albano C, Perera R, Silva P. Effects of gamma ra-
diation in polymer blends, in composites with micro
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
31Số 65 - Tháng 12/2020
and nano filler and in functionalized polyolefins. Rev.
LatinAm. Metal. Mater. 2010; 30:1.
[5] Bashir K, Aggarwal M. Physicochemical, structur-
al and functional properties of native and irradiated
starch: a review. J. Food Sci. Technol. 2019; 56:513-
523.
[6] Chmielewski AG. Application of ionizing radiation
to enviorment protection. Nukleonika 2005; 50:17-34.
[7] Bezdek R. Global market for radiation applica-
tions. Project: Nuclear Energy Application 2020, DOI:
10.1016/B978-0-12-409548-9.12336-X.
[8] Singh R, Sing D, Sing A. Radiation sterilization
of tissue allografts: A review. World J. Radiol. 2016;
8:355-369.
[9] IAEA. Guidelines for industrial radiation sterili-
zation of disposable medical products. IAEA-TEC-
DOC-539. International Atomic Energy Agency, Vi-
enna, Austria 1990.
[10] Tom JA, Rodeo SA. Soft tissue allografts for knee
reconstruction in sports medicine. Clin. Orthop.
Relat. Res. 2002; 402:135-156.
[11] Grieb TA, Forng RY, Stafford RE, Lin J, Almeida J,
Bogdansky S, Ronholdt C, Drohan WN, Burgess WH.
Effective use of optimized, high-dose (50 kGy) gamma
irradiation for pathogen inactivation of human bone
allografts. Biomaterials 2005; 26: 2033-2042.
[12] Smith RA, Ingels J, Lochemes JJ, Dutkowsky JP,
Pifer LL. Gamma irradiation of HIV-1. J. Orthop. Res.
2001; 19: 815-819.
[13] Cheung DT, Perelman N, Tong D, Nimni ME. The
effect of gamma-irradiation on collagen molecules,
isolated alpha-chains, and crosslinked native fibers. J.
Biomed. Mater. Res. 1990; 24:581-589.
[14] Nasreen Z, Mubarak AK, Mustafa AI. Improved
biodegradable radiation cured polymeric film pre-
pared from chitosan-gelatin blend. J. Appl. Chem.
2016; 5373670.
[15] Madian NG, El-Hossainy M, Khalil WA. Im-
provement of the physical properties of chitosan by
γ-ray degradation for wound healing. Results Phys.
2018; 11:951-955.
[16] Mahmud M, Naziri MI, Yaacob N, Talip N. Deg-
radation of chitosan by gamma ray with presence of
hydrogen peroxide. AIP Conf. Proc. 2015; 1584:136-
140.
[17] Pino-Ramos VH, Melendez-Ortiz HI, Ramos-
Ballesteros AR, Bucio E. Radiation grafting of biopol-
ymers and synthetic polymers: synthesis and biomed-
ical applications. Biopolym. Grafting 2018: Chapter
6:205-250.
[18] Nguyen MH, Lee SE, Tran TT, Bui CB, Nguyen
THN, Vu NBD, Tran TT, Nguyen THP, Nguyen TT,
Hadinoto K. A simple strategy to enhance the in vivo
wound-healing activity of curcumin in the form of
seft-assembled nanoparticle complex of curcumin
and oligochitosan. Mater. Sci. Eng. C 2019; 98:54-64.
[19] Nguyen MH, Vu NBD, Nguyen THN, Le HS,
Le HT, Tran TT, Le XC, Le VT, Nguyen TT, Bui CB,
Park HJ. In vivo comparison of wound healing and
scar treatment effect between curcumin – oligochi-
tosan nanoparticle complex and oligochitosan-coated
curcumin-loaded-liposome. J. Microencapsul. 2019;
36:156-168.
[20] Jamialahmadi K. Beneficial applications of glu-
cosamin. Mol. Nutr. Carbohydr. 2019; Chapter 19:
319-336.
[21] Nguyen TM, Tran TT, Tran TH, Pham TS, Pham
TLH, Tran TT. Preparation of glucosamine hydro-
chloride and glucosamine sulfate from irradiated chi-
tin. The Annual Report for 2008 (VINATOM) 2008,
218-222.
[22] Pasanphan W, Rattanawongwiboon T, Rimdusit
P, Piroonpan T. Radiation-induced graft copolym-
erization of poly(ethylene glycol)monomethacrylate
onto deoxucholate-chitosan nanoparticles as a drug
carrier. Radiat. Phys. Chem. 2014; 94:199-204.
[23] Yoon H, Shah K, Small-Jr W, Mehta MP, Hayes JP.
Chapter 1: Basic concepts of clinical radiation oncol-
ogy. In Small-Jr W (ed.) Clinical Radiation Oncology:
Indicators, Techniques, and Results (Third edition)
2017. John Wiley & Sons, Ltd. In press (2017).
[24] Israel O, Pellet O, Biassoni L, Palma DD, Estra-
da-Lobato E, Gnanasegaran G, Kuwert T, Fougere C,
Mariani G, Massalha S, Paez D, Giammarile F. Two
decades of SPECT/CT – the coming of age of a tech-
nology: An updated review of literature evidence. Eur.
J. Nucl. Med. Mol. Imaging 2019; 46:1990-2012.
[25] Carvalho HA, Villar RC. Radiotherapy and im-
mune response: the systemic effects of a local treat-
ment. Clinics (Sao Paulo) 2018; 73(Suppl 1), e557s.
[26] Puskin J. Health risks from exposure to low level
of ionizing radiation. National Research Couyncil
(US) Board on Radiation Effects Research 1998; BEIR
VII, Phase I, Letter Report.
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
32 Số 65 - Tháng 12/2020
[27] Haubner F, Ohmann E, Pohl F, Strutz J, Gassner
HG. Wound healing after radiation therapy: Review of
the literature. Radiat Oncol. 2012;7:162.
[28] El-Hifnawi HN. Radiation sterilization of two
commonly culture media used for bacterial growth.
IAEA: EG0800341.
[29] Naeem M, Idrees M, Aftab T, Alam MM, Khan
MMA, Uddin M, Varshney L. Radiation processed
carrageenan improves plant growth, physiological
activities, and alkaloids production in Catharanthus
roseus L. Adv. Bot. 2015; 150474.
[30] Dewen Q, Yijie D, Yi Z, Shupeng L, Fachao S.
Plant immunity inducer development and applica-
tion. Mol. Plant. Microbe. Interact. 2017; 30:355-360.
[31] Dzung PD, Phu DV, Du BD, Ngoc LS, Duy NN,
Hiet HD, Nghia DH, Thang NT, Le BV, Hien NQ. Ef-
fect of foliar application of oligochitosan with differ-
ent molecular weight on growth promotion and fuit
yield enhancement of chili plant. Plant Prod. Sci.
2017; 20:389-395.
[32] Rochana W, Niroshan W, Tiruchenduran S, Su-
laiman MA, Mahesh D. Effects of chitosan on growth,
immune response and survival of juvenile tiger
shrimp (Penaeus monodon Fabricius, 1789). Int. J.
Fish. Aquat. Stud. 2019; 7:129-133.
[33] Duy NN, Phu DV, Quoc LA, Lan NTK, Hai PD,
Nguyen NV, Hien NQ. Effect of oligochitosan and
oligo-β-glucan supplementation on growth, innate
immunity and disease resistance of striped catfish
(Pangasianodon hypothythalmus). Biotechnol. Appl.
Biochem. 2017; 64:564-571.
[34] Alam SM, Ansari R, Khan MA. Application of
radioisotopes and radiation in the field of agriculture:
review. Online J. Biol. Sci. 2001; 3:82-86.
[35] Kharkwal MC. A brief history of plant mutagene-
sis. In: Shu QY, Forster BP, Nakagawa H, editors. Plant
Mutation Breeding and Biotechnology. Wallingford:
CABI 2012; 21-30.
[36] Oladosu Y, Rafii MY, Abdullah N, Ghazali H, As-
faliza R, Rahim HA, Miah G,
Usman M. Principle and application of plant mu-
tagenesis in crop improvement: A
review. Biotechnology & Biotechnological Equip-
ment. 2016; 30:1-16.
[37] Pathirana R. Plant mutation breeding in agricul-
ture. CAB Reviews Perspectives in Agriculture Veteri-
nary Science Nutrition and Natural Resources. 2011;
6:1-20.
[38] Kharkwal MC, Shu Y. The role of induced muta-
tions in world food security. In: Shu QY, editor. In-
duced Plant Mutations in the Genomics Era. Rome:
Food and Agriculture Organization of the United Na-
tions 2009; 33-38.
[39] Mutant Data Base. [Internet]. 2020. Available
from: https://mvd.iaea.org/#!Search [Accessed: 06-
12-2020]
[40] Morita R, Kusaba M, Iida S, Yamaguchi H, Nishio
T, Nishimura M. Molecular characterization of muta-
tions induced by gamma irradiation in rice. Genes
Genet. Syst. 2009; 84:361-370.
[41] Sikder S, Biswas P, Hazra P, Akhtar S, Chattopad-
hyay A, Badigannavar AM. Induction of mutation in
tomato (solanum lycopersicum L.) by gamma irradia-
tion and EMS. Indian J. Genet. 2013; 73:392-399.
Moh CC. The use of radiation-induced mutation in
crop breeding in Latin America and some biological
effects of radiation in coffee. Int. J. Appl. Radiat. Isot.
1962; 13:467-475.
[43] Astuti NK, Suputa, Putra NS, Indarwatmi M.
Gamma irradiation treatement of Bactrocera dorsalis
Hendel (Diptera: Tephritidae) in Snake Fruit. Jurnal
Perlindungan Tanaman Indonesia 2019; 23:242-249.
[44] Lâm ND, Diệp TB, Tú DM. Nghiên cứu sử dụng
bức xạ gamma liều thấp để xử lý kiểm dịch ruồi đục
quả Phương Đông (Bactrocera dorsalis Hendel) lây
nhiễm trên quả thanh long. Tạp chí Sinh học 2004;
26:35-40.
[45] Mahmoud MF, Barta M. Effect of gamma radia-
tion on the male sterility and other quality parameters
of peach fruit fly, Bactrocera zonata (Saunders) (Dip-
tera: Tephritidae). Hort. Sci. 2011; 38:54-62.
[46] Bloomfield CIA, Fanson BG, Mirrington R,
Gillespie PS, Dominiak BC. Optimising irradiation
dose in mass-produced Queesland fruit fly, Bactrocera
tryoni, for sterile insect release: the incorporation of
residual effects on F1 progeny. Entomol. Exp.s Appl.
2017; 162:168-177.
[47] Food irradiation: What you need to know. Food
and Drug Administration (FDA) 2016.
[48] Tallentire A. The Spectrum of Microbial Radia-
tion Sensitivity. Radiat. Phys. Chem. 1980;15:83-89.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
ung_dung_buc_xa_ion_hoa_trong_sinh_hoc_va_y_te.pdf